← Quay lại trang sách

HALLELUJAH

Ngày thi cuối của vòng Một.

Nishina Masami đã sớm lượn một vòng lấy tin từ gia đình homestay, vừa đặt chân tới hội trường. Ngay sau khi vòng Một kết thúc, ban tổ chức sẽ lập tức thông báo danh sách thí sinh lọt vào vòng Hai, nên lúc này các thí sinh đang cố kìm nén tâm trạng của mình. Được cái chỉ có mình Masami tới lấy tin, nên mấy người ở homestay đều cho phép cô. Những người sống theo kiểu homestay cũng quen với mấy chuyện thế này rồi, họ nói theo kiểu “Khi nào về nước, em sẽ cho bố mẹ xem” vì có người ở Nhật quay chụp lại tình hình của mình nên ai nấy đều vui vẻ nhận lời. Bài toán chính của Masami nằm ở Takashima Akashi, nên chị muốn theo sát anh vào thời điểm thông báo kết quả.

Akashi vừa mới bị một phen kinh hồn bạt vía vì màn biểu diễn của ứng cử viên ngôi vô địch hôm trước, nhưng cũng đã lấy lại được tâm trạng vào buổi sáng sau đó. Hôm nay, họ dự định sẽ cùng nhau nghe trình diễn và thông báo danh sách thí sinh lọt vào vòng trong. Nay vợ anh vướng lớp, không thể tới được. Không phải chị để ý nhưng có vợ bạn ở bên, chị lại phải căn ke giữ khoảng cách, khó bình tĩnh được. Khi biết mình sẽ ở riêng với Akashi nghe kết quả, Masami thầm vui trong dạ, cảm thấy vô cùng đặc biệt.

Lúc Masami đặt chân tới hội trường đã thành quen thuộc, chị kinh ngạc trước lượng quan khách đông đảo hôm nay. Bầu không khí căng thẳng khác hẳn mấy ngày trước. Không, phải nói là đang kìm nén niềm phấn khích.

“Ghê chưa kìa? Hôm nay đông khách quá.”

Sau khi trao đổi vài câu chào hỏi với Akashi đợi mình ngay lối vào, chị liền mở lời bình luận, Akashi gật đầu.

“Ngày cuối vòng Một mà. Sau đó còn thông báo kết quả nữa. Đây chính là cột mốc đầu tiên.”

Đối với khán giả, không dễ gì chứng kiến những khoảnh khắc định mệnh thú vị như thế.

Akashi đáp lời, cố khoác lên mình vẻ bình thản. Thật ra trái tim anh đã dộng thình thình suốt từ lúc thức dậy sớm nay rồi.

Mình có lọt được vào vòng Hai không? Màn trình diễn của mình được xếp vào dạng nào. Sau bảy tiếng nữa, mình sẽ cười hay sẽ xuôi vai thất vọng và báo cho Machiko hay tin “Anh trượt rồi”.

Bất chợt, hình ảnh bản thân cố giấu đi nỗi thất vọng nhấc máy gọi cho vợ, cả cái giọng cố ra vẻ không để tâm của mình cũng vang lên sống động trong đầu. Akashi hấp tấp xua ngay hình ảnh đó đi.

“Mà này, hôm nay còn có sự xuất hiện của nhiều thí sinh đáng chú ý lắm đấy.”

Lướt qua tập chương trình, Masami cũng gật gù “À ừ”.

“Hoàng tử ong mật nhỉ? Còn một thí sinh người Nga nữa, thấy bảo người này đạt hạng ba trong đợt thi lần trước đấy.”

“Tớ chả nhớ là ong mật hay mật ong nữa, nhưng được đánh giá khá cao trong cuộc tuyển chọn ở Paris đó.”

“Người vô địch lần trước cũng kiểu vậy thì phải?”

Masami lật xoành xoạch tập chương trình, tìm tới đúng trang. Akashi cũng ngó vào.

Kazama Jin.

Hồ sơ trống không. Cậu bé cũng mới mười sáu thôi, khả năng cao là nhân vật chẳng ai biết tới.

“Ôi, đáng yêu ghê. Trẻ quá, mới mười sáu thôi.”

“Cậu bỏ ngay giọng điệu bà cô già đó đi.”

Akashi cười nhạt. Nhưng ánh mắt đã đóng đinh ở tên người chỉ dạy. Chắc ai cũng vậy khi nhìn trang hồ sơ này. Ngay cả chuyện dám đề Hoffmann là thầy dạy cũng khó tin lắm rồi. Chưa biết đây là vận may hay điềm hung đối với thí sinh này nữa.

Akashi khẽ lật tới.

Sự chú ý của anh nằm ở một thí sinh khác.

Gương mặt trên bức ảnh vẫn mang đường nét y hệt trong ký ức anh. Đôi mắt đen to tròn với ánh nhìn thẳng không màu mè.

Eiden Aya. 20 tuổi.

