Chương 48 Đà Lạt: Chủ Quyền Có Giới Hạn “Kiểu Bidault”.
Hội nghị trù bị khai mạc tại Đà Lạt ngày 19/4 và ngày 20/4, giữa phiên họp toàn thể, ông Cao ủy phát biểu với các đại biểu Chính phủ Hà Nội một bài thuyết minh hùng hồn ca ngợi chính sách liên bang.
Một khi nhận thấy từ “Liên bang Đông Dương” gây điều lo ngại cho những kẻ đối thoại của mình, ông ta tìm cách khéo léo để trấn an họ:
“Chính sách Liên bang là một điều đã có từ xa xưa trên thế giới. Thực chất nó là gì? Một hệ thống chính trị trong đó một số nước tự trị... vui lòng hy sinh một cách tự nguyện, vì quyền lợi chung, một mảng nhỏ chủ quyền của mình. Cái lợi ích chung ở đây đã và thông thường là nền an ninh chống lại những nước láng giềng quá mạnh. Cái lợi ích chung đó tự khẳng định ngày một rõ ràng thêm đó là sự an ninh kinh tế trước những mối đe dọa quen thuộc. Cái lợi ích chung đó có thể là sự bảo vệ một lý tưởng chính trị, xã hội, thậm chí tôn giáo”...
Ông đô đốc khó lòng thuyết phục nổi người Việt Nam, vì người Việt Nam, về phía họ, muốn có một nền tự trị rất gần với độc lập và muốn chính mình thực hiện chủ quyền của mình, nhưng về mặt kinh tế, họ lại tỏ ra khá mềm dẻo. Như vậy, theo biên bản, tiểu ban kinh tế và tài chính sẽ nhất trí với nhau về sự cần thiết phải có một sự thống nhất thuế quan, sự lưu thông hàng hóa và sự đi lại của dân chúng tự do giữa các nước của liên bang, sự phối hợp và tương đồng hóa chính sách thuế quan, còn có điểm bất đồng ở mặt phân chia thu nhập về quan thuế. Nhưng về chế độ những tài sản của Pháp và ngay cả về vấn đề “hợp tác văn hóa” thì khó mà tìm được một tiếng nói chung. Các chủ tịch của hai tiểu ban, Max André và Nguyễn Tường Tam (Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam CHDC) sẽ không tìm được nổi cái tiếng nói đó và nhân vật chủ chốt của cuộc hội nghị rõ ràng sẽ là Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng của Chính phủ Hà Nội.
Vấn đề Liên bang (quyền lực của các quốc gia thành viên và của Chính phủ Liên bang, vấn đề các dân tộc ít người v.v...) không dẫn đến được một thỏa ước nào; và người ta đành quyết định sẽ bàn về vấn đề này trong hội nghị Paris. Đúng là về phía Pháp, trong lãnh vực này, người ta bị ràng buộc bởi nhiều chỉ thị rất cụ thể, trong đó những chỉ thị của Bộ trưởng Ngoại giao đề ngày 29/3 không phải là những chỉ thị kém kiên quyết nhất:
“Mục đích là làm sao thuyết phục được Chính phủ Việt Nam chấp nhận sát nhập Việt Nam (bất kể dưới hình thức định nghĩa địa lý nào về nó) vào một Liên bang Đông Dương và vào Liên hiệp Pháp.
“Quyền tự do thiết lập quan hệ ngoại giao riêng biệt với các nước ngoài, dù là nước láng giềng, của một nước bất kỳ nào của Liên bang sẽ là trái với bản thân nguyên lý Liên bang. Vậy sẽ không có vấn đề dành cho Việt Nam cái quyền tụ do đó. Việc xin gia nhập Liên Hiệp Quốc là không thể đi đôi với ý niệm một Liên bang và cần phải gạt đi một cách kiên quyết”.
Tuy nhiên, trong phiên họp ngày 8/5, một hiệp nghị căn bản đã thực hiện được trên nguyên tắc:
“Việt Nam gia nhập Liên hiệp Pháp với tư cách là một nước hội viên”.
