← Quay lại trang sách

- 2 -

Một con ngựa phi qua ngã tư nơi con đường cái quan gặp đường đi Contla. Không một ai trông thấy. Tuy nhiên, một người đàn bà đứng đợi ở ngoài bìa làng đã kể lại rằng bà ta nhìn thấy một con ngựa phi gấp bốn vó lại như thể nó nằm sấp mà lao đi. Bà ta nhận ra con ngựa của Miguel Páramo và nghĩ rằng: “Con ngựa kia đến vỡ đầu mất”. Sau đó bà ta thấy nó duỗi chân ra, thẳng người lên, vẫn bám lấy đường, nó đi với cái đầu ngoẹo về phía sau như thể có ai đang rượt đuổi nó chẳng bằng.

Những lời đồn đại ấy bay tới làng Comala ngay trong đêm chôn cất Miguel Páramo, khi những người khiêng đòn đang ngồi nghỉ sau chuyến đi dài đến tận nghĩa địa trở về. Trước khi ngủ họ nói chuyện với nhau như họ thường nói chuyện ở những nơi khác.

- Cái thi thể ấy làm tôi đau ê ẩm. - Terencio Lubianes nói. - Đến bây giờ vai tôi vẫn còn nhức nhối.

- Em cũng thế, - Ubillado, người em của anh ta nói. - Chân em cứ sưng tấy lên. Ấy là vì ông chủ muốn tất cả chúng ta đều mang giày mà. Đám tang mà cứ như thể đám hội ấy. Có đúng thế không anh Toribio?

- Biết nói thế nào đây với các bạn nhỉ. Tôi nghĩ rằng cậu cả Miguel chết rất đúng lúc.

Mỗi lúc lại đến thêm những lời đồn đại từ Contla. Chuyến xe bò cuối cùng mang tới những lời đồn:

- Người ta đồn rằng hồn ma vẫn lởn vởn ở đằng ấy. Người ta nhìn thấy nó đến gõ cửa nhà một cô gái nọ. Nó giống hệt cậu Miguel Páramo. Nó cũng mặc chiếc quần kẻ một sọc từ thắt lưng xuống tới mắt cá chân và mang theo những thứ Miguel vẫn thường mang.

- Và bác tin rằng ngài Pedro, với tài cán mà ngài có, lại để cho con trai mình lởn vởn khắp chốn thế sao? Tôi mường tượng thấy rằng nếu như ngài được biết chuyện ngài sẽ bảo: “Này con ạ, con đã chết rồi. Con hãy ở yên trong phần mộ của mình. Còn chuyện gì cần phải thanh toán cứ để đấy cho ta”. Nếu quả thật ngài nhìn thấy hồn ma ở đấy thì tôi dám đánh cuộc rằng ngài sẽ ra lệnh cho nó trở về nghĩa địa ngay.

- Isaias, bác nói chí phải đấy. Cái ông già ấy chẳng vừa đâu.

- Tôi chỉ kể lại chuyện tôi nghe được thôi! - Bác đánh xe lại cho chiếc xe bò đi theo con đường của mình.

Sao đổi ngôi. Những vì sao rơi cứ như thể trời đang mưa những tia sáng.

- Hãy nhìn kìa các bạn. - Terencio nói. - Hãy nhìn những tua ngù trên kia.

- Đó chẳng qua người ta đang mừng Miguel Páramo đấy mà.

- Không phải điềm xấu sao?

- Đối với ai kia?

- Có lẽ em gái cậu đang não lòng đợi Miguel trở về.

- Cậu nói với ai nào?

- Với cậu chứ còn với ai nữa.

- Các bạn, chúng ta về đi thôi. Chúng ta nói chuyện quá lâu rồi. Ngày mai còn phải dậy sớm.

Và bọn họ tản mát như những chiếc bóng.

Vẫn có ai nói như gào:

- Bảo cô ấy đừng khóc nhé, rằng đã có tôi rồi mà.

- Cậu hãy chào bà xã nhà cậu hộ chúng tớ nhé, - mọi người trả lời.

Sao đổi ngôi. Đèn đóm trong làng Comala tắt hết.

Lúc này bầu trời làm chủ đêm tối.

Cha Rentería trằn trọc trên giường mình, không sao ngủ được.