Anh bối rối không biết nên nghĩ ra cô bé đó đã hai mươi rồi, hay ồ, mới hai mươi thôi sao nữa.

Tuy không mang lại sự ồn ào bàn tán như hoàng tử ong mật hay hoàng tử Juilliard, nhưng sự trở về của cô ấy cũng là một đề tài bàn tán trong cuộc thi lần này.

Cô bé đó sẽ biểu diễn ra sao. Cô bé đó sẽ trở lại như thế nào đây.

Akashi hâm mộ cô. Anh từng mua cả đĩa, từng đi nghe buổi hòa nhạc của cô.

Anh vẫn lén gọi những các thần đông ít nhiều lập dị là “gà con khoe tiếng gáy”, nhưng cô bé này khác hẳn những đứa trẻ kia, vô cùng tự nhiên. Khi lắng nghe màn biểu diễn của cô bé, Akashi nhớ rõ cảm giác nên đây là một “thiên tài” chứ không phải “thần đồng”.

Cô bé chung sống cùng âm nhạc như một lẽ dĩ nhiên.

Anh cảm động sâu sắc trước điều đó. Vì vậy, anh đã rất ngạc nhiên khi hay tin mẹ cô bé qua đời, cô đã hủy ngang buổi hòa nhạc và dừng mọi hoạt động sân khấu. Xét theo một nghĩa nào đấy, anh cảm thấy như mình bị phản bội. Không thể ngờ một cô bé được âm nhạc yêu thương đến như thế, được tặng cho “món quà” như vậy lại có thể từ bỏ âm nhạc.

Tuy nhiên, một thời gian dài sau đó, anh dần nuôi suy nghĩ rằng chính vì là “thiên tài” nên cô bé mới chọn cách bỏ ngang. Cách ra đi như thế có lẽ hợp với cô bé hơn.

Chuyện này chỉ còn lưu lại như một “truyền thuyết” đâu đó trong lòng anh, nên sự trở lại lần này mang tới cho anh nhiều cảm xúc hỗn độn.

Nó giống kiểu người hâm mộ vỡ mộng khi thần tượng từng nói “tôi muốn có cuộc sống bình thường” lại quay về hoạt động nghệ thuật.

Tất nhiên, một mặt anh vẫn kỳ vọng “được nghe lại một lần nữa” tiếng đàn đó. Kỳ vọng được tự mình chứng thực sự xúc động sâu xa khi xưa là chân thật, được trải nghiệm lại nó một lần nữa.

Anh cũng lo sợ mình sẽ phải thất vọng. Tuy nhiên, họ giờ là thí sinh trong cùng một cuộc thi, anh không thể phủ nhận rằng mình cũng có chút mong được thất vọng “Hóa ra chỉ ở trình độ này thôi”, muốn phần nào được bỉ bôi thần tượng một thời.

Akashi ngắm mãi bức ảnh đó, tâm trạng đầy phức tạp.

“Cảm ơn các bạn.”

“Anh hãy cố lên nhé.”

Masaru tươi cười ký lên tập chương trình và đưa trả lại. Mấy cô gái trẻ liền nhìn nhau kêu váng lên rồi nhanh chóng bỏ đi mất.

Mỗi giờ giải lao kết thúc một lượt trình diễn, tình trạng này lại diễn ra. Tuy đây là chuyện đáng mừng, nhưng cậu cũng phiền bực vì bị ngắt mạch đánh giá của mình.

Tập chương trình đăng nội dung biểu diễn của từng thí sinh từ vòng Một tới tận Chung kết. Đọc kỹ lưỡng cái này cũng tìm ra nhiều điểm thú vị. Nội dung biểu diễn là biểu hiện hùng hồn, và mỗi bản nhạc đều cho thấy kỹ năng, sở thích và chiến lược của từng thí sinh trong cuộc thi. Một tập giấy tưởng như chỉ ghi lại tên của các tiết mục, nhưng lại chỉ dẫn cho ta nhìn thấy các ngóc ngách khác nhau. Cậu thấy nhiều chỗ khá khó hiểu như tại sao lại tập hợp kiểu repertory [58] thế này, chắc muốn khoe kỹ thuật đây hay tại sao lại chọn mấy khúc nhạc này và xếp theo thứ tự thế này nhỉ. Vòng Một và vòng Hai khoanh vùng giới hạn bản nhạc hẳn hoi nên sự lựa chọn cũng không nhiều, nhưng vòng Ba là một tiếng độc tấu, chính là thời điểm thể hiện tính cá nhân. Toàn bộ là Chopin hay Rachmaninoff, các bản nhạc cận đại hay mang tính nghiên cứu truyền thống, các bản nhạc họ muốn chơi hay các tiết mục sở trường.

Nhưng nói gì thì nói, lựa chọn của cậu bé này ở vòng Một không biết nên bảo là thiên tài ngất trời hay kẻ ngốc ba xàm đây.