Nhưng những điểm bàn nẩy lửa tại hội nghị Đà Lạt là vấn đề thống nhất của Việt Nam, nẩy lửa vì phái đoàn Pháp khước từ mọi thảo luận về Nam Kỳ dưới bất cứ hình thức nào. Phái đoàn Hà Nội bị xúc động cao độ.
Còn về phái đoàn Pháp, dường như nó đã cảm nhận cuộc đấu tranh mặt đối mặt ấy với một thái độ định kiến điên khùng. Trong các bản tổng kết hoặc biên bản, người ta đọc thấy:
“Tất cả đều cho thấy rõ rằng: cái văn bản tư tưởng chính trị của Chính phủ Hà Nội là ý niệm độc lập hoàn toàn và tuyệt đối. Tất cả mọi đề nghị trong cuộc họp đều khẳng định ý chí loại bỏ nước Pháp (38)... Phải thấm nhuần cái điều này, là kẻ thù của ta muốn đuổi chúng ta ra khỏi xứ sở này (Nam Kỳ)”.
Tuy vậy, ngày 11/5, đô đốc d’Argenlieu sẽ kết thúc công việc với một lời ghi chú có vẻ lạc quan:
“Cuộc hội nghị... đã làm việc trong trật tự, với tinh thần ngay thẳng, thân ái; nó đã cho phép nói rõ lên và chi tiết rất nhiều điểm mà quan điểm của hai bên có vẻ như còn trái nhau. Tôi nói “trái nhau” chứ không nói “mâu thuẫn” nhau. Sẽ là thiếu thận trọng thật sự nếu chúng ta kết luận rằng những điều bất đồng ấy sẽ không được san bằng đi một ngày nào đó. Đây là vấn đề thiện chí, vấn đề kiên trì và vấn đề thời gian...”.
Hôm sau ngày bế mạc hội nghị, tức ngày 14/5, ông đô đốc đến Ban Mê Thuột để tiếp nhận “Lời Thề Lớn” (sẽ trung thành với nước Pháp) của các lãnh tụ các bộ tộc người Thượng Tây Nguyên. Ngày 8/5 (tức ngày trước hôm bế mạc hội nghị), trong một bức thư gửi Leclerc, ông ta đã yêu cầu Leclerc dự kiến trong một tương lai gần sẽ “tăng cường một cách quả quyết công cuộc Bắc Tiến của chúng ta theo hướng Pleiku và Kontum”, bởi “chúng ta phải mở rộng quyền lực của chúng ta ở Trung Bộ theo hướng vĩ tuyến 16, đặc biệt là lên vùng người Thượng”. Nhưng Leclerc ghi chú: “Chúng ta có thể làm việc này lúc nào chúng ta muốn; nhưng vấn đề là phải biết chúng ta sẽ có ích lợi gì không khi chúng ta tăng thêm những khó khăn của chúng ta đối với Việt Nam”. Vấn đề cấp thiết đối với ông ta (Leclerc) là làm sao buộc được người Trung Quốc phải ra đi.
Vả lại d’Argenlieu, ngày 14/5, sẽ thừa nhận rằng những cuộc hành quân lên Pleiku và Kontum, dĩ nhiên là sẽ “được chỉ đạo một cách quả quyết và nhanh chóng, chỉ có thể tăng thêm những nỗi khó khăn của chúng ta đối với Chính phủ Việt Nam và gây nên một cuộc khủng hoảng gay gắt tại miền Bắc Đông Dương”...
• Quy chế “nước Nam Kỳ”
Bản dự án về Nam Bộ của ông đô đốc đã được trình bày ở Paris qua bức điện của ông ta ngày ¾. Bức điện này đã “chạm trán” với một công hàm của Moutet nói rõ cho Cao ủy về vấn đề Nam Bộ như sau:
“Cần nói rõ ra rằng: sẽ không có cách gì để trưng cầu được dân ý chừng nào chưa lập lại được trật tự, những nhóm vũ trang còn tồn tại ở các tỉnh và những hành động khủng bố vẫn còn tiếp tục. Sẽ cần thiết là trước tiên phải chỉnh đốn lại các tổ chức địa phương, xã và tổng”.