- Tất cả những gì đã xảy ra chỉ tại mình hết, - cha tự nói với mình. - Đó là nỗi lo làm mích lòng những kẻ đã bảo trợ mình. Đó là sự thực; bọn họ cho mình những thứ cần thiết để sinh tồn. Mình không lấy được gì của những người nghèo! Những lời cầu nguyện chẳng thể no bụng. Cho đến bây giờ điều ấy vẫn hiển nhiên như vậy. Đó chính là những hậu quả tai hại. Đó là tội của mình. Mình phản bội những người đã yêu mình bởi họ gửi gắm niềm tin vào mình, tìm đến mình để mình giúp họ đến với Chúa. Nhưng họ đã giành được gì với niềm tin của chính họ nào? Lên thiên đường ư? Hay thanh lọc tâm hồn họ? Tại sao phải thanh lọc tâm hồn khi lần cuối cùng... Trước mắt mình vẫn hiển hiện cái nhìn của María Dyada, người đến cầu xin mình cứu giúp cho người chị gái là Eduviges:

- Chị ấy luôn luôn phục vụ đồng loại mình, đã cho họ những gì mình có, ngay tới cả một đứa con. Bà đặt nó trước tất cả để xem ai nhận nó làm con mình; nhưng không một ai đã làm điều đó. Thế là chị ấy bảo họ: “Trong trường hợp này, tôi sẽ là cha nó, mặc dù ngẫu nhiên thôi, tôi đã là mẹ của nó”. Bọn họ đã lạm dụng lòng nhân hậu của chị ấy vì chỗ nó không muốn làm thiệt hại ai, cũng chẳng muốn gây thù oán với một ai.

- Nhưng bà ấy đã tự vẫn mà tự vẫn là làm trái ý Chúa.

- Chị ấy không còn con đường nào khác. Chị ấy làm như vậy cũng chỉ vì lòng nhân hậu của mình.

- Đến phút chót bà ấy đã sai lầm, - điều đó mình đã nói ra với María Dyada. - Ăn thua là ở cái phút cuối cùng. Cúc cung tu nhân tích đức bao năm trời để được cứu rỗi linh hồn. Nhưng rồi bỗng chốc mất hết.

- Nhưng chị ấy đã đánh mất hết đâu. Chị ấy chết với bao đau đớn. Và cái nỗi đau ấy... Cha đã nói với chúng con về cái nỗi đau mà giờ đây con quên mất tên gọi. Chị ấy ra đi với chính nỗi đau ấy. Chị ấy chết co quắp do sặc máu. Con vẫn nhìn thấy vẻ mặt của chị ấy, đó là những biểu hiện buồn thảm nhất mà con người để lộ ra.

- Có lẽ phải cầu nguyện nhiều.

- Vậy chúng ta sẽ cầu nguyện thật nhiều cho chị ấy, thưa cha.

- Ta nói là có thể, rằng nếu có thể cầu nguyện kinh misa do Giáo hoàng Gregory đặt. Nhưng để tổ chức lễ cầu kinh ấy cần phải có sự giúp đỡ, cần mời các thầy tu. Điều đó có nghĩa phải có tiền.

Đôi mắt của María Dyada, một người đàn bà nghèo đông con, vẫn ở đó, ở ngay trước mắt ta.

- Con không có tiền. Điều đó cha thừa biết, thưa cha.

- Vậy thì cứ để nguyên như thế. Chúng ta hãy chờ Chúa.

- Vâng, thưa cha.

Vì sao đôi mắt ấy trở lại hiện ra một cách dũng cảm trước sự nhẫn nhục chịu đựng này! Cái gì đã bắt đức cha từ chối giải tội khi việc nói ra một từ, hai từ, hay một trăm từ là một việc dễ dàng nếu như những từ này đích thực cần thiết cho việc cứu giúp một linh hồn. Đức cha đã biết gì về thiên đường và địa ngục? Tuy nhiên, đức cha, do hòa mình trong một làng không tên tuổi, đã biết chắc những ai là người đáng được lên thiên đường. Có cả một danh sách. Đức cha bắt đầu điểm lại các vị thánh trong điện pantheon Công giáo bằng việc nhớ lại các ngày thánh: “Thánh bà Nunilona, trinh trắng và tuẫn tiết; thánh Anercio, đức giám mục; thánh bà Salome, bà quả phụ; các thánh bà Alodia và Nulina, tất cả đều là gái đồng trinh; và các thánh Cordula và Doñato”. Đức cha vẫn tiếp tục dẫn thêm tên người. Rồi cơn buồn ngủ cũng tới với đức cha khi cha ngồi dậy trên giường: “Ta đã duyệt lại các tên thánh như thể ta nhìn thấy những con dê cái đang nhảy ra”.

