Phần V: Hà Nội Và Sài Gòn Bị Dồn Vào Thế Phải Lựa Chọn (8/10/1945:13/02/1946):Chương 29.
Sainteny trở về Hà Nội, vận dụng những phương châm chỉ đạo của d’Argenlieu; ngày 12 và 15 tháng 10, ông ta gặp lãnh tụ Đồng Minh Hội Nguyễn Hải Thần. Chẳng thấy có kết quả gì bề ngoài.
Các lãnh tụ quốc gia, phẫn nộ vì cái cách thức Việt Minh cướp chính quyền, chỉ có một ý nghĩ trong đầu giành giật lại chính quyền. Nhưng Siao Wen, cố vấn chính trị của bộ tham mưu Trung Quốc, ra sức thuyết phục họ rằng họ cần thiết phải hợp tác với Việt Minh để thành lập một mặt trận thống nhất chống Pháp. Nguyễn Hải Thần yêu cầu ông Hồ Chí Minh nhường chỗ cho ông ta trong Chính phủ và dọa, nếu ông Hồ không nghe, sẽ dùng bạo lực. Việt Minh bịt tai làm ngơ; một chiến dịch chống Việt Minh nổ ra quyết liệt. Ông Hồ phải nhượng bộ: ngày 23/10, ông Hồ ký với một nhóm của Đồng Minh Hội (mà ông đã thuyết phục được) một thỏa hiệp hợp tác. Nhưng rồi người ta thấy ngay đây chỉ là một “trò giả trang”; Việt Minh đã phỉnh đối phương của họ nhằm mục đích duy nhất là chứng tỏ với quân Trung Quốc thiện chí của mình.
Nói về những sự kiện này, ngày 28/10 Pignon đã báo cáo về Chandernagor như sau:
“… Không nên khinh suất trong vấn đề xử sự với Việt Minh. Việt Minh là một nhóm thiểu số, đúng vậy, nhưng sự ra đời của nó, những biểu hiện của nó lúc ban đầu đã chinh phục được cảm tình của quần chúng nghèo khổ ở thành thị cũng như ở nông thôn...
“Tuy nhiên, trên phương diện thực tế, tình hình vô cùng lộn xộn, đường giao thông bị đứt đoạn, lũ lụt đã làm ngập hàng trăm ngàn héc ta đồng ruộng... nạn đói bắt đầu hoành hành, các công sở đình đốn, công chức không có lương...
“Trong nội bộ Chính phủ cách mạng, có nhiều biểu hiện mất đoàn kết trầm trọng... Sự thống nhất Việt Minh và Đồng Minh, tuy được công bố rùm beng, trước mắt vẫn chỉ giản đơn là một lời đề nghị về nguyên tắc. Cuộc đấu tranh vẫn tiếp tục âm ỉ giữa hai phe và trong thành phần Chính phủ chưa hề có một sự thay đổi nào.
“Đứng trước những yếu tố phức tạp đó, chưa thể nào đánh giá nổi thực chất vấn đề nước Pháp: về mặt công khai - do nỗi kinh hoàng mà các Ủy ban cách mạng gây ra trong nhân dân - chưa một ai ủng hộ chúng ta. Trong thâm tâm thì chắc chắn những tầng lớp khá giả đều cầu mong chúng ta trở lại, để họ được an hưởng cuộc sống giàu sang. Trong đám quần chúng nhân dân từ lâu đời nổi tiếng là không có cá tính, những lời tuyên truyền chống Pháp đã có nhiều tác dụng. Mấy ông thanh niên “Thổ Nhĩ Kỳ” (ý nói thô thiển tàn bạo - LND) chỉ đạo các ủy ban cách mạng xã và huyện... đã lôi cuốn được chủ yếu là các tầng lớp thanh niên và phụ nữ. Họ tiếp tục một cách kiên trì cuộc đấu tranh chống lại ảnh hưởng của chúng ta.
“Mặc dù vậy, và bất chấp tất cả những nhận định bi quan nói trên, rõ ràng là thời gian đã ủng hộ chúng ta. Tính chất giáo điều quá khích của các ủy ban địa phương, sự đàn áp hàng loạt, sự rã rời kinh tế, đã mang lại một sự ác cảm trông thấy của nhiều người đối với phong trào cách mạng. Những biểu hiện đầu tiên của một sự chuyển hướng bắt đầu bộc lộ.