Một bức điện ngày 15/4, vẫn của Moutet, có xen vào một lời ghi chú thận trọng. Ông Bộ trưởng cho rằng “dĩ nhiên chúng ta phải khéo léo để đừng lộ mặt là những người chủ trương tuyên truyền cho chế độ tự trị của Nam Kỳ mà chủ trương ấy xuât phát từ chính những người Nam Kỳ”.
Chỉ sau đó ít lâu, khi Hội nghị Đà Lạt đã khai mạc rồi, ông đô đốc mới nhận được bức điện ngày 21/4, càng làm cho ông quả tình là khó xử:
“Tôi không giấu Ngài rằng vấn đề Nam Kỳ hiện nay là một trong những mối lo ngại băn khoăn của Bộ. Không còn nghi ngờ gì nữa, việc thống nhất ba kỳ là một yêu sách cơ bản của Việt Nam.
“… Ngày 6/3, chúng ta đã cam đoan sẽ “công nhận những nghị quyết của nhân dân thông qua các cuộc trưng cầu dân ý”. Mọi sáng kiến chính thức sau thời hạn này có thể coi như một sự tuyên truyền cho chế độ tụ trị của Nam Kỳ đều cần thiết phải tránh. Chúng ta phải đứng trên cuộc bàn cãi và phải đóng vai trọng tài. Chính là theo hướng đó mà qua bức điện của tôi ngày 15/4, tôi dự định có những cuộc tiếp xúc giữa những phần tử có trách nhiệm ở Nam Kỳ và ông Hồ Chí Minh để họ thảo luận với nhau về những vấn đề nội bộ của họ.
“Việc thành lập một chính phủ Nam Kỳ trung lập, dĩ nhiên, hiện nay không thể bị coi như là một thủ đoạn, nhất là khi chính phủ này sẽ đứng ra tổ chức cuộc trưng cầu dân ý đã dự định nói trên.
“Việc cử một phái đoàn Nam Kỳ cũng sẽ làm nẩy sinh những sự phản kháng của Việt Nam và chắc chắn cả những sự phản ứng có thể đặt chúng ta vào tình thế khó khăn. Tôi không nghĩ rằng người dân Nam Kỳ có thể buồn phiền gì về quan điểm của chúng ta: cuộc trưng cầu dân ý vẫn để cho họ hoàn toàn tự do bày tỏ nguyện vọng của mình và chính là chúng ta sẽ phải căn cứ vào sự phát biểu đúng đắn những ý muốn của họ để mà giới hạn hành vi của chúng ta. Chúng ta không nên tỏ ra là những kẻ bảo vệ cho một xu hướng nào.
“Bất cứ một sự xác định lập trường nào cũng sẽ đặt chúng ta vào một tình thế mà hoặc lòng trung thục của chúng ta, hoặc ý thức chính trị của chúng ta sẽ bị liên can, tùy theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý”.
Ký tên: LABROUQUÈRE
Ông Labrouquère, cựu giáo sư đại học tại Đông Dương (và là Đảng viên Đảng Xã hội) ngày 15/4 đã thay Francois de Langlade là người mà đô đốc d’Argenlieu vẫn có những mối quan hệ tin cậy.
• Bức giác thư ngày 26/4
Sự đổi thay đó khích lệ ông đô đốc gửi về Paris ngay từ ngày 26/4, một bức giác thư: “Bước ngoặt chính trị tại Đông Dương”, mà ông cho là cơ bản bậc nhất và sẽ trở thành “văn kiện gốc” hoặc văn kiện tham khảo của ông trong nhiều tháng. Sau đây là một vài trích đoạn có ý nghĩa.
