← Quay lại trang sách

- 1 -

Tôi tới làng Comala vì người ta bảo rằng cha tôi, một Pedro Páramo nào đó, đã từng sống ở đây. Chính mẹ tôi bảo vậy. Tôi đã hứa với bà rằng khi nào bà qua đời tôi sẽ tới thăm ông ta. Tôi nắm lấy tay bà trong cử chỉ hàm chứa lời hứa; bởi vì bà yếu lắm rồi, bà sắp tắt thở, còn tôi sẵn sàng hứa làm tất cả. “Con hãy tới thăm ông ta. - Bà khuyên tôi. - Dù con gọi ông ta thế nào đi nữa, ta tin chắc rằng ông sẽ rất vui khi gặp con”. Vậy là tôi không còn cách nào hơn là hứa sẽ làm đúng như điều bà mong muốn. Vì bà nói quá nhiều về điều đó, nên tôi cũng phải nói hoài đến nỗi sau đó tôi phải vất vả lắm mới gỡ được tay mình khỏi đôi bàn tay chết đã giá lạnh của bà.

Trước đó, bà bảo tôi:

- Con chẳng phải cầu xin ông ta điều gì cả. Con hãy đòi cái phần thuộc chúng ta, cái mà ông ta buộc phải cho mẹ mà chưa bao giờ ông ta cho... Với việc bỏ rơi mẹ con mình, ông ta phải trả giá đắt, có thế thôi con ạ.

- Thưa mẹ con sẽ làm đúng như vậy.

Nhưng tôi vẫn chưa nghĩ tới việc thực hiện lời hứa của mình, mãi cho đến lúc đầu óc bắt đầu mộng mơ, trí tưởng tượng trở nên bay bổng. Dần dà tôi bắt đầu dựng nên một thế giới hy vọng xoay quanh cái ngài được gọi là Pedro Páramo, ấy là chồng của mẹ tôi. Vì thế mà tôi đến làng Comala.

Lúc ấy đang trong tiết Đại thử, gió tháng Tám, hôi mùi cỏ xà phòng ẩm mục thổi nóng ràn rạt.

Con đường dốc bò lên hoặc trườn xuống: “Bò lên hay trườn xuống hoàn toàn phụ thuộc vào người đang đi trên nó. Đối với người đi ra khỏi làng thì con đường bò lên. Đối với người đang đi vào làng thì con đường trườn xuống”.

- Cái làng ở phía dưới kia gọi là gì, anh bạn có thể cho biết được không?

- Comala, thưa ngài.

- Anh bạn chắc chắn đây đã là làng Comala chứ?

- Đúng thế, thưa ngài.

- Vì sao nó lại có vẻ buồn thế kia?

- Vì nó dãi dầu với nhật nguyệt, thưa ngài.

Tôi mường tượng ra cái làng ấy qua những hồi ức của mẹ tôi, qua nỗi nhớ của bà giữa những tiếng thở dài của bà. Bà thường sống não lòng vì làng Comala, mong ngày về làng nhưng không bao giờ về. Giờ đây tôi trở lại làng thay bà. Tôi nhìn những sự vật này qua lăng kính của bà vì bà đã cho đôi mắt của mình để tôi nhìn: “Khi qua ngọn đèo của những người Colimotes thì ở đó hiện ra quang cảnh ngoạn mục của một bình nguyên xanh với những cánh đồng ngô chín vàng. Rồi từ đó con sẽ thấy làng Comala trắng tuyền màu đất, sáng lung linh trong đêm mờ!”. Tiếng nói của bà bí hiểm, gần như thầm thì như thể bà đang nói với chính mình... Mẹ tôi...!

- Ngài đến Comala có việc gì, nếu như ngài có thể nói cho tôi biết được? - Tôi nghe thấy người ta hỏi mình.

- Tôi đến thăm ông cụ nhà tôi, - tôi trả lời.

- À! - Ông ta nói.

Rồi cả hai chúng tôi cùng im lặng.

Chúng tôi đi xuống, vừa đi vừa nghe thấy tiếng chân lừa rộn ràng nện trên mặt đất. Trong cái oi nóng của tháng Tám, những con mắt mệt mỏi vì cơn buồn ngủ như muốn nổ tung ra.

- Sẽ có cuộc vui để mừng ngài, - tôi lại nghe thấy tiếng nói của người đi cạnh mình. - Sau nhiều năm không một ai qua đây, dân chúng sẽ mừng rỡ khi nhìn thấy có người đến làng.

Sau đó y nói thêm:

- Dù ngài là ai đi nữa, dân chúng sẽ mừng rỡ khi trông thấy ngài.

Trong ánh nắng phản chiếu, bình nguyên hiện ra tựa như một cái hồ trong suốt xua tan hơi nước để làm nổi bật đường chân trời xám màu ghi. Phía sau đó là một dải núi. Xa hơn nữa, cõi mông lung muôn thuở.

- Ông cụ thân sinh ngài có đặc điểm gì, nếu như tôi có thể được biết?

- Tôi không được rõ lắm, - tôi trả lời. - Tôi chỉ biết cụ tên là Pedro Páramo.

- À, thế à!

- Vâng, người ta bảo rằng cụ tên là thế đấy.

Tối lại nghe rõ một tiếng à của người dắt lừa.

Tôi gặp y ở Los Encuentros, một ngã tư đường. Ở đây tôi đang đứng chờ cho tới khi xuất hiện con người này.

- Ông bạn đi đâu đấy? - Tôi hỏi.

- Tôi đi xuống, thưa ngài.

- Ông bạn có biết làng Comala không?

- Tôi đi về đấy đây.

Rồi tôi theo y. Tôi lẽo đẽo theo sau y, định bụng cố nhanh chân để đi ngang hàng với y, cho tới khi y nhận ra tôi đang theo y và thế là y đi chậm lại. Sau đó chúng tôi đi rất gần nhau, gần như là kề vai, sóng vai nhau:

- Tôi cũng là con của cụ Pedro Páramo, - y nói với tôi.

Trên bầu trời trống trải, một đàn quạ bay, kêu “quạ, quạ, quạ”.

Sau khi vượt qua các ngọn núi, chúng tôi ngày một đi sâu xuống. Chúng tôi đã để lại phía sau mình không khí nóng hầm hập ở phía trên và càng ngày ngập sâu trong thứ không khí nóng không có gió. Tất cả dường như đang chờ đợi một cái gì đó.

- Ở đây nóng nhỉ! - Tôi nói.

- Đúng thế, nhưng cái nóng này đã thấm tháp gì, - y trả lời tôi. - Đợi đấy rồi sẽ biết. Ngài sẽ thấy nóng hơn khi chúng ta tới làng Comala. Làng ấy ở trên chốt đống than lửa của trần gian, ở ngay trên miệng của địa ngục. Chỉ cần nói với ngài rằng rất nhiều người ở đây chết khi xuống tới đáy địa ngục thì lại trở về ngay miệng địa ngục lấy cái chăn.

- Ông có quen ngài Pedro Páramo không? - Tôi hỏi.

Tôi dám hỏi như vậy vì thấy trong mắt y có một giọt niềm tin đọng lại.

- Ai vậy? - Tôi lại hỏi.

- Một mối thù nóng bỏng. - Y trả lời tôi.

Rồi y thúc đàn lừa. Đó là một động tác thừa vì đàn lừa hiện đang đi trước chúng tôi khá xa, chúng nối đuôi nhau đi xuống.

Tôi cảm thấy tấm ảnh mẹ cất trong túi áo sơ mi đang đốt nóng trái tim mình, dường như bà cũng đổ mồ hôi. Đó là một tấm ảnh cũ, gián nhấm bốn xung quanh, nhưng nó là tấm ảnh duy nhất tôi được biết. Tôi tìm thấy nó trong tủ nơi nhà bếp. Nó nằm lẫn lộn với những lá tía tô, đất khô, những bông hoa castilla, những cành lá vân hương nhét đầy trong một cái nồi. Từ độ ấy, tôi giữ kỹ nó. Dường như nó cũng là tấm ảnh duy nhất mẹ tôi đã chụp. Bà chúa ghét chụp ảnh. Có lần bà bảo rằng ảnh là sản phẩm của phép phù thủy. Dường như bà nói đúng bởi vì tấm ảnh của bà thủng lỗ chỗ và hơn thế nữa ở bên ngực phía trái tim có một lỗ thủng to bằng đầu ngón tay.