Masaru đang xem trang riêng của thí sinh sắp sửa lên sân khấu, Kazama Jin. Cậu ta chọn ba bản nhạc cho vòng Một như sau.

Bach - “The Well-tempered Clavier” Quyển 1, No.1 Cung Đô trưởng

Mozart - Piano Sonata No.12 Cung Fa trưởng K. 332 Chương 1

Balakirev - “Islamey”

Thật ra, cậu vẫn còn hiểu được khúc “Islamey”. Hai khúc của Bach và Mozart không khó lắm về mặt kỹ thuật, nên đem ra khúc nhạc khó nhất nhì trong các bản nhạc dành cho piano cỡ “Islamey” ra khoe kỹ thuật để giành vị trí nhất nhì là một chiến lược chính xác.

Mấy năm gần đây, kỹ thuật biểu diễn ngày càng thăng tiến, nên những tác phẩm từng hiếm khi được chọn thi như “Islamey” cũng dần xuất hiện nhiều hơn.

Nhưng “The Well-tempered Clavier” Quyển 1, No.1 lại khác.

Khúc nhạc này nổi tiếng đến độ những người không quen với nhạc cổ điển nhất định cũng từng nghe qua. Cần phải có rất nhiều dũng khí để chọn một bản nhạc có độ nổi tiếng như thế, bởi người nghe sẽ liên tưởng tới rất nhiều màn trình diễn nổi danh khác trong quá khứ. Đã thế lại còn đem đi dự thi.

Mấy từ “chẳng biết xấu hổ” không khỏi hiện lên trong đầu trước bản nhạc tiếp theo của Mozart. Tác phẩm này cũng thuộc tốp đầu của những danh khúc, nói thẳng ra là khó nhằn. Cậu bé này còn đường hoàng sắp xếp hai ca khúc như vậy liền nhau, đây là ngây ngô hồn nhiên, hay biết rồi vẫn cố làm.

Masaru trầm tư.

Ừm, khoan đã nào. Chưa chắc đã do Kazama Jin đâu. Đây là những bản nhạc dự thi vòng Một cuộc thi đầu đời của cậu bé, có thể giáo viên đã chọn hộ thì sao.

Nếu đây là sự sắp xếp từ hồi Yuuji von Hoffmann hồi còn sống, chắc chắn là biết rồi vẫn cố làm. Nếu vậy, tức là ông khá tự tin với những bản nhạc này.

Masaru bất giác huýt sáo.

Vụ này hay đấy. Đáng để trông chờ.

Những tiếng vỗ tay rào rào đột nhiên vang lên khắp tứ phía, Masaru ngỡ ngàng thấy thí sinh mặc bộ váy vàng trên sân khấu đã đứng dậy chào khán giả từ lúc nào. Giờ cậu giờ mới nhận ra màn trình diễn đã kết thúc và mình chẳng nghe được chút gì.

Ở một nơi sâu bên trong cánh gà, thợ lên dây Asano Koutarou đang vô cùng bối rối.

Hình ảnh cậu thiếu niên kia hiện lên trong đầu.

Sắp sửa tới lượt biểu diễn của cậu ta rồi. Và cũng là lượt trình diễn của riêng gã.

Gã là người trẻ tuổi nhất trong ba thợ lên dây được thương hiệu đàn cử sang hỗ trợ cuộc thi. Công việc lên dây cho các cuộc thi vô cùng vất vả, nhưng là niềm vinh dự đối với thợ lên dây đàn. Gã đã ao ước phụ trách công việc này từ lâu, và đây là lần đầu tiên được cử đi. Gã căng sức làm việc và thấm thía được công việc ngoài hiện trường này căng thẳng hơn nhiều so với tưởng tượng, cũng như mọi người từng kể bận đến không ngủ nổi là thế nào. Thể lực là một vấn đề nhưng họ rất căng thẳng thần kinh vì phải làm việc với nhiều thí sinh lần đầu gặp mặt, lắm khi còn chẳng hiểu thông ngôn ngữ, nhưng vẫn phải cho ra thứ âm thanh thí sinh yêu cầu. Gã đã ghi chú lại rất chi tiết, nhưng mỗi khi vô thức nghĩ tới việc phải tái hiện đủ thứ âm thanh và hình ảnh khác nhau, gã chẳng thể thả lỏng đầu óc chút nào. Nhiều thí sinh còn lây cả sự căng thẳng hồi hộp của họ sang người gã, lắm lúc đôi bên còn cùng run lên trong một tích tắc.

Nếu là các nghệ sĩ chuyên nghiệp, gã có thể thu thập được một số thông tin như người đó tính cách ra sao, thích cách lên dây kiểu gì. Nhưng giờ gã không có được bất cứ thông tin gì từ trước, người ta yêu cầu gì là phải chỉnh đàn trực tiếp theo ý của họ.