“Mục đích chính sách của chúng ta, mục tiêu đầu tiên và xác định của sứ mệnh của tôi là lập lại chủ quyền nước Pháp...
“Trách nhiệm đầu tiên đổ lên đầu chúng ta là duy trì và củng cố quyền lực của chúng ta tại những nơi mà tám tháng hoạt động vừa qua đã thiết lập được... Đối với Campuchia và Lào, trước mắt không có căn cứ gì để hoài nghi về tương lai.
“Đối với Nam Kỳ, thì nguy cơ của cuộc trưng cầu dân ý đang đè nặng.
“Khả năng may mắn đạt được đa số tán thành chế độ tự trị - chủ yếu sẽ phụ thuộc, tại xứ sở này vào sự minh bạch trong đường lối chính trị của chúng ta. Sự minh bạch ấy đã có cho đến ngày 6/3... Một chính phủ lâm thời sẽ được thành lập một cách tự do và Nam Kỳ sẽ trở thành một nước tự trị trong lòng Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.
“Từ ngày 6/3, sự minh bạch ấy không còn nữa. Những văn bản đã được ký cuối cùng đã đem vào, ở giây phút cuối cùng, cái điều khoản quy định khả năng thống nhất ba kỳ sau một cuộc trưng cầu dân ý.
“Vậy là từ đây chúng ta cứ phải đi theo cái quá trình tiến triển ấy. Nó sẽ không thiếu gì chuyện bất ngờ...”
Ông đô đốc giải thích rằng Sài Gòn đang sửa soạn các cuộc bầu cử và hệ thống bầu cử sẽ hoàn thành trong vòng tháng sáu.
“Tuy không trực tiếp nhúng tay vào chiến dịch bầu cử, nhưng do bản chất những quyền lợi liên quan, nước Pháp buộc phải có một tư tưởng chính trị. Nó có thể ủng hộ sự tự trị của Nam Kỳ, trước sự bất bình quyết liệt của Chính phủ Hà Nội. Ngược lại, nó có thể ủng hộ sự thống nhất ba kỳ một cách bất lợi cho quyền lực của Pháp. Nó cũng có quyền từ chối.
“Chỉ một lập trưởng có tính chất tư tưởng hệ và giáo điều mới nghiêng về ủng hộ sự hợp nhất ba kỳ và đưa chúng ta lẽo đẽo theo gót Chính phủ Hà Nội”.
Và ông đô đốc ra sức “chứng minh” rằng yêu sách đó của Hà Nội chẳng có một căn cứ nào cả, về địa lý không, về lịch sử không, về kinh tế cũng không.
“Còn cái luận cứ về ngôn ngữ thống nhất thì hoặc nó rất trẻ con, hoặc nó bị “ô nhiễm” vì một chút hơi hướng chủng tộc chủ nghĩa. Luận cứ về ngôn ngữ thống nhất ấy chẳng phải đã từng là cái luận cứ của Hitler để cưỡng bách các dân tộc thiểu số Đức phải biến tan đi trong Đại Đế quốc Đức sao?
“Thực ra ở Đông Dương, sứ mệnh của nước Pháp đã và vẫn còn là bảo vệ các dân tộc ít người chống lại xu hướng Đế quốc chủ nghĩa của người An Nam (tức người Kinh - LND). Xu hướng này đã được “Đạo thập tự quân” Việt Minh đang cầm quyền tăng cường và củng cố. Ở đâu có chính quyền Việt Minh là ở đó có kỹ thuật và chiến thuật du kích sẽ còn ngự trị lâu dài với chính sách khủng bố và hận thù của họ.
“Để thu được vài lợi ích nhất thời trong việc liên kết ba kỳ, nước Pháp đã phải dâng tất cả một cách độ lượng ngày 6/3/1946, cho lợi ích riêng một Chính phủ Hà Nội. Làm như vậy, chẳng hóa ra là nước Pháp đã phạm một điều bất công đáng kể đối với những con người trung thành nhất với chúng ta ở Lào, ở Campuchia và nhất là ở Nam Kỳ sao?