Đức cha đi ra ngoài và nhìn lên trời. Sao nhấp nháy như trời đang mưa sao. Cái quang cảnh này khiến đức cha buồn vì ngài muốn ngắm bầu trời im ắng. Đức cha nghe thấy tiếng gà gáy sáng. Ngài cảm thấy bóng đêm đang bao trùm lên mặt đất. Mặt đất, “cái thung lũng đầy nước mắt này”.

- Cháu có phúc lắm đấy, cháu ạ. Cháu thật có phúc, - bà Eduviges Dyada nói với tôi.

Đêm đã khuya lắm rồi. Cây đèn thắp sáng trong một xó đã bắt đầu tàn; sau đó nó leo lét cháy rồi tắt phụt mất.

Tôi cảm thấy người đàn bà đứng dậy và tôi nghĩ rằng bà ấy sẽ đi lấy ngọn đèn khác. Tôi nghe tiếng bước chân bà ngày một xa. Tôi ngồi đợi. Đợi một lúc mà không thấy bà trở lại, tôi cũng đứng dậy. Tôi đi từng bước ngắn, dò dẫm trong bóng tối cho tới khi trở về phòng mình... Tôi ngồi xuống sàn nhà và đợi giấc ngủ tới.

Tôi ngủ chập chờn từng lúc một.

Trong lúc chập chờn ngủ tôi nghe thấy có tiếng gào. Đó là một tiếng gào rất lâu, như một tiếng la hét thảm thương của kẻ say rượu nào đó: “Ôi cuộc đời, ngươi không xứng đáng với ta”.

Tôi vội vàng bật đứng dậy, bởi tôi nghe nó gần kề ngay bên tai mình, có thể là nó ở ngoài đường; nhưng tôi nghe thấy rõ ngay ở đây, nó lẩn quất trong bốn bức tường phòng tôi nghỉ. Khi thức dậy, tất cả đều im lặng. Chỉ có tiếng động những con bướm đêm rớt xuống sàn nhà và sự im ắng.

Không thể nào đo được độ thâm sâu của sự im ắng mà tiếng la hét ấy gây nên. Tôi có cảm giác là đất mất không khí của nó. Không một tiếng động, không một hơi thở nhẹ, không một tiếng tim đập. Nó cứ như là tiếng ồn của lương tri đứng dừng lại. Khi khoảnh khắc ấy qua đi và tôi bình tâm trở lại thì tiếng la thét lại vang lên và người ta nghe thấy nó kéo dài được một lúc khá lâu: “Ít nhất phải cho ta cái quyền được giãy giụa của kẻ bị treo cổ”.

Giữa lúc ấy cánh cửa mở toang.

- Có phải bà đấy không, bà Eduviges? - Tôi hỏi. - Có gì thế hở bà? Bà sợ lắm phải không?

- Đừng gọi ta là Eduviges. Ta là Damiana. Ta biết cậu ở đây và vì thế ta đến thăm cậu đấy. Ta muốn mời cậu về nhà ta mà ngủ. Ở đó cậu sẽ có chỗ mà nghỉ ngơi.

- Bà Damiana Cisneros phải không? Bà từ điền trang Media Luna đến phải không?

- Ta sống ở đó mà. Vì thế mà ta đến đây chậm đấy.

- Mẹ cháu có nói với cháu về một bà Damiana nào đó, cái bà từng chăm sóc cháu khi cháu mới lọt lòng. Vậy ra người ấy chính là bà đấy?

- Đúng thế, chính ta đấy mà. Ta biết cháu ngay từ lúc cháu mới mở mắt.