Gã vừa kiệt sức trước một cô bé khó tính đến từ Pháp cứ luôn miệng gắt “Đây không phải âm của tôi” thì cậu bé đó xuất hiện. Một cậu bé ngây ngô người Nhật Bản. Riêng việc có thể trao đổi cùng ngôn ngữ đã may mắn lắm rồi.

Cháu là Kazama ạ. Phiền chú giúp cho.

Thiếu niên cúi gập đầu chào.

Chú là Asano, mong cháu giúp cho. Chú sẽ cố gắng giúp cháu chơi đàn thoải mái nhất.

Asano cúi chào, lặp lại những từ ngữ cố định với mọi thí sinh.

A, cháu sao cũng được ạ. Cây đàn đã tốt sẵn rồi mà.

Thiếu niên lập tức đáp vậy. Em nói “Chào chú nhé,” rồi tính bỏ đi luôn. Asano không tin vào lỗ tai mình.

Sao cũng được là thế nào?

Asano gãi đầu. Gã nghe nói cậu bé này mới mười sáu tuổi, dự thi lần đầu. Không có lý do gì cậu bé không biết sự quan trọng của công việc lên dây, nhưng liệu gã có nên giải thích thêm?

Mọi người đều có cách tiếp xúc khác nhau, thích các loại âm khác nhau, và âm thanh của piano biến hóa hơn cháu tưởng đấy. Ta cũng cần lên dây cho hợp với bản nhạc cháu chơi nữa. Thôi thì cháu cứ thử chơi một bản gì coi.

Ừm.

Lần này tới lượt thiếu niên gãi đầu.

Cậu bé tỏ ra chút do dự, chạy vài bước nhỏ về phía cây đàn, điều chỉnh ghế rồi ngồi xuống, dạo qua một giai điệu tươi vui.

Asano bất thần thẳng lưng lên.

Hoàn toàn không giống với tiếng đàn của cô bé khi nãy. Đây có thực là tiếng đàn piano của công ty mình không vậy?

Trước vẻ ngạc nhiên của gã, cậu bé còn khẽ ngâm nga. Các nhân viên trên sân khấu và bên cánh gà đều mắt tròn mắt dẹt.

Love me tender [59] .

Asano ngơ ngác.

Có lẽ là một màn trình diễn ngẫu hứng. Cậu bé chơi một hợp âm phù hợp với quãng đàn, rồi vui vẻ hát theo. Chất giọng không qua đào tạo, nhưng khá hay và thư thả.

Tuy nhiên, gã chưa từng thấy thí sinh nào tới bàn về chuyện lên dây đàn như thế này. Bình thường, họ sẽ chơi một chút bản nhạc mình sẽ dự thi, hoặc một đoạn nào cần kiểm tra độ vang.

Thiếu niên đột ngột dừng chơi. Cậu “ừm” một cái, ngước lên khoảng không, rồi lại dáo dác nhìn quanh.

Có chuyện gì sao?

Asano bần thần cất tiếng hỏi. Nhưng cậu thiếu niên chỉ “ừm” rồi đứng phắt dậy, thình lình quỳ rạp xuống dưới sàn, áp tai nghe thử mặt sàn.

Sao thế?

Gã vội vàng tiến lại gần, nhưng thiếu niên chỉ giơ tay lên ngăn lại. Thiếu niên lắng nghe mãi một lúc lâu, cuối cùng nói “Ra vậy” rồi đứng dậy và bước vào phía trong sân khấu.

Chú Asano, ta có thể di chuyển cây đàn này không ạ?

Thiếu niên chỉ vào cây đại dương cầm nằm ở góc phải.

Ba cây đàn khác thuộc nhiều hãng khác nhau đang đặt sẵn ở mặt trong sân khấu phục vụ cho cuộc thi. Các thí sinh có thể lựa chọn đàn.

Asano nghe theo, cùng thiếu niên dịch cây đàn đó khoảng 30 centimet.

Thiếu niên ngồi xuống ghế một lần nữa, chơi thử một lượt.

Ừm, thế là ổn rồi.

Cậu bé gật gù và quay sang Asano.

Chú Asano, chú có thể để cây đàn piano kia ở đúng chỗ đó khi cháu chơi đàn được không ạ?

Được chứ, các cây đàn khác thì sao? Các cây đàn khác cũng có thể di chuyển đó.

Thiếu niên kiên quyết lắc đầu.

Dạ thôi, chỉ cần cây đàn kia là được ạ. Còn cây đàn này thế là ổn rồi.

Thiếu niên đứng dậy, coi như đã hoàn thành xong công việc.

A, đúng rồi, đúng rồi. Cháu thấy âm thanh của phím này với phím này có hơi lạ. Cháu chơi thử thì thấy hai phím này có hơi gập ghềnh.

Thiếu niên như chợt nhớ ra, liền trỏ vào hai phím đàn, rồi nhanh chóng rời đi.