“Nếu như sau một cuộc trưng cầu dân ý không đượcc chuẩn bị cẩn thận theo một chính sách rõ ràng, quyền lực của nước Pháp bị loại bỏ ra khỏi Nam Kỳ, thì thế là cả Liên bang Đông Dương và nói gọn là Đông Dương “đi đời”. Sớm muộn gì rồi nước Đại Nam cũng sẽ xâm nhập và thôn tính Lào và Campuchia. Nhưng cho đến khi có lệnh mới, chúng ta giữ vững Nam Kỳ và đây sẽ là một con bài tốt nhất của chúng ta trong lúc cuộc đàm phán được tiến hành tại Paris vào khoảng cuối tháng năm sang đầu tháng sáu...”
Đến đây ông đô đốc nghiên cứu xem chuyện gì sẽ có thể xảy ra trong trường hợp cuộc đàm phán với Việt Nam thất bại.
“Sự thất bại đó không nhất thiết sẽ kéo theo một sự đoạn giao quyết liệt và sự rút quân của chúng ta ở miền Bắc Đông Dương. Chúng ta sẽ tiếp tục một cách bình thường cái công việc mà chúng ta đã bắt đầu.
“Trong giai đoạn một, Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ có thể vẫn tồn tại như một quốc gia tự trị nằm trong Liên hiệp Pháp, chúng ta sẽ cố gắng duy trì những mối dây liên hệ đó. Bên rìa quốc gia tự trị đó, chúng ta cứ hoàn tất tổ chức Liên bang các quốc gia gia mà không tỏ chút gì thù địch với miền Bắc cả. Sang giai đoạn hai, Quốc gia tự do miền Bắc - nơi đó các Đảng phái cạnh tranh nhau thống trị - có thể sẽ trở về với Liên bang, ít thất cũng về phương diện quân sự kinh tế và văn hóa.
“Chỉ còn việc là Chính phủ Cộng hòa (Pháp) nhận lấy phần trách nhiệm riêng của mình và quyết định kịp thời nên theo hướng này hay hướng khác trong đường lối chính trị của mình. Đây là điều tối cần để cho công việc có hiệu quả”
Đã ký: D’ARGENLIEU
Ông đô đốc đã gửi sang Pháp một phái đoàn của “Nam Kỳ” do Đốc phủ sứ Chấn lãnh đạo, cùng với Đại tá Xuân. Phái đoàn đã rời Sài Gòn ngày 23/4. Nó sẽ tới Paris cùng một lúc với phái đoàn Hà Nội, mà Quốc hội Pháp đón tiếp ngày 26/4.
Nhưng nước Pháp đang giữa chiến dịch bầu cử, sẽ không gửi thêm chỉ thị nào cho ông đô đốc. Ủy ban Liên bộ về Đông Dương chỉ đến ngày 7/5 mới họp. Trong lúc chờ đợi, bằng cuộc trưng cầu dân ý, ngày 5/5, các cử tri Pháp đã bác bỏ dự án Hiến pháp do Quốc hội trong đó Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản chiếm đa số, soạn thảo ra. Một Quốc hội mới phải được bầu ra, lần này vào ngày 2 tháng 6... Ông Moutet và ông Labrouquère đều là ứng cử viên Quốc hội và họ phải tiến hành cuộc vận động bầu cử.
• Hồ Chí Minh lên đường đi Paris và tuyên bố của Sài Gòn
Ngay ngày hôm sau cuộc Hội nghị Đà Lạt, d’Argenlieu đi Lào (chúc mừng Nhà Vua ở Luang Prabang vừa mới được giải phóng) rồi bay qua Hà Nội, ở đây ông được đón tiếp nồng nhiệt trong hai ngày 18 và 19 tháng năm. Mọi cái đều cho phép người ta nghĩ rằng hai ông Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Tường Tam đã báo cáo kỹ về Hội nghị Đà Lạt và kết luận của hai ông là cần đề cao cảnh giác vì người Pháp không hề nhân nhượng chút nào và ý đồ của họ chẳng có gì là minh bạch. Phái đoàn Quốc hội đã rời Paris ngày 16/5, vừa trở về lúc đó, lòng phấn khởi vì đã được tiếp đón tử tế. Phái đoàn này nghĩ rằng những triển vọng chính trị ở Pháp có phần thuận lợi cho Việt Nam.