- Cháu sẽ đi với bà. Ở đây cháu không tài nào bình tâm được trước những la thét. Bà không nghe thấy những tiếng thét vừa la xong ư? Như thể người ta vừa giết ai ở đây ấy. Bà không nghe thấy gì hết cả sao?

- Có thể đó là một vài tiếng vọng còn rớt lại trong này. Cách đây lâu lắm, người ta treo cổ Toribio Aldrete. Sau đó họ đóng cửa lại cho tới khi xác chết teo lại để nó không có chỗ an nghỉ. Ta chịu không hiểu làm sao cháu lại vào được đây khi không có chìa khóa mở cửa phòng.

- Bà Eduviges là người mở cửa cho cháu vào. Bà ấy bảo cháu đây là phòng duy nhất còn trống.

- Bà Eduviges Dyada?

- Chính là bà ta mà.

- Đáng thương thay bà Eduviges. Có lẽ bà ấy vẫn đau khổ lang thang đi lại như thế.

“Tôi! Fulgor Sedano, đàn ông. Năm mươi tư tuổi, chưa vợ, chức nghiệp quản lý, vì quyền lực và quyền lợi của mình, đã sẵn sàng hầu kiện, xin thỉnh cầu và cáo giác một việc sau đây...”

Lão đã nói điều đó khi phát đơn kiện những việc làm của Toribio Aldrete. Khi kết thúc tờ đơn đã ghi rõ: “Hãy thừa nhận quyền dụng ích của tôi”.

- Với ngài, không một ai tước mất bản tính của ngài, don Fulgor ạ. Tôi biết rằng ngài có thể làm tất cả. Điều đó không phải vì ngài có cả một bộ máy quyền lực phía sau mà chính vì bản tính của ngài mà.

Câu chuyện được nhớ lại như thế này. Đó là điều đầu tiên Aldrete đã nói sau khi cả hai người cùng say khướt. Người ta bảo rằng họ uống để mừng văn tự:

- Với tờ giấy ấy, ngài và tôi, chúng ta sẽ dùng nó để đi chùi đít mà thôi, bởi chẳng thể dùng nó vào việc gì khác được. Điều đó thì ngài biết tỏng rồi. Cuối cùng thì, về phía ngài, ngài đã hoàn thành nhiệm vụ người ta sai bảo ngài, còn tôi, nhẹ bẫng cả người; vì ngài đã làm tôi lo lắng, ai gặp chuyện như thế mà chả lo. Bây giờ tôi biết người ta muốn gì và tôi thấy tức cười. Người ta bảo quyền dụng ích. Thằng chủ của ngài ngây thơ quá đỗi và điều ấy thực đáng nực cười cho hắn ta.

Câu chuyện được nhớ lại như thế này. Bọn họ đang ở trong nhà trọ của Eduviges. Thậm chí gã quản lý đã hỏi bà chủ:

- Này, bà Eduviges này, bà có thể cho tôi mượn căn phòng cuối kia được không?

- Phòng nào cũng được, thưa don Fulgor. Nếu ngài muốn, ngài hãy dùng tất cả. Người của ngài sẽ đến đây ngủ cả hay sao?

- Không. Họ không đến ngủ cả ở đây. Tôi chỉ cần một phòng thôi. Bà để mặc chúng tôi và xin bà đi ngủ đi. Hãy để lại cho chúng tôi mượn chìa khóa phòng. Thế thôi, đủ rồi.

- Vậy là tôi đã nói với ngài rồi đấy, don Fulgor ạ, - Toribio Aldrete nói với viên quản lý. - Không một ai dám coi thường cái chất người trong ngài. Nhưng mà tôi mang mối thù truyền kiếp với thằng con khốn kiếp của chủ ngài.

Câu chuyện được nhớ lại như thế này. Đó là điều cuối cùng nghe thấy ông ta nói bằng năm giác quan. Sau đó lão hành xử như một thằng hèn và cứ thế la thét, “Bộ máy quyền lực phía sau tao hả? Ái chà!”.

Gõ cán gậy vào cửa nhà Pedro Páramo, lão nghĩ rằng cách đây hai tuần mình đã gõ như vậy. Đợi một lúc khá lâu giống như lần trước lão đợi. Cũng như lần trước, lão nhìn cái nơ đen treo trước cửa. Như không chỉ nói riêng với mình, lão bình luận thành tiếng: “Gớm thật, cái nọ đã chồng lên cái kia. Cái thứ nhất đã bạc màu còn cái sau cũng óng ánh như thể lụa chẳng bằng, mặc dù nó chỉ là một mẩu giẻ rách được nhuộm thôi. Gớm thật!”.

