3. TRỘM MỘ JEKYLL VÀ HYDE, HUNTER VÀ KNOX
Những vụ giết người bắt đầu một cách vô tội như vậy. Trong một nhà trọ ấm cúng bằng đá ở Edinburgh, nép mình dưới bóng của tòa lâu đài trên đỉnh ngọn đồi nổi tiếng của thành phố, một ông già tên Donald đang lắt lay như ngọn đèn trước gió. Ông mắc bệnh tràn dịch màng phổi (cổ chướng) và về cơ bản là chết đuối trên cạn. Cuối cùng, khi ông ấy qua đời vào một đêm tháng 11 năm 1827, chủ nhà William Hare đã sắp xếp cho ông một lễ chôn cất tại nhà thờ.
Nhưng lúc đó Hare lại phải suy nghĩ. Nhà thờ không thể tiếp nhận thi thể ngay lập tức, và anh ta đã bảo với một người hàng xóm, William Burke, bí mật bán thi thể người đàn ông này đi. Vào thời điểm đó, sở hữu và bán một xác chết không phải là hành vi bất hợp pháp, và có một thị trường, nếu không muốn nói là rất bẩn thỉu, dành cho họ: các nhà giải phẫu học ở Edinburgh luôn cần xác chết để nghiên cứu và họ luôn sẵn sàng trả tiền cho điều đó. Burke nhất trí rằng đây là một cơ hội không thể bỏ lỡ. Nên thay vì phản đối, bộ đôi này đã bắt tay để kiếm tiền.
Một người thợ mộc nhanh chóng xuất hiện, đưa Donald vào quan tài, đóng nắp và để nó lại cho hai người đàn ông. Nhanh chóng hành động, bọn chúng dùng đục để mở nắp, giấu xác của Donald trên một chiếc giường gần đó và lấp đầy quan tài bằng lượng rác rưởi có trọng lượng tương đương. Khi ghé lại sau đó để hỏi về chiếc quan tài, các nhân viên nhà thờ hoàn toàn không biết về những việc đã xảy ra.
Giờ đây, bộ đôi này phải tìm cách tống khứ cái xác đi. Chúng lang thang đến một trường y khoa, nhưng bác sĩ giải phẫu trưởng đi vắng. Vì vậy, chúng tìm đến một trong những đối thủ của ông ấy, Robert Knox. Knox cũng đi vắng, nhưng các trợ lý của ông ấy hẹn bộ đôi quay trở lại sau; vì vậy, tối đó chúng đã gói xác Donald lại và chuyển đến chỗ Knox để ông ấy đánh giá. Nhà giải phẫu học nổi tiếng bị hói trên đỉnh đầu, mắt trái bị mù do hậu quả của bệnh đậu mùa. Ông ấy cũng khá ưa nhìn, dù khi làm việc vào đêm hôm đó, ông ấy mặc một chiếc áo khoác lấm lem máu.
Burke và Hare đặt xác Donald lên một chiếc bàn mô màu xanh lá cây trong phòng thí nghiệm của Knox và mở chiếc bọc xác ra. Sau đó, họ nín thở trong khi Knox đưa mắt nhìn qua cái xác. Cả hai vô cùng căng thẳng - liệu ông ấy có nghi ngờ họ đã đánh cắp cái xác hay không?
Tôi sẽ trả các anh 7 bảng và 10 đồng silinh, cuối cùng Knox lên tiếng.
Hai người nhận tiền và cuốn xéo. Burke cảm thấy tội lỗi, nhưng không ai đau lòng. Dù sao thì họ cũng cần tiền.
Nhưng giống như những đồng tiền khác, 7 bảng và 10 đồng silinh bốc hơi nhanh chóng. Và khi một người thợ xây già tên là Joseph xuất hiện tại nhà trọ của Hare vài tháng sau đó và bị ốm sắp chết vì một cơn sốt, bộ đôi không thể không bắt đầu cân nhắc về việc làm kia. Hare rất nóng lòng muốn thủ tiêu Joseph vì dù thế nào đi nữa: anh ta không muốn nhà trọ của mình bị mang tiếng là ổ bệnh. Và cho rằng dù gì ông lão cũng như đã chết rồi, tại sao không tiễn ông ta đi cho nhanh? Không ai biết ai trong số bọn chúng là người đề xuất việc đó, hoặc liệu chúng có dám thảo luận công khai hay không. Nhưng trước khi một ngày nữa trôi qua, Burke thấy mình đang nhẹ nhàng áp một chiếc gối vào mặt Joseph. Sau đó, Hare nằm đè lên ngực người thợ xây, ngay phía trên vùng phổi của ông ta. Thế là chúng đã có một cái xác mới để bán lấy tiền.
Những kẻ giết người hàng loạt William Hare (trái) và William Burke (phải). (Bản vẽ của George Andrew Lutenor.)
Đúng vậy không? Việc đến gặp Knox lần này chắc hẳn sẽ căng thẳng gấp bội. Chắc chắn một nhà giải phẫu chuyên nghiệp có thể phát hiện ra một vụ giết người.