Đó chính là tấm ảnh tôi mang theo, nghĩ rằng nó sẽ giúp cha tôi dễ dàng nhận ra tôi.

- Xin ngài hãy nhìn, - người dắt lừa dừng lại nói với tôi. - Ngài có nhìn thấy cái ngọn núi tựa như cái bóng đái lợn không? Đó, đó, ở phía sau nó một ít thôi là Media Luna. (Giờ đây tôi quay mặt về phía ấy). Ngài có nhìn thấy đỉnh núi kia không? Hãy nhìn nó kìa. (Và giờ đây tôi lại quay mặt về hướng này). Ngài có nhìn thấy ngọn núi xa mờ hầu như không nhìn thấy ấy không? Vậy, đó chính là Media Luna từ đầu cho tới cuối đấy. Như người ta thường nói: ngút tầm mắt mới bao quát được tất cả đất đai của vùng này. Cả Media Luna là thuộc quyền sở hữu của ngài Pedro Páramo. Điều đáng tiếc là các bà mẹ chúng ta đã đẻ chúng ta trên những chiếc giường tồi dẫu rằng chúng ta đều là con trai của ngài Pedro Páramo. Điều hài hước hơn cả là chính ngài đã mang chúng ta, từng người một, đến nhà thờ để làm lễ rửa tội. Có lẽ với ngài cũng đã xảy ra điều tương tự chứ!

- Tôi không nhớ rõ.

- Con c...

- Ông bạn nói gì thế?

- Chúng ta đã tới nơi rồi, thưa ngài.

- Đúng thế, tôi cũng tin là như vậy. Cái gì xảy ra ở đây vậy?

- Một con correcaminos [1], thưa ngài. Ở đây người ta gọi tên những con chim ấy như thế.

- Không, tôi có hỏi thế đâu. Tôi muốn được biết về làng này, mà sao nom nó cô quạnh thế, dường như hoang vắng không một bóng người.

- Không phải chỉ là dường như mà trên thực tế là như vậy. Ở đây không có ai sinh sống.

- Thế còn ngài Pedro Páramo thì sao?

- Ngài Pedro Páramo đã chết từ lâu rồi.

Đó là lúc mà tất cả các làng, trẻ con nô đùa trên các ngõ ngách làm huyên náo cả buổi chiều khi nắng quái chiều hôm chiếu lên những bức tường đen.

Ít ra, cũng vào chính giờ này, ngay chiều qua thôi, tôi đã thấy điều đó ở làng Sayula. Tôi cũng nhìn thấy vòng lượn của những con bồ câu phá vỡ không khí thanh lặng, vẫy vẫy đôi cánh như thể từ giã buổi ban ngày. Chúng bay lượn rồi lao xuống đậu trên những mái ngói, trong khi đó những tiếng la thét của trẻ nhỏ cũng bay vút lên và dường như chúng thêu màu xanh lam lên bầu trời buổi chiều tà.

Lúc này tôi ở đây, trong cái làng không một tiếng động. Tôi nghe rõ tiếng chân mình gõ xuống những hòn đá tròn lát trên đường. Những tiếng gõ của chân tôi cứ lặp đi lặp lại trong âm vang của những bức tường nhuộm vàng nắng quái chiều hôm.

Tôi đi bộ trên con đường chính của làng, nhìn những ngôi nhà trống trơn với những tấm cửa xiêu vẹo, trong mọc đầy cỏ dại. Cái thứ cỏ này gọi tên là gì nhỉ? Người bạn đường ban nãy đã chỉ cho mình: “Thưa ngài, đó là cỏ capitana ạ. Một thứ cỏ dại chỉ chờ người bỏ đi là đua nhau mọc đầy nhà. Rồi ngài sẽ thấy chúng mọc”.

Vào lúc vượt qua đầu đường, tôi nhìn thấy một bà cuộn mình trong tấm vải khoác. Bà ta biến ngay như không hề xuất hiện. Sau đó, tôi lại dạo bước và đảo mắt ngó nhìn qua các khe cửa vào các nhà cho tới khi người đàn bà ấy lại hiện ra trước mặt tôi.

- Chào ông! - Bà ta chào tôi.

Tôi nhìn theo bà ta rồi gọi với:

- Nhà bà Eduviges ở đâu?

Bà ta chỉ tay nói:

- Ở đằng kia. Cái ngôi nhà ở gần cầu ấy.

Tôi nhận ra tiếng nói của bà ta rung ngân từ trong thanh quản của con người, rằng miệng của bà ta cũng có răng, có lưỡi và cái lưỡi này cũng uốn éo khi nói, rằng đôi mắt của bà ta cũng sáng như mắt những người sống trên trần gian vậy.

Trời tối.

Bà ta quay người lại chào tôi. Mặc dù làng này không có trẻ con nô đùa, không có bồ câu, không có những mái ngói xanh lam nhưng tôi vẫn cảm thấy nó đang sống. Tôi lại nghĩ rằng nếu như tôi chỉ nghe thấy cái thanh tịnh là vì tôi chưa quen với cái thanh tịnh, hoặc cũng có thể là đầu tôi chứa đầy tiếng ồn và tiếng nói.

Tiếng nói ư? Đúng thế. Và ở đây, ở nơi hiếm gió này, sẽ nghe rõ chúng hơn. Những tiếng nói ấy có trọng lượng rất nặng ở ngay trong từng người. Tôi nhớ điều mẹ tôi từng nói với mình: “Ở nơi ấy con sẽ nghe mẹ rõ hơn. Ta sẽ ở gần con hơn. Con sẽ ở gần tiếng nói của những kỷ niệm của mẹ hơn là tiếng nói của cái chết của mẹ, nếu như có đôi lần nào đó cái chết đã cất lên tiếng nói của nó”. Mẹ tôi... bà mẹ đang sống.

Tôi muốn thưa với bà rằng: “Mẹ đã lầm nhà. Mẹ đã cho con địa chỉ sai. Mẹ chỉ con đến nơi này nơi nọ đến nỗi con đã tới một làng hoang vắng để tìm một người đã chết”.

Theo tiếng nước chảy ở dưới sông, tôi tìm đến ngôi nhà gần cầu. Tôi gõ cửa nhưng là một cái cửa giả. Tay tôi gõ vào không khí và không khí dường như mở toang ra. Một người đàn bà đang ở trong đó. Bà ta bảo tôi.

- Mời ông vào.

Tôi bước vào.

Tôi đã ở làng Comala. Người dắt lừa, đã khởi hành rồi, còn dặn với trước khi chia tay tôi:

- Tôi còn đi xa nữa kia, đi tới những ngọn núi kia. Nhà tôi ở đàng ấy. Nếu ngài muốn tới thăm chắc chắn ngài sẽ được đón tiếp nồng hậu. Bây giờ, nếu ngài muốn dừng lại xin ngài cứ tự nhiên cho. Cũng chẳng đến nỗi vô ích nếu ngài chịu vào làng tìm kiếm, có thể ngài sẽ gặp một người nào đó.

Tôi dừng lại. Theo như lời y, tôi đã vào làng.

- Tôi sẽ tìm được nhà trọ ở đâu? - Gần như phải gào lên, tôi hỏi y.

- Hãy tìm bà Eduviges, nếu như bà ta vẫn còn sống. Hãy bảo với bà ta rằng ngài tới theo lời dặn của tôi nhé!

- Ông bạn tên gì nhỉ?

- Abundio, - y trả lời tôi. Nhưng tôi không kịp nghe họ của y.