“Mặt khác, sự chiếm đóng của quân Trung Quốc làm tiêu tan hy vọng của bao nhiêu người Việt Nam. Chính sách tiền tệ của bộ chỉ huy Trung Quốc đã thực tình móc sạch túi nhân dân cả nước. Bọn lính Trung Quốc tỏ ra với người Việt Nam một thái độ trịch thượng và thô bạo khiến cho người Việt Nam ngày càng căm ghét chúng.
“Con bài Mỹ mà một số người lãnh đạo (Việt Minh) sẵn sàng sử dụng cũng làm cho người ta thất vọng. Cái lập trường mà Washington đã xác định không củng cố được cái hy vọng mà người ta đặt vào lời tuyên bố đầy thiện cảm, tại chỗ của tướng Gallagher[33] và một số cấp dưới cha ông ta.
“Những người đứng đầu Chính phủ cách mạng biết rất rõ cái ngõ cụt mà họ đang đi vào. Không đồng minh, không tiền, hầu như không cả vũ khí, họ biết phong trào của họ đang đi vào một sự thất bại chắc chắn. Nhưng những phần tử cực đoan vẫn quyết liệt từ chối bất cứ một sự thỏa ước nào đối với Pháp. Nỗi sợ những trận trừng phạt, nỗi căm thù chồng chất trong bao nhiêu năm trong các nhà tù khổ sai chính trị, kích động họ cứng rắn thêm trong một thái độ chiến đấu quá khích và tuyệt vọng. Họ được phục vụ một cách mù quáng bởi tất cả những hạng người mà phong trào Việt Minh coi là bộ hạ của mình, những kẻ “chai sạn” thực sự biết mình sẽ bị tù khổ sai hoặc xử tử do những tội ác và những hành vi sai phạm của họ. Vì trót dấn thân quá sâu rồi không thể rút lui mà chạy trốn nữa, họ coi thường mọi sự việc đột xuất thực tế và bám chắc lấy một khẩu hiệu thể hiện tư tưởng chủ đạo trong công tác tuyên truyền của họ: “Hai triệu đồng bào ta sẽ còn chết đói trong mùa đông này ư? Không sao! Miễn chúng ta giành được độc lập!”.
“Dù lập trường cuối cùng của Chính phủ cách mạng Việt Nam đối với chúng ta là lập trường nào đi nữa, thì chúng ta có thể tính trước, không suy đoán chút nào, rằng ngày mà chúng ta được kéo quân vào Bắc Đông Dương, chúng ta sẽ phải đương đầu với một bộ phận quyết tâm đánh lại chúng ta bằng mọi phương tiện. Hành động của họ dĩ nhiên sẽ kém hiệu lực và kém nguy hiểm nếu như trước đó những phần tử Việt Minh, mà chắc chắn là các đại biểu của các đảng phái hay xu hướng khác sẽ bám theo, không thừa nhận cánh tả của họ và đồng ý dàn xếp.
“Về phương diện quân sự cũng như về phương diện dư luận quốc tế, có một điều rất cơ bản là làm sao thành lập được một đảng thân Pháp để nó kêu gọi và ủng hộ chúng ta mang vũ khí tới giúp họ. Những yếu tố của một đảng như vậy đã có, nhưng họ hết sức dè dặt. Tâm lý quán xuyến của họ là rất sợ sệt. Cho nên cần bảo đảm cho những người thuộc phe chúng ta được sự giúp đỡ của một số nhân vật đang có quyền hành và sau này có trong tay những phương tiện hành động. Đưa đến sự tan rã của ê kíp cầm quyền, hay đúng hơn của Việt Minh, phải là mục tiêu chính của mọi cố gắng của chúng ta.
“Thái độ chúng ta vẫn giữ lâu nay - tức biểu lộ thiện chí và ước mong điều đình trực tiếp với nhau - đã mang lại kết quả. Không thể hy vọng gì ở một giải pháp hoàn toàn hòa bình, chắc chắn thái độ ấy sẽ dẫn chúng ta - trừ khi nó vấp phải ác ý của phía quân Trung Hoa hoặc một biến cố đẫm máu mà hậu quả không thể hạn chế nổi bằng sự can thiệp của các phần tử ôn hòa trong chính phủ - đến chỗ giảm bớt đi một cách trông thấy số lượng những phần tử bất trị cần phải tiêu diệt bằng vũ lực và khép chúng ngay trước mặt đồng bào chúng vào tội phiến loạn”.