Lần đầu tiên lão đợi cho tới khi nghĩ rằng có lẽ căn nhà không có người ở. Lão vừa mới quay đi thì hình ảnh Pedro Páramo hiện ra ở cửa.

- Vào đi nào, Fulgor.

Lần thứ hai bọn họ gặp nhau. Lần trước chỉ một mình lão nhìn thấy hắn, bởi vì lúc ấy Pedro vừa mới đẻ. Còn lần này thì sao? Có thể nói gần như là lần đầu tiên họ gặp nhau. Cũng thật trớ trêu quá, hắn nói chuyện với lão như với một người bằng vai phải lứa. Gớm thật! Lão theo sau hắn một cách hấp tấp, hai chân va phải nhau liên hồi: “Rồi cậu ta sẽ biết ngay mình là người thông thạo mà. Rồi cậu ta sẽ biết mà. Mình đến đây vì mục đích ấy”.

- Nào, hãy ngồi xuống đi, Fulgor. Ở đây nói chuyện bình tĩnh hơn.

Bọn họ đang ở trong bãi quây gia súc. Pedro Páramo ngồi choán hết cả cái máng cỏ và đợi chờ:

- Sao không ngồi xuống hả?

- Tôi muốn được đứng, Pedro ạ.

- Thế thì tùy vậy. À này! Lão đừng quên rằng lão phải gọi ta là don Pedro nghe chưa!

Cái gã thanh niên kia là ai mà lại ăn nói với lão như vậy nhỉ? Ngay cả cha hắn, don Lucas Páramo, cũng không dám ăn nói xấc xược như vậy với lão kia mà. Rồi bỗng dưng cái gã này, chưa từng đứng ngoài đồng, chưa từng quen nghe nói tới công việc đồng áng, đã nói năng với lão như nói với một ông thợ cày. Rồi sẽ biết.

- Tình hình nơi này thế nào rồi?

Lão ta nghĩ đã đến lượt mình rồi. “Bây giờ thì đến lượt ta”.

- Thật là tồi tệ. Chẳng còn gì hết. Chúng ta đã bán tới con gia súc cuối cùng rồi.

Lão bắt đầu rút ra những tờ giấy để thông báo cho gã trẻ tuổi biết số nợ đã lên bao nhiêu. Rồi lão toan bảo: “Chúng ta nợ quá nhiều”. Ngay chính lúc ấy, lão nghe thấy hắn nói:

- Chúng ta nợ ai? Nợ bao nhiêu không quan trọng bằng nợ ai.

Lão đọc cho hắn nghe lại danh sách ghi tên các chủ nợ. Sau đó lão kết thúc:

- Không biết đào đâu ra mà trả nợ. Đó mới là vấn đề.

- Vì sao?

- Vì gia đình ngài ngoạm hết rồi. Vay rồi lại vay mà không trả nợ đồng nào. Cứ thế thì phải trả giá đắt chứ sao. Tôi đã chả bảo rằng: “Tiêu xài như thế này rồi đến núi cũng phải hết”. Thế đấy, hết sạch rồi. Tuy nhiên cũng có người muốn mua đất. Họ trả giá hời. Với số tiền ấy ta có thể trang trải hết nợ và vẫn còn lại chút ít. Dù chả đáng là bao nhưng vẫn còn lại chút ít của cải.

- Lão lại muốn mua lại chứ gì?

- Sao ngài lại có thể nghĩ rằng tôi là người muốn mua đất nhỉ!

- Ta tin đến cả thần thánh. Ngày mai chúng ta sẽ bắt đầu lo chuyện giải quyết các vấn đề. Chúng ta sẽ trả trước cho các bà thuộc gia đình Preciado. Lão bảo rằng chúng ta nợ họ nhiều phải không?