- Tôi là Eduviges Dyada đây. Mời cậu vào nhà.

Hình như bà ta đang đợi tôi thì phải. Tất cả đều đã được chuẩn bị chu đáo, y như lời bà ta bảo với tôi. Bà ta bảo tôi đi theo bà, mò qua một dãy dài các phòng tối, hình như chúng bị bỏ không. Nhưng mà không. Bởi khi tôi đã làm quen với bóng tối, và nhờ tia sáng rọi theo mình, tôi nhìn thấy những khoảng tối lớn lên, tôi lách qua những đống đồ thô để ở dọc hành lang hẹp.

- Những thứ gì đây, bà? - Tôi hỏi.

- Những thứ vô dụng, - bà ta trả lời tôi. - Nhà tôi toàn chứa những thứ vô dụng. Những người bỏ làng đi chọn nhà tôi để gửi đồ đạc nhưng chưa một ai trở lại nhận chúng. Căn buồng mà tôi đã chuẩn bị sẵn cho cậu ở phía cuối kia. Vậy cậu là con của bà ấy đấy?

- Của ai kia? - Tôi hỏi để đáp lại.

- Của Doloritas[2].

- Vâng, đúng ạ! Nhưng làm sao bà biết?

- Bà ấy báo cho tôi biết là cậu sẽ đến mà. Ngay hôm nay đấy thôi, bà ấy bảo rằng cậu sẽ đến vào ngày hôm nay.

- Ai nói? Mẹ cháu nói hả bà?

- Đúng thế. Bà ấy chứ còn ai nữa.

Tôi thật không biết nghĩ thế nào cho phải. Bà này cũng chẳng để cho tôi kịp nghĩ nữa, đã nói:

- Đây là phòng ngủ của cậu.

Căn phòng không có cửa, chỉ có mỗi cái cửa mà chúng tôi vừa bước vào. Bà ta châm nến và tôi nhìn thấy căn phòng trống không.

- Ở đây không có giường nằm sao?

- Cậu không cần phải bận tâm. Cậu vừa đi đường mệt rồi và giấc ngủ sẽ là giường nằm êm ấm cho sự nghỉ ngơi. Sáng mai tôi sẽ sửa soạn giường chiếu cho cậu. Như cậu biết đấy, không dễ dàng thu dọn các thứ trong cùng một lúc được, cần phải báo trước, thế mà mẹ cậu vừa báo cho tôi xong.

- Mẹ cháu ư? - Tôi hỏi lại. - Mẹ cháu đã chết rồi còn đâu.

- Vậy là việc bà ấy chết là nguyên nhân của tiếng nói yếu ớt. Cái tiếng nói rất yếu ớt của bà ấy dường như phải vượt qua một khoảng rất xa mới tới đây được. Bây giờ thì ta đã hiểu. Bà ấy chết được bao lâu rồi?

- Đã được bảy ngày rồi ạ.

- Thật là tội nghiệp cho bà ấy. Có lẽ bà ấy buồn lắm, buồn vì cảm thấy mình bị bỏ rơi. Chúng tôi đã hẹn với nhau rằng sẽ cùng chết bên nhau. Phòng khi cần phải giúp nhau hoặc phòng khi gặp trắc trở hai chúng ta cùng ra đi để người nọ giúp đỡ người kia trong chuyến đi này. Chúng ta là bạn rất thân của nhau. Bà ấy chẳng bao giờ nói với cậu về ta sao?

- Đúng thế. Mẹ cháu chẳng bao giờ nói với cháu về bà cả.

- Ta cảm thấy lạ quá đấy. Rõ ràng là thời ấy chúng ta còn trẻ ranh mà. Bà ấy vừa mới lấy chồng. Nhưng chúng ta đã thân nhau lắm. Mẹ cậu rất xinh gái, rất dịu hiền, ai cũng thích bà ấy. Ai cũng muốn yêu bà ấy. Vậy là bà ấy đã đi trước ta rồi phải không? Nhưng cậu cứ yên tâm rằng ta sẽ đuổi kịp bà ấy mà. Chỉ có ta mới hiểu nổi khoảng cách xa vời từ đây lên trời mà thôi. Nhưng mà ta cũng biết lối đi tắt. Vấn đề là ở chỗ làm sao để chết - nếu Chúa cho phép - khi nào anh muốn chết chứ không phải lúc nào Chúa muốn anh chết. Hoặc giả nếu như mày muốn chết thì mày hãy cầu khẩn ngài cho chết trước thời hạn. Hãy thứ lỗi cho ta vì ta đã xưng mày tao với cháu. Ta xưng hô như vậy vì ta coi cháu như con trai ta. Đúng thế, nhiều lần ta nói: “Con trai của Dolores có thể là con mình”. Sau đây ta sẽ nói cho cháu biết vì sao. Điều duy nhất mà lúc này ta muốn nói với cháu là ta sẽ đuổi kịp mẹ cháu ở một nơi nào đó trên những nẻo đường của cõi trường sinh.

Tôi tưởng rằng người đàn bà ấy đang điên. Sau đó tôi không nghĩ gì cả. Tôi cảm thấy mình đang ở một thế giới xa lạ và tôi cứ để mặc cho mình trôi trong thế giới ấy. Thân thể tôi dường như đang mềm nhũn ra trước tất cả, rủ bỏ mọi ràng buộc và bất kỳ ai cũng đều có thể đùa bỡn với nó như đùa bỡn một mảnh giẻ.

- Cháu mệt lắm! - Tôi bảo với bà ta.

- Cháu hãy đi ăn một vài miếng đã. Hãy ăn một tí chút đã, thứ gì cũng được.

- Cháu sẽ đi. Cháu sẽ đi sau.

Nước từ mái tranh nhỏ giọt xuống đào thành một cái lỗ trên sân cát. Nước cứ giọt tí tách, tí tách, sau đó lại tí tách trên phân nửa tàu lá nguyệt quế, từng bị gió đánh tả tơi hiện còn giắt trong kẽ hở giữa những viên gạch. Cơn bão đã ngớt. Lúc này, thỉnh thoảng gió rung những cành thạch lựu khiến nước mưa rơi xuống lộp độp khảm lên mặt đất những giọt nước sáng lung linh rồi sau đó tự chúng vây bẩn. Những chú gà, rụt cổ trong đôi cánh như đang ngủ, bỗng nhảy ào xuống sân, thi nhau mổ, rồi nuốt những con giun đang bò trên mặt đất. Mây vừa bay đi, ông mặt trời ló ra chiếu nắng những hòn đá khiến chúng rực sáng đủ sắc màu, hút khô nước còn đọng trên mặt đất, đùa với gió giỡn trên những tàu lá khiến những tàu lá này tỏa sáng lóng lánh mỗi bận gió đi qua.

- Thằng nhóc, mày làm gì trong chuồng tiêu mà lâu thế?

- Có làm gì đâu, mẹ!

- Nếu mày cứ ở lì trong đó, rắn độc bò ra sẽ cắn cho mà khốn thân, con ạ!

- Vâng ạ! Con ra ngay mà.

“Susana thân yêu, anh đang nghĩ tới em. Trong mùa gió khi chúng mình cùng thả diều trên những quả đồi xanh. Ở trên này, ngay tại quả đồi xanh này chúng mình nghe thấy tiếng ồn ào vui vẻ của làng ở phía dưới ấy. Cùng lúc ấy, cơn gió cuốn theo nó sợi dây gai của chúng mình. “Susana, hãy giúp tớ nào”. Những bàn tay mềm mại chìa ra cho những bàn tay của mình. “Hãy thả dây nữa đi nào”.

Cơn gió khiến chúng mình phải bật cười. Chúng mình cùng hướng mắt nhìn theo chiếc diều đang lên trong khi đó sợi dây gai bị gió hút theo cứ tuột khỏi kẽ những ngón tay cho tới khi đứt đánh bựt một cái như thể nó chạm phải cánh một con chim đang bay. Rồi ở phía trên ấy, chiếc diều giấy rơi xuống cuốn theo nó cái đuôi giả, rồi lẫn vào màu xanh của mặt đất.