Ông đô đốc cố thuyết phục ông Hồ Chí Minh không nên đi Pháp trước ngày 01/6 như đã thỏa thuận trước: Do gần sát ngày Tổng tuyển cử rồi cho nên nước Pháp có thể không có Chính phủ. Nhấn mạnh về sự “bỉ ổi” của những hành vi khủng bố tại Nam Kỳ, ông ta báo cho ông Hồ biết rằng trong những điều kiện như vậy, ông Hồ không thể từ chối người Nam Kỳ muốn có một Chính phủ tự trị của mình; sau đó ông ta viện dẫn “Lời Thề Lớn” của Ban Mê Thuột để đặt trở lại vấn đề Tây Nguyên (các Cao nguyên Mọi, trong nguyên văn - LND) “Đó là vấn đề các dân tộc thiểu số, một vấn đề rất nghiêm trọng - ông Hồ đáp. Chúng ta sẽ thảo luận vấn đề này tại Paris”.
Từ đây, xác định được về ý đồ của ông Hồ cũng như công việc mà phái đoàn Nam Kỳ làm tại Paris (phái đoàn này đã tìm cách gặp được Gouin, Varenne, v.v...), ông đô đốc thấy thời cơ đã đến và trong khi Pariss đang hầu như bị tê liệt mọi cảm giác, ông ta để yên cho cái tiến trình đã dự tính, cái màn kịch đã sắp đặt trước được nổ bùng ra.
Ông chủ tịch Hội đồng Tư vấn, Luật sư Béziat, một người Pháp, gửi cho Cao ủy Pháp hôm 25/5, một bức thư chính thức xin thành lập một chính phủ lâm thời của nước Cộng hòa Nam Kỳ. Ngày 27, ông đô đốc[47] trả lời Béziat: “chấp nhận” thỉnh cầu, nhưng vẫn nhấn mạnh đến tính chất tạm thời của chính phủ đó, cũng nói rõ thêm rằng vì Nam Kỳ là một mảnh đất của “di sản Quốc gia Pháp”, cho nên một cuộc bỏ phiếu của Quốc hội Pháp sẽ cần thiết để phê chuẩn quyết định này.
Và thế là ngày 01 tháng 6 năm 1946, nước Cộng hòa tự trị Nam Kỳ tuyên bố ra đời và một Chính phủ lâm thời do Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh làm Thủ tướng và Đại tá Xuân làm Phó Thủ tướng được thành lập.
Cùng ngày hôm ấy, ông đô đốc quyết định thông báo cho ông Hồ Chí Minh, đang trên đường đi Paris biết bằng một bức điện ông ta gửi Đại sứ Pháp tại Le Caire (Ai Cập). Nhưng, theo lệnh của Bộ Ngoại giao, bức điện ấy sẽ không giao cho người nhận (ông Hồ Chí Minh), mà người nhận sẽ được thông báo qua đài phát thanh và qua các bạn cùng đi của ông là tướng Salan và Jean D’Arcy, Chánh văn phòng của E. Michelet, Bộ trưởng quân đội. Còn ông Hồ Chí Minh thì lúc rời Hà Nội ngày 31 tháng 5, đã gửi cho ông đô đốc bức điện như sau:
“Trước lúc tôi lên đường đi Paris, tôi xin chân thành cảm ơn Ngài về tất cả những gì Ngài đã làm cho chuyến đi của tôi và những lời Ngài đã chúc mừng tôi trong thư trước. Tôi hy vọng và tin chắc rằng những cuộc đàm phán ở Paris sẽ có thể dẫn đến một sự hợp tác nghiêm túc và vững bền giữa hai nước chúng ta”.