- Vâng, đúng thế. Nhưng đó lại là những người chúng ta trả nợ được rất ít. Ông cụ nhà ta lúc nào cũng hứa với họ là sẽ thanh toán ngay tức thì. Tôi được biết chắc chắn rằng, một trong số các bà ấy, bà Matilde, đã bỏ làng lên thành phố. Tôi không rõ bà ấy đến sống ở Guadalajara, hay ở Colima. Còn Lola, ý tôi muốn nói là cô Dolores, đã ở lại làng với tư cách là bà chủ của tất cả các món nợ. Ngài đã biết: khu trại Enmedio đấy. Chính là cô ta, người mà chúng ta phải trả nợ.

- Ngày mai, lão hãy đi cầu hôn cô ta.

- Trời ơi, tại sao ngài lại muốn tôi đi cầu hôn cô ta khi mà tôi đã già rồi.

- Lão đi cầu hôn cho ta, cho ta. Xét cho cùng cô ta cũng có duyên đấy. Lão hãy bảo với cô ta là ta rất yêu cô ta. Và rằng nếu cô ta cũng yêu ta thì... khi trở về, lão hãy nói với cha Rentería rằng cha chuẩn bị giấy tờ giá thú cho ta. Lão lo được bao nhiêu tiền nhỉ?

- Không một đồng nào cả, thưa don Pedro.

- Thế thì hãy hứa với cha ấy đi nhé. Nói với ông ấy khi nào có tiền chúng ta sẽ trả hết. Hầu như ta tin chắc rằng ông ấy sẽ không đặt điều kiện khó khăn cho ta đâu. Ngày mai lão hãy làm việc này nhé.

- Thế còn vấn đề với Aldrete thì sao?

- Aldrete thì liên quan gì nào? Lão chỉ dẫn những chủ nợ như chị em nhà Preciado, anh em nhà Fregoso và anh em nhà Guzman với ta thôi. Vì sao bây giờ lại có chuyện Aldrete nhỉ?

- Đó là vấn đề ranh giới, ông ta đã cho rào lại đất đai và yêu cầu chúng ta rào nốt chỗ còn lại để phân chia ranh giới đất đai.

- Việc ấy để sau đi. Lão không cần phải bận tâm. Sẽ không rào. Đất vốn không có ranh giới. Cho dù lúc này lão chưa hiểu được nhưng hãy nghĩ đi. Hãy lo giải quyết câu chuyện với cô Lola đã, phải lo gấp vào. Ơ hay, lão không muốn ngồi à?

- Vâng, vâng, tôi ngồi ngay đây ạ, thưa don Pedro. Thành thật mà nói tôi bắt đầu thấy thích làm việc với ngài.

- Lão hãy nói với Lola thế này, thế này và bảo rằng ta yêu nàng. Đó là điều quan trọng. Bởi đôi mắt của nàng mà ta yêu, lão biết không. Nhớ rằng, sáng sớm mai lão phải nói điều ấy với cô ta đấy. Ta sẽ giảm bớt việc quản lý cho lão. Lão hãy quên chuyện điền trang Media Luna.

“Ông chủ trẻ tuổi này làm sao có được những mưu mô ấy nhỉ? - Fulgor suy nghĩ trong lúc lão trở lại Media Luna. - Mình chẳng trông mong gì hắn. “Đó là một thằng vô dụng”, ông chủ đã quá cố của mình, don Lucas, nói như thế. “Một thằng ươn lười hết chỗ nói”. Mình đã tán thành nhận xét ấy của ngài. “Khi nào ta khuất bóng, ông nhớ đi tìm công việc khác, nhớ chưa Fulgor!” “Thưa don Lucas, xin ngài yên tâm.” “Fulgor này, để cho ông biết, ta bảo này, ta định gửi nó đến một trường dòng để xem ít ra nó cũng kiếm được miếng ăn và có cái nuôi dưỡng mẹ nó khi ta qua đời. Nhưng ngay với việc này nó cũng chưa dứt khoát.” “Don Lucas ạ, xin ngài đừng hao tâm tổn sức lo nghĩ tới chuyện đó.” “Nó chẳng làm nổi bất cứ việc gì, ngay cả khi ta già nua nó cũng không dìu nổi ta đi lại. Ta thật là bất hạnh, có phải thế không Fulgor?” “Quả đó là nỗi bất hạnh, thưa don Lucas”.