Đôi môi em ướt át như thể sương đêm vừa hôn lên chúng.”

- Thằng khốn, tao đã bảo mày ra ngay kia mà!

- Vâng, thưa mẹ, con ra ngay kia mà.

“Về em, anh vẫn nhớ. Khi em ở đây, với đôi mắt xanh màu nước biển, em nhìn anh.”

Thằng bé ngẩng đầu lên nhìn thấy mẹ mình đang đứng ở cửa.

- Vì sao mày ở trong chuồng tiêu lâu thế! Mày làm gì trong ấy hả?

- Con đang mải nghĩ.

- Mày không suy nghĩ ở nơi khác được à? Ở lâu trong chuồng tiêu sẽ sinh bệnh đấy. Ngoài ra mày cũng còn phải làm việc gì chứ. Tại sao mày không đi vẽ ngô cùng với bà hả?

- Vâng ạ! Con đi ngay bây giờ mẹ ạ.

- Bà ơi, cháu đến đó giúp bà vẽ ngô đây.

- Bà đã làm xong rồi cháu ạ. Nhưng giờ đây chúng ta sẽ làm sô-cô-la. Cháu chui rúc ở đâu thế? Chúng ta phải đi tìm cháu suốt trong lúc trời nổi bão.

- Cháu ở sân bên mà.

- Cháu làm gì ở đấy? Cầu kinh phải không?

- Không phải đâu ạ. Cháu chỉ ngắm trời mưa thôi.

Người bà nhìn đứa cháu với đôi mắt nửa màu xám đục và dường như bà đang dò đoán những gì đang ẩn náu bên trong thằng bé.

- Thôi cháu hãy đi lau cối xay đi.

“Susana thân yêu, em ẩn trên cao hàng trăm mét, ở bên trên những tảng mây và còn cao hơn thế nữa. Em ẩn trong cõi vô biên của Thượng đế, ở ngay bên cạnh đấng Toàn năng, nơi anh chẳng thể với tới em, chẳng thể nhìn thấy em và là nơi những lời nói của anh không thể bay tới với em.”

- Thưa bà, cối xay bị hỏng rồi ạ, cái trục nghiền của nó gãy mất rồi.

- Lại tại cái con ranh Micaela đã nghiền lõi ngô rồi. Nói mãi nó cũng không bỏ thói xấu ấy. Thế là vô phương cứu chữa.

- Sao nhà ta không mua cái khác? Cái này cũ lắm rồi và không dùng được nữa.

- Cháu nói phải đấy. Mặc dù với những tốn kém mà chúng ta đã chi tiêu để làm lễ tang cho ông nội mày và số lợi tức một phần mười mà chúng ta đã trả cho nhà thờ thì nhà ta không còn lấy một đồng xu; tuy nhiên chúng ta sẽ phải thắt lưng buộc bụng và sẽ mua một cái cối xay khác. Tốt hơn hết là cháu hãy chạy đến nhà bà Inés Villalpando xin mua chịu của bà một chiếc. Đến tháng Mười khi thu hoạch mùa xong chúng ta sẽ trả tiền cho bà ấy.

- Vâng ạ. Cháu đi ngay nhé, bà.

- Khoan đã, để ta còn dặn thêm mấy việc nữa nào. Cháu hãy bảo bà ấy cho mượn một cái rây và một con dao quắm. Gớm, cây cối mọc um tùm dường như lấn hết chỗ đi lại của nhà mình. Nếu như ta có ngôi nhà lớn, với những vườn tược rộng rãi thì ta chẳng phải ta thán. Ông nội cháu đã tính sai khi chuyển đến đây ở. Tất cả đều do Chúa định đoạt: chẳng bao giờ sự tình lại xảy ra đúng như người ta mong muốn. Hãy nói với bà Inés rằng đến mùa chúng ta sẽ trả hết nợ cho bà, nghe chưa.

- Vâng, thưa bà.

Chim ruồi bay rộn ràng. Đang mùa mà. Nghe rõ tiếng bay vù vù của cánh chim giữa những bông lài đang rã cánh rơi.

Thằng bé loanh quanh bên cái tủ có đặt bức ảnh Thánh Tâm Chúa, tìm được hai mươi bốn xu. Y cầm lấy hai mươi xu, bốn xu để lại trong tủ.

Trước khi ra đi, mẹ y ngăn lại:

- Mày đi đâu?

- Con đến nhà bà Inés Villalpando để mua một cái cối xay mới. Cái của nhà ta hỏng rồi.

- Hãy nói với bà ấy để cho mẹ một mét lụa đen như thứ này nhé, - bà mẹ chìa vật mẫu ra. - Bảo với bà là hãy tính gộp cả vào khoản nợ chung của nhà ta nhé.

- Được ạ, thưa mẹ.

- Khi trở về con mua cho mẹ một ít aspirin nhé. Tiền mẹ cất ở trong cái lọ ở hành lang ấy.

Thằng bé tìm thấy một đồng peso. Y bỏ lại số tiền hai mươi xu.

“Lúc này mình có khối tiền tiêu gì thì tiêu”.

- Pedro! - Cả hai người đàn bà cùng gọi. - Pedro!

Nhưng thằng bé không nghe tiếng gọi. Y đã đi xa rồi.

Về đêm trời lại đổ mưa. Trong khoảng thời gian khá lâu y nằm nghe mưa rơi xối xả ở bên ngoài, sau đó hình như y ngủ thiếp đi. Bởi vì khi thức dậy y chỉ còn nghe thấy mưa rơi nhè nhẹ. Kính trên các cửa sổ đều mờ hết và ở mặt ngoài của chúng nước rỏ ròng như những hàng nước mắt. “Nhìn những giọt nước sáng lóng lánh ánh chớp, và cứ mỗi bận thở anh lại thở dài não lòng và mỗi lần nghĩ anh lại nghĩ đến em, hỡi Susana mến yêu”.

Mưa đã tạnh hẳn và lúc này chỉ có gió nhẹ thổi. Thằng bé nghe rõ: “Sự xá tội và sự nổi loạn của xác thịt, amen!”. Đó là tiếng vọng từ phòng trong nơi các bà đang cầu kinh. Bọn họ đứng dậy để nhốt chim, cài cửa và tắt đèn.

Chỉ còn lại ánh sáng ban đêm và tiếng rì rầm của mưa rơi như tiếng dế kêu.

- Vì sao mày không cầu kinh hở thằng khốn? Chúng ta đang phải làm lễ tang chín ngày cho ông nội đây.

Bà mẹ thằng bé đang đứng ở trước cửa tay cầm cây đèn nến. Cái bóng của bà hắt lên trần nhà, dài nghêu, thẳng đuỗn. Và những xà nhà chia cái bóng ấy thành từng mẩu, từng mẩu.

- Ôi, ta buồn quá đi mất.

Bà quay đi, tắt nến. Bà đóng cửa rồi òa lên khóc nức nở. Những tiếng nấc ấy lẫn vào trong tiếng mưa rơi.

Chuông đồng hồ nhà thờ điểm từng tiếng, từng tiếng một như thể thời gian co mình lại.

- Vậy là suýt nữa thì ta là mẹ cháu đây. Về chuyện này chưa bao giờ mẹ cháu nói cho cháu biết à?

- Chưa bao giờ ạ! Mẹ cháu chỉ kể cho cháu nghe những chuyện tốt đẹp. Cháu được biết bà nhờ người dắt lừa dẫn cháu tới đây. Đó là một ông Abundio nào đó.