Asano liền kiểm tra thử hai phím đàn thiếu niên vừa chỉ cho. Gã liền thấy hai phím đàn này quả thật có bị lệch, một bên hơi cao còn một bên hơi thấp, nhưng tiểu tiết này hầu như chẳng ai nhận ra. Gập ghềnh, cách nói kỳ quái nhưng lại rất chuẩn.

Thằng bé có đôi tai tốt quá.

Asano quệt mồ hôi lạnh. Cả cô bé cứ khăng khăng đòi “âm của tôi” và Asano đều hoàn toàn không nhận ra. Gã vội vã lấy cuộn băng keo ra khỏi túi và chạy tới chỗ mình vừa cùng cậu bé di chuyển cây đàn piano khi nãy. Gã dùng băng keo đánh dấu sàn và viết số thứ tự dự thi của cậu bé kia lên bằng bút không xoá, lòng thầm nghĩ tí nữa phải đi giải thích chuyện này cho người phụ trách của hãng đàn này mới được.

Bảng tên nằm ở góc sân khấu đã được thay xong. Hàng ghế khán giả ồn ào háo hức đến lạ thường.

81 KAZAMA JIN

Dạo gần đây, để phù hợp với cách ghi tên của từng quốc gia, tên của người Nhật cũng được viết theo kiểu đưa họ lên trước.

Mieko nhận ra mình đang hồi hộp đến thế nào. Chắc hẳn Simon hay Smirnoff và cả Nathaniel cũng đang mang chung sự hồi hộp. Đương nhiên, Olga và các giám khảo khác lại tràn trề hứng thú. Một đứa trẻ được “đám cá biệt” đào xới ra ở Paris, chắc không thiếu kẻ đang chống mắt lên coi đứa trẻ đó thuộc trình độ nào.

Phán đoán sai lầm? Hay chế nhạo?

Mà không, vấn đề không phải là cách những kẻ đó đánh giá nhóm của bà. Bản thân Mieko đang hào hứng từ tận đáy lòng, muốn xem xem âm nhạc của thiếu niên Kazama Jin đó thuộc dạng nào.

Ấn tượng đầu tiên lúc đó liệu có sai lầm hay không?

Bà muốn kiểm chứng chắc chắn.

Mieko khoác lên vẻ mặt thản nhiên, nhưng cõi lòng đang âm ỉ trông đợi vào thời khắc ấy.

Quản lý sân khấu Takubo Hiroshi không khỏi phấn khích trước bầu không khí dị thường nơi dãy ghế khán giả.

Ông khẽ nhìn, thấy giờ giải lao đã quá nửa nhưng khán giả vẫn lũ lượt tiến vào. Hình như một số người còn phải đứng lố nhố đằng sau nữa.

Có ổn không nhỉ?

Ông bất giác ngoái nhìn thiếu niên đang đứng chờ sẵn nơi cánh gà. Ông lập tức hối hận vì hành động này có thể mang đến sự xáo trộn trong lòng thí sinh, nhưng thiếu niên có vẻ hoàn toàn không để ý.

Trong khi các khán giả đang hớn hở trông đợi, thì chủ nhân của mọi mong chờ đó đang tỏ ra khá thoải mái, còn lấy ngón út ngoáy tai nữa.

Nhân vật tầm cỡ thật sự, hay một chàng ngố đây.

Takubo không khỏi sững sờ.

Cậu bé này chẳng có chút gì nổi bật, đến nỗi người ta còn không chắc cậu có đang hiện diện hay không. Còn xuề xoà hơn cả nhân viên ấy chứ. Cậu mặc sơ mi trắng và cái quần đen lùng thùng. Có khi là quần đồng phục học sinh không chừng.

Thêm một vấn đề nữa, quan khách quá đông sẽ ảnh hưởng tới độ vang của âm thanh. Thân thể khán giả hút mất một lượng lớn âm thanh. Thêm số người đứng dọc theo dãy tường đằng sau hay men theo lối lên xuống nữa. Sự hiện diện của họ càng khiến âm thanh biến đổi rất nhiều. Ông có nên báo cho thiếu niên hay chuyện này không.

Takubo biết lời nói khinh suất chỉ tổ tạo thêm áp lực cho đứa trẻ, nhưng đành đánh cược vào sự “ngố” của thiếu niên. Hơn nữa, ông nghe bảo cậu bé sở hữu một đôi tai cực kỳ thính nhạy. Chắc chắn em sẽ hiểu được điều ông muốn nói.

“Cậu Kazama này.”

Ông vẫy cậu bé, ra cái giọng tình cờ.

“Số lượng khán giả đông quá nhỉ, nhiều người còn phải đứng nữa. Chắc những người khách đứng ở mặt tường sẽ hút khá nhiều âm thanh đấy. Cháu hãy cố chơi to hơn so với bình thường nhé.”

“A, vâng ạ.”

Cậu bé chợt hiểu.

“Đúng rồi, khán giả. Cháu hiểu rồi ạ.”