Và giờ đây, cái công việc này lại xảy ra. Nếu không vì còn quá mến điền trang Media Luna thì lão đã chẳng đến thăm Pedro. Lão sẽ bỏ đi mà không hề báo cho hắn biết. Nhưng điền trang kia có giá đối với lão. Những quả đồi quang đãng được khai phá lâu ngày, nay đất đã thục, vẫn giữ nguyên các luống đất mà mỗi năm lại còn sinh được nhiều hoa lợi hơn... Ôi điền trang Media Luna thân yêu... và những thứ lợi lộc của nó: “Hỡi điền trang Enmedio, hãy về đây, về đây...”. Lão nhìn thấy đất đai ấy đang đến, cứ như thể nó đã ở đây rồi. Ruộng đất, đó là tất cả giá trị của một người con gái. “Phải thế chứ!”, lão nói. Vào lúc ra khỏi cửa chính của điền trang, lão bước gấp đi thật nhanh.

Mồi chài Dolores thật quá ư dễ dàng. Đôi mắt cô rực sáng và gương mặt cô hớn hở rạng rỡ.

- Xin lỗi don Fulgor vì tôi đỏ mặt. Tôi không tin rằng don Pedro lại để ý đến tôi.

- Ngài mất ngủ vì chỉ nghĩ đến cô thôi.

- Nhưng ông ta có chỗ để lựa chọn người bạn chăn gối. Có biết bao cô gái đẹp ở làng Comala. Các cô ấy sẽ nghĩ sao khi biết chuyện này.

- Ngài chỉ nghĩ tới cô, Dolores ạ. Ngài chẳng nghĩ tới một ai ở trong cái làng ấy.

- Ngài có biết không, tới rợn cả người vì nghe lời ngài nói, don Fulgor ạ. Ngay đến tưởng tượng thôi tôi cùng không dám nghĩ tới, huống chi là...

- Chả là vì ngài là người quyết đoán mà. Don Lucas Páramo, người đã an nghỉ nơi chín suối, từng khuyên nhủ con trai mình rằng cậu ấy không xứng đáng với cô. Lúc ấy, don Pedro chỉ biết cúi đầu vâng lời, không dám cãi lại. Bây giờ ông già đã quá cố, không còn ai có thể ngăn cản được Pedro nữa. Đây là quyết định đầu tiên của ông chủ tôi. Thế mà bây giờ tôi mới đến đây để chuyển đến cô lời cầu hôn của ông chủ tôi. Cô hiểu cho công việc nhiều quá nên tôi đến đây khí muộn. Chúng ta thỏa thuận với nhau rằng ngày cưới sẽ là ngày kia nhé. Ý cô thế nào, xin cho biết?

- Như thế không phải là quá hấp tấp sao? Tôi chưa chuẩn bị được gì hết. Phải có thời gian cho tôi gửi người đi sắm đồ cưới, còn phải viết thư cho chị tôi này. Hay là thôi, tôi chỉ cần nhắn tin cho chị ấy cũng được. Nhưng dù sao chăng nữa, ngày cưới cũng không thể trước ngày mồng tám tháng Tư. Hôm nay là mồng một. Vâng, đúng thế, cũng gần ngày mồng tám lắm rồi. Ngài bảo với ông ta là hãy đợi tôi một ít ngày nữa nhé.

- Ông chủ tôi lại muốn ngay lúc này kia, cô ạ. Nếu chỉ đồ cưới chúng tôi xin chu tất. Người mẹ quá cố của don Pedro từng mong đợi cô về để mặc quần áo của bà cụ. Nhà này vốn có tập quán ấy.

- Nhưng không chỉ vì đồ cưới không đâu, còn chuyện khác nữa cơ. Chuyện của chị em phụ nữ ấy ngài có biết không. Ôi xấu hổ chết đi được khi phải nói tới chuyện này, don Fulgor ạ. Ngài biết cho là tôi... đang hành kinh mà. Eo ôi, xấu hổ quá đi mất!

- Thế thì đã sao nào? Chuyện vợ chồng không phải là vấn đề có hay không có kinh. Nó là vấn đề yêu nhau. Miễn là yêu nhau thôi còn tất cả những cái khác đều là thừa hết.