- À, Abundio tốt bụng đấy. Vậy là hắn vẫn không quên ta phải không? Ta vẫn thường thưởng công cho hắn mỗi bận có một khách lữ hành đến nhà ta. Cả hai chúng ta đối xử với nhau rất tốt. Bây giờ thật là bất hạnh, thời thế đã thay đổi bởi vì kể từ khi cái làng này tiêu điều đi cho đến nay không một ai đi lại với chúng ta nữa. Vậy là chính hắn đã khuyên cháu đến thăm ta đấy?

- Chính ông ta khuyên cháu tìm bà.

- Ôi thế thì ta chỉ còn biết cám ơn hắn ta. Đó là một người tốt bụng và luôn luôn giữ đúng lời hứa. Hắn ta là người đưa thư và tiếp tục hành nghề cho tới khi bị điếc. Ta vẫn còn nhớ cái ngày bất hạnh đã xảy ra điều chẳng lành đối với hắn ta. Tất cả chúng ta đều thương cảm vì ai ai cũng yêu mến hắn. Hắn ta chuyển thư đi và mang thư về cho chúng ta. Hắn ta kể lại cho chúng ta nghe những gì xảy ra ở nơi khác và chắc chắn rằng cũng kể cho họ nghe những việc chúng ta đang làm ở đây. Hắn hay chuyện lắm. Sau đó hắn ta thay đổi tính tình, trở nên người ít nói. Hắn bảo rằng hắn không muốn nói về những sự việc mà không nghe thấy, rằng hắn chẳng nghe thấy gì hết, rằng hắn chẳng thấy ý vị gì khi nghe được những chuyện ấy. Tất cả đều đã xảy ra ngay sau khi một quả pháo, loại pháo mà ở đây chúng ta vẫn thường dùng để đuổi rắn nước, đã nổ ngay gần đầu hắn ta. Kể từ đó hắn ta trở nên câm lặng mặc dù hắn không phải người câm. Nhưng mà hắn ta vẫn là hắn ta, không bao giờ là người xấu.

- Cái ông mà cháu nói với bà ấy là người thính tai nghe được hết những điều cháu nói với ông ta.

- Có thể người cháu nói chuyện không phải là hắn. Ngoài ra, Abundio đã chết rồi. Chắc chắn rằng hắn ta đã chết rồi mà. Cháu hiểu không? Vậy người ấy có thể không phải là hắn ta.

- Vâng, cháu cũng đồng ý với bà.

- Bây giờ trở lại câu chuyện về mẹ cháu, ta đang nói...

Chăm chú nghe bà nói, tôi bắt đầu nhìn người đàn bà đối diện với mình. Tôi nghĩ rằng bà đã trải qua những năm tháng vất vả. Gương mặt bà trắng bệch dường như không còn máu, tay bà khô héo, khô héo và nhăn nheo. Không nhìn thấy đôi mắt bà. Bà ta vận bộ váy áo rất cổ màu trắng có may đường viền và từ cổ bà thòng xuống một bức tượng María Santísima del Refugio với hàng chữ đề “Nơi chở che cho những kẻ tội lỗi”.

- Con người mà ta đang nói với cháu ấy là một người làm nghề thuần ngựa. Gã nói gã tên là Inocencio Osorio. Tuy nhiên chúng ta quen gọi gã là Saltaperico[3] bởi gã nhảy nhẹ nhàng và lanh lẹn. Ông bạn Pedro của ta nói rằng gã sinh ra để dạy ngựa non. Nhưng rõ ràng gã làm nghề khác thật: đó là nghề “khêu gợi”. Gã là người khêu gợi những mơ màng. Quả đúng như thế. Gã đã lừa mẹ cháu cũng như từng lừa nhiều cô gái khác, trong đó có ta. Một lần ta cảm thấy người mệt mỏi, gã đến thăm và bảo với ta: “Để tôi tẩm quất cho, rồi cô sẽ thấy người khoan khoái ngay mà”. Đó là việc xoa bóp. Trước tiên gã nắn các ngón tay, sau xoa hai bàn tay rồi đến các cánh tay. Cuối cùng gã xoa nắn hai chân, ban đầu thì lạnh và chỉ một lát sau cả người nóng ran. Trong lúc xoa bóp gã nói những điều tốt đẹp sẽ tới trong tương lai. Gã như lên đồng, mắt láo liên và gọi hồn với nguyền rủa đủ điều, và thế là gã nhổ nước bọt vào ta như bọn người Digan vẫn làm. Đôi lúc gã trần như nhộng và nói: Ấy là những thèm muốn của chúng ta. Cũng đôi lúc vài điều gã nói trở thành sự thật. Gã bóp không biết bao nhiêu chỗ nên thỉnh thoảng cũng trúng chỗ cần bóp.

Đó là việc cái gã Osorio đã xem bói cho mẹ cháu khi mẹ cháu đến thăm gã. Gã bảo với mẹ cháu: “Đêm ấy chớ có ăn nằm với bất cứ người đàn ông nào bởi vì trăng không thuận”.

Dolores vội về nói với ta rằng mình không thể làm được, rằng đêm ấy không thể ngủ với Pedro Páramo. Đó là đêm tân hôn của mẹ cháu đấy. Và cháu thấy đấy, ta cố thuyết phục mẹ cháu đừng có tin lời Osorio vì gã là một kẻ đại bịp.

- Em không thể, - mẹ cháu bảo ta như vậy. - Chị hãy thay em mà. Ông ấy sẽ không nhận ra chị đâu.

Dĩ nhiên là ta trẻ hơn mẹ cháu và hơn nữa trắng hơn, nhưng những thứ này người đàn ông không dễ nhận ra trong đêm tối.

- Không thể được đâu, chị Dolores ạ. Chị hãy đi đi.

- Chị làm phúc làm đức, chị hãy đi thay em mà, rồi em sẽ đền ơn chị.

Thời ấy mẹ cháu là cô gái có đôi mắt dịu hiền. Nếu mẹ cháu đẹp hơn người thì chính là nhờ có đôi mắt ấy. Chúng biết sai bảo người khác.

- Chị hãy đi thay em mà! - Mẹ cháu giục ta. - Thế là ta đi.

Bóng tối giúp ta rất nhiều và còn một việc nữa mà mẹ cháu không biết, đó là việc ta cũng thích Pedro Páramo.

Ta nằm với ông ta với bao thích thú và thèm muốn. Ta nằm sát vào người ông ta; nhưng sự hoan hỉ ngày hôm trước vẫn còn làm ông ta mệt mỏi. Vậy là ông ta chỉ còn có ngáy khò khò suốt đêm. Việc duy nhất mà ông ta làm đêm ấy là thọc chân mình qua hai chân ta.

Ta thức dậy trước khi trời rạng sáng và ta tới thăm Dolores. Ta bảo mẹ cháu:

- Bây giờ chị hãy đi. Hôm nay là một ngày khác rồi.

- Ông ta có làm gì chị không? - Mẹ cháu hỏi ta.

- Em cũng chẳng biết nữa! - Ta trả lời.

Năm sau cháu ra đời: nhưng không phải là con ta mặc dù chỉ một tí nữa cháu sẽ là con trai ta.

Có lẽ mẹ cháu chưa bao giờ kể cho cháu vì bà ấy xấu hổ.

“Những cánh đồng xanh. Với gió lay động lúa ngô con sẽ thấy chân trời nhô lên hay thấp xuống, với mưa vần vũ con sẽ thấy chiều như chao đảo ngả nghiêng. Con sẽ nhìn thấy, sẽ ngửi thấy mùi hoa linh lăng và mùi bánh. Cả một làng thơm mùi mật mới đổ...”

Mẹ cháu lúc nào cũng căm thù Pedro Páramo. “Doloritas đâu! Cô đã bảo chúng nó chuẩn bị cho ta ăn sáng chưa?” Thế là mẹ cháu thức dậy trước khi trời sáng. Mẹ cháu nhóm bếp. Mùi bếp nấu đánh thức những con mèo. Đi đi lại lại khắp nhà có cả đàn mèo theo chân. “Doloritas đâu rồi!”.