Thiếu niên cũng ngó qua ô cửa tò vò cùng Takubo quan sát hàng ghế khán giả, rồi cân nhắc trong một thoáng. Trên sân khấu, Asano đang kiểm tra lại thành quả lên dây.

Thiếu niên ngẩng phắt đầu lên nói với Takubo.

“Xin lỗi, bác nhắn chú Asano một câu giùm cháu được không ạ? Liệu chú ấy có thể đẩy lại cây đàn cháu nhờ chú ấy dịch chuyển hôm trước về vị trí cũ, lần này nhích về hướng ngược lại độ 30 centimet.”

“Hả?”

Takubo vội vã rút từ túi áo ngực ra cuốn sổ và cây bút bi, hỏi lại chỉ thị của cậu thiếu niên.

Thiếu niên liền vẽ hình chú thích lên tập giấy và đề gửi vài lời đến Asano.

Takubo hấp tấp bước ra sân khấu, đưa tờ giấy nhắn cho Asano và truyền đạt lại ý của cậu bé.

“Có ổn thật không đấy?”

Asano xem tờ giấy nhắn, hỏi lại với vẻ nghi hoặc nhưng khi nghe ông giải thích về việc quá đông khán giả, gã như hiểu ra liền bỏ đi kê lại cây đàn. Hàng ghế khán giả lao xao cả lên. Đương nhiên rồi. Thợ lên dây đang làm việc dở chừng lại bỏ đi kê lại mấy cây đàn không dùng tới.

Không còn thời gian.

Asano quay lại chỗ cây đàn piano ở trung tâm sân khấu một lần nữa, kiểm tra nốt độ vang của nó rồi hấp tấp bỏ vào trong cánh gà. Suýt soát thời gian. Lần nào cũng vậy, Asano đều toát mồ hôi hột, sao cho không bị trễ giờ.

“Cháu xin lỗi, nhờ chú việc gấp như vậy.”

Thiếu niên cúi thấp đầu.

“Chú đặt ở đó được chứ?”

Asano ngoái đầu về phía sân khấu.

Thiếu niên nhòm ra ngoài ô cửa sổ xem xét cây đàn piano, rồi gật đầu, “Vâng, cháu nghĩ là ổn ạ.”

Takubo nhìn chiếc đồng hồ đeo tay.

May quá, vẫn kịp giờ.

“Vậy thì, cậu Kazama, đến giờ rồi.”

Ông mở cánh cửa quay, thiếu niên chậm rãi bước ra giữa màn ánh sáng. Dáng vẻ thong thả như đang dạo bộ qua cửa hàng tiện lợi ở gần nhà mua lon nước trà vậy.

Ngay khoảnh khắc cậu thiếu niên bước ra, tiếng vỗ tay hoan hô rầm trời ập đến. Cậu bé giật mình khựng lại theo phản xạ, cúi gập đầu chào khiến những tràng cười rộ lên từ hàng ghế khán giả.

Còn trẻ con quá.

Nathaniel thấy thái độ “thơ trẻ tự nhiên” không chút kiểu cách của em, bỗng thấy bớt hằn học trong một tích tắc.

Mong nó không bị đánh gục trước sự kỳ vọng của khán giả.

Mối lo lắng vừa dấy lên trong khoảnh khắc, ông bỗng giật thột khi thấy nét mặt thiếu niên nhìn về phía cây đàn piano sau khi ngẩng đầu lên hoàn thành màn chào hỏi.

Nét mặt đó là sao? Sắc màu trong đôi mắt đó. Hoàn toàn khác lúc thằng bé bước ra.

Chữ “mắt quỷ [60] ” hiện lên trong đầu nhưng ông vội vàng dập tắt ngay. Gương mặt của cậu bé (như thể) đang bị hút vào cây đàn, không hề để mắt tới thứ gì chung quanh, và cũng không mang một chút nét ngây ngô lúc bước ra sân khấu.

Thiếu niên ngồi thịch xuống ghế, còn chẳng thèm điều chỉnh ghế mà lập tức chơi đàn luôn.

Ơ!

Nathaniel nhận rõ các giám khảo khác ngoài mình cũng đang giật thột.

Có lẽ thính giả bên dưới cũng vậy chăng. Cả hội trường vẫn còn đang ngơ ngác chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra.

Âm thanh này là sao? Cậu bé chơi theo kiểu gì vậy nhỉ?

Hệt như những hạt mưa treo lủng lẳng không chịu được sức nặng của chính mình mà rơi xuống, từng giọt, từng giọt một...

Cây đàn này đã lên dây đặc biệt theo kiểu gì sao? Hình như người thợ lên dây khi nãy đã xê dịch một cây đàn piano đằng sau. Chuyện đó liệu có liên quan gì không nhỉ?

Nathaniel thầm lắc đầu trong lòng.