- Nhưng, như thế là ngài vẫn chưa hiểu tôi, don Fulgor ạ.

- Hiểu nhau rồi mà. Ngày cưới sẽ là ngày kia.

Rồi lão bỏ ra về, để lại cô gái trong điệu bộ giơ cao hai cánh tay xin thêm tám ngày nữa, chỉ tám ngày không hơn kém.

“Hãy về nói với don Pedro - ôi, cái anh chàng Pedro ấy sao mà máu thế không biết - nói với ngài rằng đừng quên thưa chuyện với quan tòa rằng tài sản sẽ là của chung nhé Fulgor, nhớ là ngày mai lão sẽ thưa chuyện ấy với quan tòa”.

Còn cô Dolores, lúc ấy, cầm chậu rửa chạy ngay xuống nhà bếp lấy nước nóng: “Ta phải làm cho nó hạ cơn ngay. Mong rằng sẽ hạ cơn ngay trong đêm nay. Nhưng dù sao mình cũng vẫn phải mất ba ngày. Không còn cách nào khác. Ôi hạnh phúc! Ôi hạnh phúc! Cảm ơn Thượng đế đã cho con don Pedro”. Sau đó cô nói thêm: “Dẫu rằng có bị ruồng bỏ con cũng cam lòng”

- Lola đã nhận lời cầu hôn và cô ấy đã tán thành. Cha xứ đòi sáu mươi đồng peso để làm giấy giá thú. Con nói với cha rằng sẽ đưa tiền cho cha vào lúc thích hợp. Cha nói rằng cha cần phải làm bàn thờ Chúa và sửa lại cái bàn đã long chân trong phòng ăn của ngài. Con hứa với cha là chúng ta sẽ gửi tới cho cha một chiếc bàn mới. Cha trách ngài không đi dự lễ misa. Thay mặt ngài con hứa là ngài sẽ đi. Cha trách rằng kể từ khi bà nội ngài mất đến nay chúng ta không trả cho nhà thờ số một phần mười hoa lợi thu được trên đất đai của mình. Con bảo cha rằng cha đừng lo về cái khoản đó. Cha đã bằng lòng.

- Lão không vay tiền của Lola sao?

- Không ạ, thưa ông chủ. Con không dám ạ. Thật tình như thế ạ. Cô ấy đang vui và vì thế con không nỡ làm cô ấy mất vui.

- Lão trẻ con quá đi mất.

“Thôi đi, tôi mà lại là trẻ con kia. Với năm mươi lăm tuổi trên đầu tôi vẫn còn trẻ con. Nên nhớ cho là trong lúc ngài mới bước chân vào đời thì tôi đã gần kề miệng lỗ rồi cơ đấy.”

- Con không muốn làm cô ta mất vui.

- Dù sao lão vẫn là một thằng nhóc con.

- Vâng, thưa ông chủ.

- Tuần tới lão sẽ lo đến chuyện của Aldrete. Lão bảo hắn phải thu rào lại. Hắn đã lấn đất của ta ở điền trang Media Luna.

- Ông ấy đo đạc đúng đắn đấy ạ. Và con đã chứng thực điều đó.

- Lão hãy nói lại là hắn đã lầm, nghe chưa Fulgor? Hãy báo rằng hắn tính sai. Lão cứ phá hàng rào đi cho ta nếu cần phải phá, nghe chưa Fulgor.

- Thế còn luật pháp thì sao?

- Ô hay, pháp luật nào kia, hở Fulgor? Luật pháp từ đây trở về sau này sẽ do chúng ta làm nên. Ở đằng điền trang Media Luna, lão còn phải đối mặt với nhiều thằng ương ngạnh không?

- Thưa còn ạ, chúng nhiều lắm.

- Vậy lão hãy liệt chúng vào bè đảng của Aldrete. Lão đưa đơn tố giác hắn là kẻ vi phạm quyền dụng ích của ta hoặc bất kỳ tội trạng nào mà lão nghĩ ra được. Hãy nhắc hắn nhớ rằng Lucas Páramo chết rồi. Với ta, ta cần có những khế ước mới.

Trời vẫn trong xanh. Thỉnh thoảng có một đám mây bay qua. Trên ấy gió vẫn thổi nhưng ở dưới này không khí nóng hầm hập.