Đã bao lần mẹ cháu nghe thấy những tiếng gọi ấy? “Cô Doloritas, thứ này nguội rồi, không ăn được nữa!”. Đã bao lần như thế? Dù mẹ cháu đã quen với sự bị hành hạ ngày một quá quắt, đôi mắt dịu hiền của mẹ cháu cũng đã bắt đầu lóe sáng ý chí kiên cường!

“Chỉ có hương hoa cam ngào ngạt trong buổi sáng tinh sương.”

Lúc ấy mẹ cháu bắt đầu thở dài.

- Vì sao lại thở dài thế, cô Doloritas?

Buổi chiều ấy ta cùng đi với họ. Chúng ta đang ở giữa cánh đồng nhìn những bầy chim hoét bay qua. Một con kền kền đen vẫy vẫy cánh giữa bầu trời.

- Vì sao lại thở dài thế, cô Doloritas?

- Ước gì em được như con kền kền để bay tới chỗ bà chị gái em đang sống.

- Được thôi, cô Doloritas ạ. Ngay lúc này cô sẽ đi thăm chị gái mình. Nào chúng ta đi về nào. Chuẩn bị hành lý cho cô. Không cần nhiều lời nữa.

Thế là mẹ cháu ra đi.

- Don Pedro, xin chào!

- Vĩnh biệt Doloritas!

Mẹ cháu đi khỏi điền trang Media Luna và không bao giờ trở lại. Nhiều tháng sau đó ta có hỏi thăm mẹ cháu qua ngài Pedro Páramo.

- Cô ta yêu chị gái mình hơn là yêu ta. Chắc rằng ở đó cô ta đã được toại nguyện. Hơn nữa cô ta làm ta thấy khó chịu. Ta không nghĩ tới việc mời cô ta trở về, nếu như đó là điều cô đang quan tâm.

- Nhưng mẹ con chị ấy sống như thế nào?

- Chúa sẽ che chở cho mẹ con cô ấy.

“… Với việc bỏ rơi mẹ con mình, ông ta phải trả giá đắt, có thế thôi con ạ”.

- Vậy là cho đến tận lúc này bà ấy mới báo cho ta biết cháu sẽ đến thăm ta. Ngoài ra ta chẳng được tin tức gì về bà ấy.

- Cháu xin kể một trong những chuyện đã qua, - tôi nói với bà. - Ở thành phố Colima, mẹ con cháu sống nhờ vả vào bác Gertrudis, người đã ra mặt khó chịu trước sự nhờ vả này. “Vì sao em không cùng đến với chồng?”, bà ấy hỏi mẹ cháu.

- Có lẽ ông ta đuổi em tới đây. Em sẽ không trở về nếu như ông ta không bảo em về. Em đến đây vì yêu chị, vì muốn được nhìn chị. Vì yêu chị mà em đến.

- Chị hiểu. Nhưng đã đến lúc em phải ra đi mà.

- Nếu em mà được quyết định...

Tôi nghĩ rằng người đàn bà ấy đang nghe tôi nói nhưng tôi nhận ra bà ta nghiêng đầu như đang nghe ngóng tận đâu đâu. Sau đó bà bảo tôi:

- Khi nào cháu đi nằm nghỉ hả?

“Cái ngày em bỏ đi, anh hiểu rằng thế là hết, là chẳng bao giờ anh được thấy em. Em đi trong ánh chiều tà đỏ rực, trong ánh hoàng hôn đỏ bầm màu máu. Em mỉm cười. Em để lại sau lưng mình một làng quê mà về nó nhiều lần em bảo anh: “Em yêu anh nhưng em căm thù cái làng này, kể cả việc em đã chào đời ở đây”. Anh nghĩ rằng em sẽ không trở lại. Và đã nhiều lần anh tự nhủ lòng: Susana sẽ không bao giờ trở về, sẽ không bao giờ trở về.”

- Mày làm gì ở đây vào lúc này hở thằng kia? Mày không làm việc hả?

- Thưa bà, không ạ, Rogelio muốn cháu trông đứa trẻ thôi. Do đó cháu dẫn nó đi dạo chơi. Thật là khó mà trông coi hai việc cùng một lúc, vừa trông em lại vừa trông điện tín, trong khi đó ông ta chỉ chơi bi a với uống bia ở ngoài tiệm. Ngoài ra ông ấy chưa trả công cho cháu lấy một xu mẻ.

- Cháu ở đây không phải để kiếm tiền mà để học việc. Khi nào cháu thạo việc lúc ấy sẽ đòi hỏi tiền công. Lúc này cháu chỉ là người học việc. Có thể nay mai cháu sẽ trở thành sếp. Nhưng để đạt được điều đó cháu cần phải nhẫn nại, hơn nữa, cần phải nhũn nhặn. Nếu người ta bảo cháu dắt thằng bé đi chơi thì cháu hãy cho nó đi chơi, hãy làm vì lòng thương của Chúa, cần phải chịu đựng cháu ạ!

- Bà ơi, để cho người khác chịu đựng còn cháu không thể chịu đựng được.

- Thằng này quá quắt nhỉ! Rồi mày sẽ khốn khổ đấy, Pedro Páramo ạ!

- Thưa bà Eduviges, có gì thế bà?

Bà ta lắc đầu như thể vừa chợt tỉnh mộng.

- Đó là con ngựa của Miguel Páramo đang phi trên đường tới điền trang Media Luna.

- Vậy có người sống ở điền trang Media Luna sao?

- Không, không còn ai sống ở làng ấy cả.

- Vậy thì sao?

- Chỉ có con ngựa phi đi rồi phi lại. Nó cứ phi như thế không ngừng nghỉ. Nó phi đi mọi chốn để tìm thằng bé và bao giờ cũng vậy, nó đều trở về vào đúng lúc này. Có lẽ con ngựa đáng thương đang tự dằn vặt lương tri mình. Ngay cả đến con vật cũng biết hối hận khi nó phạm tội, phải không?

- Cháu chịu không hiểu nổi điều bà nói. Cháu không nghe thấy tiếng vó ngựa phi.

- Thật không?

- Thật mà!

- Thế thì chỉ là sự cảm nhận của giác quan thứ sáu của mình ta thôi. Đó là thiên bẩm của ta, hoặc giả là lời nguyền. Chỉ riêng ta hiểu điều bất hạnh mà ta đã chịu đựng vì nó.

Bà ta im lặng hồi lâu, sau đó nói:

- Tất cả đều bắt đầu từ Miguel Páramo, con nuôi ta. Chỉ mình ta biết điều đã xảy ra cho nó trong cái đêm nó chết. Ta đã đi nằm rồi, thì ta nghe thấy tiếng vó ngựa của nó từ ngả Media Luna phi trở về đây. Ta lấy làm ngạc nhiên bởi không bao giờ nó trở về nhà vào cái giờ ấy. Bao giờ cũng vậy, nó thường trở về vào lúc trời gần sáng. Nó đi nói chuyện với người yêu ở làng Contla, một làng cách đây khá xa. Nó đi từ rất sớm nhưng trở về rất khuya. Nhưng cái đêm ấy nó không trở về... Lúc này cháu nghe thấy không? Rõ ràng là cháu nghe thấy. Nó trở về đây.

- Cháu không nghe thấy gì hết.

- Vậy thì đó chẳng qua là do ta tưởng tượng ra thôi. Như ta đang nói với cháu cái việc nó không trở về ấy chỉ là lời nói suông thôi. Con ngựa chưa phi qua thì ta đã nghe thấy có tiếng gõ cửa. Thì cháu cứ hiểu cho đó là ảo giác của ta. Rõ ràng là có một cái gì đó đã thôi thúc ta phải dậy ra xem ai thế. Quả nhiên là nó, cái thằng Miguel Páramo ấy. Ta không lấy làm ngạc nhiên khi nhìn thấy nó, bởi đã có thời kỳ nhiều đêm nó ở lại nhà ta, cùng ngủ với ta cho tới khi nó gặp cái cô gái đã làm nó mất cả trí khôn.