Lên dây đàn thôi không đủ sức thay đổi âm thanh của cây đàn đến mức đó. Nó vẫn là cây đàn thí sinh trước đó đã chơi.

Vậy sao ta lại có ấn tượng như âm thanh từ trên trời rót xuống vậy nhỉ?

Dù ở xa hay gần, các giai điệu chủ lực lũ lượt kéo đến như thể cây đàn đang tự chơi lấy, chẳng khác một dàn âm thanh nổi gồm rất nhiều người cùng biểu diễn.

Đúng, thứ âm thanh này mang tính lập thể rất bất thường. Sao có thể làm được như vậy nhỉ?

Nathaniel chợt nhận ra mình đang rất sốc, và càng sốc hơn về chính điều đó.

Sao lại tồn tại một “Well-Tempered Clavier” hồn nhiên mà thần thánh như thứ âm nhạc của thiên đường đến vậy. Anh chưa từng nghe màn trình diễn nào như thế trước đây.

Takashima Akashi cũng đang rất hỗn loạn.

Sao có thể cảm nhận được từng âm thanh vang đọng đến thế này? Là nhờ lên dây đàn sao?

Anh nghĩ tới đó, chợt ngộ ra. Anh định ngoái đầu lại nhưng phải cố nhịn.

Không, không thể có chuyện đó. Với chừng này khán giả đứng tràn cả mặt tường. Vậy mà, âm thanh vẫn vang dội đến thế.

Akashi bất chợt lạnh người.

Một thiên tài bất định, và chưa rõ thiên tính. Khác hoàn toàn Masaru Carlos.

Chẳng mấy chốc, giai điệu chuyển từ Bach sang Mozart, âm sắc từ bản nhạc đầu tiên càng thêm rực rỡ và lộng lẫy hơn cả. Ánh sáng trên sân khấu như càng rạng rỡ thêm đúng theo nghĩa đen.

Toàn bộ khán giả đang nuốt nước bọt, chịu đựng áp lực khủng khiếp. Akashi cũng là một bộ phận trong số những khán giả đó.

Trái tim anh xao xác. Cảm giác hồi hộp bừng lên khắp châu thân.

Không ngờ, chính là thứ giai điệu tối cao của Mozart. Không chút băn khoăn, không chút nghi ngại như một nụ hoa sen trắng muốt rũ bùn nở bung. Luồng ánh sáng toả xuống như đôi bàn tay nâng niu lấy nó.

Cậu bé này đã luôn tủm tỉm cười từ khoảnh khắc ngồi xuống.

Akashi nhận ra. Cậu bé không hề nhìn vào phím đàn. Cứ như thể không phải em đang chơi đàn, mà là cây đàn đang mê hoặc em. Cứ như đứa trẻ chỉ cần thì thầm với cây đàn, cây đàn liền vui vẻ chơi đùa cùng nó vậy.

Oa.

Cùng với các khán giả khác, Akashi như tê liệt khi cảm thấy được tài năng tột độ của Mozart qua chương đầu bản piano Sonata No.12. Hễ nghe tới bản nhạc này, anh đều run rẩy trước giai điệu kỳ diệu được tạo nên từ vài trăm năm trước, nên ngay khi giai điệu vang lên, sự phấn khích như luồng điện chạy rần rật qua toàn thể hội trường. Akashi nổi da gà.

Mozart này, sẽ chạy xa tới tận đâu đây?

Tuy nhiên, anh chợt nhận ra tiếng nhạc đã đổi khúc, khúc tremolo bất ổn vang vọng khắp nơi. Đã sang khúc nhạc thứ ba - “Islamey”.

Ủa, làm thế nào để cây đàn phát ra âm thanh kiểu thế nhỉ?

Masaru cũng sửng sốt trước ảo giác cây đàn đã tự bật ra thành tiếng trước cả khi cậu bé kia chạm vào, như cây đàn piano tự chơi.

“The Well-tempered Clavier”. Chỉ có thể nói là màn biểu diễn độc nhất vô nhị của cậu ta, Kazama Jin. Bản thân nó rồi sẽ trở thành tiêu chuẩn riêng.

Thứ âm thanh ngập ngừng nhưng ngập tràn niềm vui không gì miêu tả nổi. Không giống với bất cứ màn biểu diễn của ai khác.

Đơn giản mà gợi cảm, cũng có thể nói là một dạng khêu gợi...

Cậu không cảm nhận được bản nhạc.

Lắng nghe Mozart, và nhận ra là thế.

Hệt như cậu bé kia đang trình diễn một màn ngẫu hứng vừa chớm nghĩ ra vậy. Như thể khúc nhạc nổi tiếng hay giai điệu cậu vừa tạo nên cũng gọi ra cùng loại cảm xúc.

Tới bản “Islamey” này.

Chẳng lẽ cậu bé này không hề biết đây là một khúc nhạc khó?

Masaru linh cảm như vậy.