Một bức điện của Moutet ngày 5/6 làm cho ông đô đốc yên tâm:
“1. Ủy ban Liên bộ (Cominindo) họp hôm 4/6 duyệt y các quyết định của Ngài về chính sách đối với Nam Kỳ. Ủy ban tích cực mong muốn một chính phủ Nam Kỳ tự trị được thành lập nhằm bảo vệ những lợi ích của nhân dân Nam Kỳ; nhưng chính phủ ấy cần thiết phải gồm những yếu tố rất tiêu biểu của các tầng lớp nhân dân và từ các tầng lớp nhân dân ấy mà ra. Nó không được, trong bất cứ trường hợp nào, xuất hiện như một sản phẩm của các nhà chức trách Pháp nặn ra và như một chiếc bình phong của họ. Tôi lưu ý Ngài về nhiệm vụ giao cho các nhà chức trách Pháp là phải luôn luôn thi hành một sự trung lập tuyệt đối trong cuộc tranh luận đang ngăn cách Chính phủ Hà Nội và Chính phủ Nam Kỳ, để chúng ta khỏi bị lên án là vi phạm lời văn và tinh thần của các hiệp định mồng 6 tháng 3; những hiệp định này đã ghi rõ trên giấy trắng mực đen sẽ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề ba kỳ. Việc bầu cử tự do và chân thành sẽ càng được bảo đảm khi mà Chính phủ Nam Kỳ càng có uy tín nhiều hơn trong tư cách là người đại diện của nhân dân và an ninh trật tự xã hội được lập lại một cách toàn vẹn.
“2. Trong trường hợp xuất hiện những phản ứng tại Hà Nội thì người đại diện nước Pháp sẽ lưu ý Chính phủ Việt Nam rằng tình hình thực tế ở Nam Kỳ không có ảnh hưởng gì đáng ngại đến giải pháp cuối cùng cả. Rằng ngoài ra, chính những hành động khủng bố và sự tuyên truyền quốc gia chủ nghĩa là nguyên nhân gây ra sự phản ứng này của dân chúng Nam Kỳ; dân chúng Nam Kỳ sẽ tự mình định đoạt lấy số phận của mình”.
Trong lúc nước Pháp tiến hành bầu cử (và những cuộc bỏ phiếu ngày 2/6 đánh dấu một sự tiến bộ của MRP (Phong trào Cộng hòa bình dân) và một sự thụt lùi của Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản), Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Việt Nam lên đường đi Paris. Sau khi đỗ lại Le Caire và Tripoli, họ được phép hạ cánh ở Biskra tại Algérie. Nhưng phải quyết định về những chặng đường tiếp theo. Đúng thế, Paris đề nghị trong lúc chờ đợi thành lập chính phủ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bạn đồng hành của Người sẽ lưu lại ở một địa điểm nào đó trên đất Pháp: người ta đề nghị Cannes và ông Hồ đã chấp nhận ngay; nhưng cuối cùng, một cách khá đột ngột, máy bay của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn của Người lại hạ cánh xuống Biarritz ngày 12/6. Lưu trú tại khách sạn Carlton, họ sẽ phải ở lại đó gần hai tuần lễ, đi tham quan một vài nơi (Gavarnie, Lourdes, v. v…) và tiếp xúc với các thị trấn và với nhân dân.
Đô đốc d’Argenlieu cũng trở về Pháp dự buổi khai mạc Hội nghị Pháp - Việt. Rời Sài Gòn ngày 13/6, ông ta đến sân bay Orly ngày 14 lúc 17h (một thời gian kỷ lục!). Ngày 16 ông ở Bayeux, nghe tướng De Gaulle nói chuyện, rồi được De Gaulle tiếp lần cuối cùng, ngày 20, tại Colombey-lesdeux-Eglises...
Ngày 19/6, Quốc hội lập hiến chỉ định một Thủ tướng mới của Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp: Georges Bidault, lãnh tụ của phong trào Cộng hòa bình dân.