- Sao thế? - Ta hỏi Miguel Páramo. - Con lại bị cô ta bỏ rơi chứ gì!?

- Không phải thế. Cô ta vẫn yêu con. Có điều là con không thể nào tìm được cô ta. Con lạc mất làng. Trời mờ sương hay mờ khói, hoặc giả cái gì ấy con cũng chẳng biết; nhưng con biết chắc rằng làng Contla không còn nữa. Con đi xa hơn cái làng ấy, theo sự tính toán của con, và con chẳng thấy gì hết. Con về để bảo cho mẹ hay vì chỉ có mẹ mới là người hiểu con. Nếu như con nói với những người khác trong làng Comala thì bọn họ sẽ bảo con là thằng rồ như họ vẫn thường nói về con như vậy.

- Không, con không rồ đâu, Miguel ạ. Có thể là con đã chết rồi. Hãy nhớ rằng người ta đã bảo cái con ngựa ấy sẽ có ngày nó giết con. Hãy nhớ lại đi, Miguel Páramo. Cũng có thể con đã phát cuồng lên nhưng đó lại là chuyện khác.

- Con chỉ nhảy qua bức tường đá mà cha con mới đây ra lệnh xây. Con cho con ngựa Colorado nhảy qua bức tường đá để khỏi phải đi vòng quá xa mới ra tới đường cái. Con biết là mình đã cho con ngựa nhảy qua và sau đó con còn tiếp tục phi, nhưng mà, như con đã nói với mẹ, trước mặt con lúc ấy chỉ có khói, khói và khói mà thôi.

- Ngày mai cha con sẽ quằn quại đau khổ: Đáng thương cho cha mày. Thôi giờ đây con hãy đi đi và hãy an nghỉ, Miguel nhé, ta cảm ơn con đã trở về vĩnh biệt ta.

Ta đóng cửa.

Trước lúc trời rạng sáng, một thằng nhỏ ở điền trang Media Luna đến đây nói với ta:

- Ngài Pedro, ông chủ con, mời bà tới. Cậu Miguel đã chết. Ông chủ mời bà đến với ngài ngay.

- Ta biết rồi, - ta bảo nó. - Họ bảo mày khóc à?

- Vâng ạ. Ngài Fulgor bảo con là khi nói với bà phải vừa nói vừa khóc ạ.

- Được rồi. Hãy về nói với don Pedro rằng ta sẽ đến ngay. Nó được khiêng về lâu chưa?

- Chưa được nửa giờ đâu, thưa bà, cậu ấy được khiêng về sớm hơn thì có lẽ sẽ được cứu sống. Mặc dù rằng, theo như lời bác sĩ - người bắt mạch cậu Miguel -nói, cậu ấy chết đã từ lâu rồi. Chúng con biết được tin dữ này là nhờ con Colorado trở về không và nó đã hoảng hốt, la hí không để cho ai ngủ. Bà đã biết cậu ấy và con ngựa mến nhau như thế nào rồi và đến lúc này con tin rằng con vật này còn đau khổ hơn cả don Pedro. Nó không ăn, không ngủ, chỉ chạy hoài. Bà có biết không, hình như nó biết, hình như nó cảm thấy bị dằn vặt, đau đớn tự bên trong.

- Khi đi ra, mày đừng quên đóng cửa nhé.

Thằng nhỏ ở điền trang Media Luna ra về.

- Cháu đã lần nào nghe thấy tiếng kêu rên của người chết chưa?

- Thưa bà Eduviges, chưa bao giờ ạ.

- Cháu có phúc lắm đấy.

Nước chảy từng giọt trong ống dẫn. Nghe rõ tiếng nước nhỏ giọt xuống chum, một thứ nước trong vừa chảy từ trong đá ra. Nghe rõ tiếng ồn: những bàn chân qua lại nện trên mặt đất. Nước cứ nhỏ giọt đều đều không ngừng nghỉ. Chum đầy khiến cho nước ứ ra, trào xuống nền nhà ẩm.

- Dậy đi nào! - Người ta đánh thức y.

Y nhận ra âm thanh tiếng nói, cố đoán xem là ai. Y hé mắt; nhưng lại lăn ra thiếp đi luôn, vì thân xác y bải hoải với cơn buồn ngủ mê mệt. Bàn tay y lại sờ soạng trải rộng chăn ra rồi thân xác y ẩn dưới hơi ấm của chiếc chăn để tìm sự thanh lặng nghỉ ngơi.

- Dậy đi nào! - Người ta lại đánh thức y.

Tiếng nói làm rùng mình đôi vai, khiến thân xác phải dựng dậy. Y hé mắt. Nghe rõ tiếng tí tách nhỏ giọt của nước từ trong máng dẫn xuống chum đựng. Nghe rõ tiếng những bước chân đang lê đi sền sệt... Nghe rõ có tiếng khóc.

Vậy là y nghe thấy tiếng khóc. Điều đó đã đánh thức y dậy, một tiếng khóc nhỏ nhẹ, mỏng manh mà có lẽ vì nó mỏng manh nên đã lọt qua mùng ngủ đã đến tận nơi những tình cảm kích động đang hội tụ.

Y từ từ đứng dậy và nhìn thấy gương mặt một người đàn bà dựa vào khung cửa, gương mặt ấy vẫn còn bị bóng đêm che tối, đang nức nở khóc.

- Vì sao mẹ khóc thế mẹ? - Y hỏi, bởi vì trong lúc đặt chân xuống sàn nhà y đã nhận ra gương mặt của mẹ mình.

- Bố mày đã chết rồi! - Bà bảo y.

Sau đó, như thể những nỗi đau xổ tung ra, bà chao đảo xoay xung quanh mình rồi lại chao đảo xoay xung quanh mình cho tới khi có những bàn tay kịp vươn tới nắm lấy vai bà giữ cho thân xác bà đứng yên.

Ở ngoài cửa, trời bắt đầu rạng sáng. Không một vì sao. Chỉ là một bầu trời xám màu chì, chưa hửng sáng bởi ánh thái dương. Một thứ ánh sáng mờ mờ màu nâu, chưa phải là thứ ánh sáng ban ngày mà đúng hơn là thứ ánh sáng chập choạng lúc trời tranh tối tranh sáng.

Ngoài sân rậm rịch những bước chân như thể đám đông đang lùng sục. Những tiếng động không thành tiếng. Và ở đây, người đàn bà ấy, đang đứng ở ngưỡng cửa; thân xác bà như cản ngăn ánh sáng ban ngày rọi tới, vì thế đã để lọt qua vai mình những mảng da trời, và những luồng sáng qua hai chân bèn lọt vào. Dưới chân bà, sàn nhà như ngập trong nước mắt. Rồi sau đó là tiếng khóc nức nở. Lại một lần nữa vang lên tiếng khóc nhỏ nhưng chói tai và nỗi buồn khiến thân xác bà như cuộn lại!

- Người ta đã giết bố mày rồi!

- Thế còn mẹ, ai đã giết mẹ?

“Có gió và nắng và cả mây nữa. Phía trên nữa là một bầu trời xanh và đằng sau bầu trời ấy có thể là những khúc ca, có thể là những giọng hát hay tuyệt vời... Tóm lại có hy vọng. Có hy vọng cho chúng ta để đối chọi với những tủi nhục của chúng ta.

Nhưng đối với mày, Miguel Páramo ạ, thì không có gì hết bởi mày đã chết không được giải tội và mày sẽ không bao giờ được biết đến ân sủng của Chúa.”

Cha Rentería đi vòng quanh thi hài và đọc kinh cho kẻ quá cố. Cha đọc vội vàng cho qua chuyện rồi đi ra, không ban phước cho đám đông đứng chật ních trong nhà thờ.

- Thưa cha, chúng con muốn cha ban phước cho cậu ấy.

- Không được! - Cha lắc đầu từ chối. - Ta không ban phước. Hắn là kẻ xấu và sẽ chẳng lên thiên đường. Thượng đế sẽ trừng phạt ta nếu ta vì hắn mà cầu xin xá tội cho hắn.