Thông thường, các thí sinh chuẩn bị chơi một bản nhạc khó sẽ gồng mình lên theo kiểu “Tôi sắp sửa phải chơi một bản nhạc khó”. Cả dân chuyên nghiệp cũng không ngoại lệ. Điều này tạo cảm giác bản nhạc càng thêm khó, người nghe cũng cảm thấy mình đang nghe một “bản nhạc khó”.

Nhưng cậu cảm thấy thiếu niên trước mắt mình không hề biết đến điều đó. Cậu bé chỉ cho đấy là một khúc nhạc thú vị, và chơi nó theo cách thú vị thôi.

Thật sự, cậu cảm tưởng đây là lần đầu tiên mình thấy khúc nhạc này lại thú vị đến thế.

“Islamey” hóa ra là một khúc nhạc thế này. Có lẽ đây là lần đầu tiên mình được lắng nghe người khác chơi bản nhạc này với tất cả sự nghiêm túc, bấm đầy đủ tất cả các nốt nhạc.

Masaru sởn gai ốc.

Cậu ta có thể làm cho khúc nhạc này âm vang tới độ đó sao.

Số lượng âm phải chơi mỗi lúc một nhiều, tốc độ tăng lên như thế, thì âm lượng sẽ mỏng đi, nhỏ dần. Nhưng mọi hợp âm của thiếu niên đều không đục đi chút nào, mà nghe rất rõ ràng. Khó chơi ra tiếng đàn lớn đến thế lắm. Cậu thấy tiếng đàn càng có lực hơn về nửa sau.

Hơn thế nữa, Masaru nhận ra một điều còn bất ngờ hơn nữa.

Masaru đã từng tập chơi chơi khúc nhạc này trước đây. Do hình thức và nhịp điệu của “Islamey” nên dù chơi đúng nhịp vẫn có chỗ cứ bị kéo giãn âm dẫn tới cảm giác chậm trễ. Cậu luôn cảm thấy “A, chỗ này hơi chậm rồi” ở cùng một chỗ nhưng thật ra đang chơi đúng nhịp. Như gặp ảo giác. Nhưng cậu không thấy điều này trong màn trình diễn của thiếu niên kia. Tức là tốc độ biểu diễn đủ nhanh để đầu óc cậu cảm nhận được nhịp điệu chính xác của bản nhạc... cũng có nghĩa là, cậu bé này đủ sức chơi các bản nhạc nhanh và khó, còn có thể tăng tốc để chơi những đoạn cực nhanh nữa.

Sức dồn đuổi ghê hồn.

Bản nhạc dần tới cao trào ở nửa sau. Giai điệu lấp lánh, hợp âm liên tục và ngày càng nhanh. Như thể từ cây đàn, mà không, phải nói là toàn bộ khoảng không gian lập thể rộng lớn đã thành bức tường âm thanh bay đi khắp hướng.

Khán giả bị thứ áp lực âm thanh đó thổi bay, tuyệt vọng trụ lại ghế ngồi. Họ chịu đựng cú sốc từ màn trình diễn dị thường kia cũng bởi vô số khoái lạc khó nắm bắt hình thái. Từng nhịp tremolo dày dặn như tiếng ì ầm của đất chẳng khác quả bóng cứng đang nảy thẳng vào mặt, vào mắt, vào tai và khắp thân thể.

Masaru cũng như các khán giả khác, cam chịu cơn thịnh nộ và để bản thân nuốt chửng trong niềm khoan khoái.

Trải nghiệm. Đây chính là trải nghiệm. Âm nhạc của cậu bé kia là “trải nghiệm”.

Âm thanh cuối cùng duyên dáng cất lên, cậu bé bật dậy khỏi ghế như đang chịu đòn phản lực, cúi rạp đầu chào và nhanh chóng rút lui.

Khán giả mất một lúc lâu để muộn màng nhận ra màn trình diễn như đòn tấn công vũ bão lên thân thể mình đã kết thúc, muộn màng nhận ra người trình diễn đã rời đi, sự im lặng khó xử bao trùm lên khắp hội trường trong một tích tắc.

Nhưng rồi giây tiếp theo, khán giả bừng tỉnh và những tiếng vỗ tay lẫn reo hò rộ lên như sắp diễn ra bạo động, chẳng thể nghe rõ bất cứ điều gì cả.

Tiếng hò la giận dữ, nhiệt huyết đến điên cuồng. Bao giọng nói rung chuyển cả hội trường. Rất nhiều người còn vô thức đứng cả dậy.

Vòng Một không cho khán giả gọi thí sinh trở lại sân khấu. Nhưng khán giả không chấp nhận điều đó.

Những lời reo hò, những tiếng chân giậm thình thịch, và tiếng vỗ tay.

Nhưng, cánh cửa quay màu trắng trên sân khấu vẫn trơ trơ không chịu mở ra, cho tới khi nhân viên ra thay bảng tên cho màn trình diễn tiếp theo.