Cha nói vậy, trong lúc giấu đôi bàn tay mình đi kẻo đám đông nhìn thấy chúng đang run bần bật. Mà không ích gì.

Cái thi thể ấy đè nặng lên tâm hồn của tất cả mọi người. Nó nằm ngay giữa nhà thờ, trên một tấm gỗ xung quanh phủ dây hoa và thắp nến lung linh. Sau nó là một người cha, đơn độc, đang đợi lễ viếng kết thúc.

Cha Rentería đi ngang qua Pedro Páramo, cố không đụng phần vai ông ta. Cha nâng cành bài hương lên trong điệu bộ nhẹ nhàng rồi rảy nước thánh từ trên xuống dưới trong khi miệng cha lầm bầm nói mà có thể đó là những lời khẩn cầu. Rồi cha quỳ xuống và tất cả mọi người cũng cùng quỳ với cha.

- Hỡi Thiên Chúa, Người hãy rủ lòng thương với kẻ tôi tớ của Người, amen!

- Hãy yên nghỉ, amen! - Những tiếng hô đáp lời cha.

Một lần nữa cha lại tức phát điên lên, khi nhìn thấy đám đông ra khỏi nhà thờ khiêng theo thi hài của Miguel Páramo.

Pedro Páramo đến gần cha và từ từ quỳ gối bên cha:

- Thưa cha, con biết rằng cha căm thù nó. Và cha hoàn toàn có lý. Nó là đứa thủ phạm đã giết anh trai cha theo như lời đồn đại của bàn dân thiên hạ. Trong trường hợp cháu gái cha, cô bé Ana ấy, nó là đứa đã cưỡng hiếp cháu gái cha theo như sự phán định của chính cha. Nhiều lần nó cãi lại cha và vô phép đối với cha. Tất cả những cái lý ấy đều có thể hiểu được. Nhưng lúc này, thưa cha kính yêu, cha hãy quên đi tất cả và hãy tha tội cho nó như Chúa có lẽ cũng đã tha tội cho nó.

Ngài đặt lên cái khay quyên góp một nhúm tiền vàng rồi đứng dậy:

- Hãy nhận lấy số tiền ấy, coi như tiền bố thí cho nhà thờ của cha.

Nhà thờ đã vắng lặng. Hai người đàn ông đợi Pedro Páramo ngoài cửa. Họ đợi ngài sẽ nhập với bọn họ để rồi cùng đi theo sau cỗ quan tài đã nằm thăng bằng trên vai bốn người phu khiêng đòn ở điền trang Media Luna.

Cha Rentería nhặt từng đồng tiền một rồi đi đến bàn thờ Chúa:

- Tất cả số tiền này là của Người, hỡi Thiên Chúa. Ông ta có thể lấy tiền chuộc được tội lỗi. Còn về phần con, hỡi Thiên Chúa, con chỉ xin Người hãy phân xử công minh. Đó là tất cả những gì con cầu xin Người... Vì con, Người hãy trừng phạt hắn.

Rồi cha đóng hòm đựng bánh thánh lại.

Cha bước vào kho chứa đồ Thánh, rồi nằm xuống một xó và ở đây cha khóc lóc một cách thảm thiết và buồn rầu cho tới khi cạn hết nước mắt.

- Được rồi, người đã thắng, hỡi Thiên Chúa.

Trong lúc ăn tối, như tất cả các đêm khác, cha uống sô-cô-la nóng. Cha cảm thấy yên tâm.

- Này Anita [4], cháu có biết người ta an táng ai hôm nay không?

- Thưa chú, không ạ.

- Cháu có nhớ thằng Miguel Páramo không?

- Thưa chú, có ạ.

- Chính hắn đấy.

Ana cúi đầu.

- Cháu tin chắc rằng chính là hắn phải không?

- Chắc chắn thì không, chú ạ. Cháu không nhìn thấy mặt anh ta. Đêm ấy trong bóng tối anh ta tóm lấy cháu.

- Vậy thì làm sao cháu biết là Miguel Páramo được?

- Bởi vì anh ta nói với cháu: “Tôi là Miguel Páramo đây, Ana ạ. Em chớ nên hoảng hốt”. Anh ta bảo với cháu như vậy.

- Nhưng cháu có biết hắn là thủ phạm gây ra cái chết của cha cháu chứ?

- Thưa chú, có ạ.

- Vậy cháu đã làm gì để tránh xa hắn?

- Cháu chẳng làm gì cả.

Cả hai cùng im lặng hồi lâu. Gió thì thào giữa những cành lá sim.

- Anh ta bảo cháu rằng chính vì thế mà anh ta đến, rằng anh ta đến để xin tha lỗi. Cháu cứ nằm yên trên giường mà bảo anh ta rằng: “Cửa sổ để ngỏ đấy”. Thế là anh ta vào phòng cháu.

Anh ta đến ôm ghì lấy cháu như thể đó là cái cách thức xin tha tội. Cháu cười với anh ta. Cháu nghĩ tới điều chú đã dạy cháu rằng không bao giờ thù oán kẻ khác. Cháu mỉm cười với anh ta để nói lên điều ấy. Nhưng ngay sau đó cháu nghĩ rằng anh ta chẳng thể nào nhìn thấy nụ cười của cháu bởi do bóng đêm mịt mùng cháu cũng không nhìn rõ anh ta. Cháu chỉ cảm thấy anh ta đè lên cháu, rồi bắt đầu giở trò đểu cáng đối với cháu mà thôi!

Những tưởng anh ta sẽ giết cháu. Chú ạ, cháu đã nghĩ như vậy đấy. Do đó cháu thôi không còn nghĩ gì nữa, để cháu cứ thế chết đi trước khi anh ta kịp giết cháu. Nhưng anh ta không dám làm, chắc chắn là như vậy.

Cháu biết chắc điều này khi cháu mở mắt ra và cháu nhìn thấy ánh sáng ban mai, qua khung cửa sổ để ngỏ đã lọt vào phòng. Trước lúc ấy cháu cảm thấy mình đã không còn tồn tại nữa!

- Nhưng mà cháu cũng phải nhớ rõ một cái gì chứ. Chẳng hạn như giọng nói. Cháu cũng không quen giọng nói của hắn à?

- Cháu không nhớ một đặc điểm riêng biệt nào của anh ta. Cháu chỉ biết rằng anh ta là người đã giết cha cháu. Chưa bao giờ cháu nhìn thấy anh ta và sau đó cháu cũng chưa có dịp nhìn thấy anh ta. Cháu không tài nào đối mặt nổi với anh ta, chú ạ.

- Nhưng cháu đã biết là ai rồi.

- Vâng đúng thế. Cháu biết rằng lúc này, nếu anh ta là thủ phạm thì có thể anh ta đang ở dưới địa ngục rồi. Bởi vì cháu đã khẩn cầu các vị thần thánh hãy làm đúng như thế.

- Cháu yêu ơi, cháu chớ có khờ khạo như thế mà tin điều đó. Ai mà biết có biết bao người đang khẩn cầu cho hắn. Chỉ một mình cháu thì ăn thua gì trước hàng nghìn người khác đang cầu nguyện cho vong linh hắn. Trong số đó có rất nhiều người cầu nguyện nhiệt thành hơn cả cháu, như cha hắn chẳng hạn.

Cha định nói thêm: “Và ta cũng đã tha tội cho hắn”. Nhưng cha chỉ nghĩ trong đầu mình thôi. Cha không muốn dằn vặt thêm tâm hồn đau khổ của cô gái. Trái lại cha cầm lấy tay cô và nói:

- Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa lòng lành của chúng ta bởi vì Người đã lôi hắn đi khỏi cõi thế tục này, nơi hắn đã gây biết bao tội ác và hãy đừng quan tâm tới việc hắn được lên thiên đường hay phải xuống địa ngục.