Burke và Hare không cần phải lo lắng. Như những người hâm mộ các vụ án giết người bí ẩn đều biết, siết cổ ai đó thường sẽ làm gãy xương móng vì xương đó rất dễ vỡ và nứt ra dưới áp lực. Nhưng phương pháp làm ngạt thở vùng mặt và ngực của bộ đôi Edinburgh - sớm được biết đến với tên gọi "burking" - sẽ giúp phần xương móng được giữ nguyên vẹn. Nói cách khác, chúng đã phát hiện ra cách rất thông minh để làm chết ngạt ai đó.
Với hiện trạng của khoa học pháp y vào thời điểm đó, nếu muốn tìm ra bằng chứng giết người - và tất nhiên, Knox quyết tâm không tìm ra bằng chứng đó. Giống như tất cả các nhà giải phẫu học trong thời đại đó, ông ấy biết là không nên đặt câu hỏi về nguồn gốc của các mẫu vật của mình. Nhưng khi chấp nhận xác người mà Burke và Hare mang đến, ông ấy đã tiếp tay cho một tội ác chết người lớn nhất trong lịch sử khoa học.
Nguời ta từng đồn đại rằng, nhà thờ Thiên Chúa giáo ở châu Âu đã cấm mổ xẻ con người từ lâu, vì thế đẩy ngành khoa học giải phẫu đi vào thế bí. Trên thực tế, các nhà thờ ở Ý thường làm việc với các nhà giải phẫu học, cất giữ thi thể cho họ sau những nghi lễ cuối cùng. Các nhân viên nhà thờ thậm chí còn khuyến khích việc mổ xẻ những người sẽ trở thành một vị thánh. Làm sao họ có thể nhìn những bộ xương và những quả tim cùng những bộ phận khô quắt, nhăn nheo khác vốn thu hút những người hành hương và những con chiên? Các quốc gia khác cũng vậy. Một nhà viết kịch người Pháp phàn nàn rằng việc dàn dựng, mổ xẻ công khai đã thu hút một lượng lớn khán giả đến mức họ đang phải cắt giảm lượng khán giả đến xem các buổi biểu diễn của ông ấy. Vào những năm 1600, các cuộc mổ xẻ vì mục đích khoa học khá phổ biến ở khắp châu Âu.
Ít nhất là lục địa châu Âu - Anh đã ban hành lệnh cấm hoạt động giải phẫu. Người dân ở đó lo sợ rằng việc giải phẫu sau khi chết sẽ khiến cơ thể họ bị tan nát vào Ngày Phán xét, thời điểm Chúa cho người chết sống lại. Những người Thanh giáo Anh cũng coi việc mổ xẻ là điều đáng xấu hổ - một cơ thể trần truồng nằm đó, bị sờ nắn và mổ xẻ. Tuy nhiên, các quan chức thế tục mới là những người ban hành lệnh cấm, chứ không phải các linh mục hay giám mục.
Tuy nhiên, chính phủ Anh đã cung cấp một số thi thể cho các nhà giải phẫu học. Đây thường là những tên tội phạm bị hành quyết, những người bị kết án "tử hình và phanh thây" như một "nỗi khiếp sợ và một dấu hiệu lạ thường của tội ác". Nhưng ngay cả trong thời đại mà việc chặt cây sai có thể khiến bạn bị treo cổ (thực sự là như vậy), thì vẫn chưa bao giờ có đủ số vụ hành quyết để đáp ứng nhu cầu từ các trường y. (Ngày nay, hai sinh viên y khoa thường mổ một cơ thể trong lớp giải phẫu cơ bản; thời điểm đó, nếu họ chỉ dựa vào các cơ thể được hiến tặng hợp pháp, tỷ lệ sẽ là vài trăm sinh viên trên một xác chết.) Sự thiếu hụt này lại dẫn đến những cảnh tượng khó hiểu tại các điểm treo cổ trước công chúng, với cảnh các sinh viên từ các trường y khoa đối thủ ẩu đả tranh giành xác chết. Với mục tiêu nhanh chóng giành được xác chết, đôi khi họ thậm chí còn kéo những người chưa chết hẳn ra khỏi giá treo cổ. Cổ của họ không bị gãy và họ chỉ bị ngất đi vì thiếu không khí - sau đó bật dậy trên bàn mổ. Những người khác không may mắn như vậy. Một ngày sau đó, xem xét lại hồ sơ giải phẫu cho thấy tim của 10 trong 36 trường hợp vẫn đập. Nhưng tại thời điểm đó, đã quá muộn để có thể quay ngược thời gian.
Trong quá trình giải phẫu, các sinh viên sẽ dùng dao mổ bụng, lấy các cơ quan và mô riêng lẻ bên trong. Họ sẽ nghiên cứu vị trí các mạch máu chính chạy qua, gan được kết nối với những bộ phận nào, dây thần kinh kết nối với cơ như thế nào,... Điều này giúp họ có một cái nhìn tốt hơn về hoạt động của cơ thể và mối liên kết không thể tách rời của các bộ phận, chính là nền tảng của một nền giáo dục y học. Nếu không, bạn chỉ có thể để các bác sĩ cố gắng xác định các cơ quan nhiễm bệnh mà không biết những cơ quan khỏe mạnh trông như thế nào, một nhiệm vụ bất khả thi. Tệ hơn nữa, nếu không có kiến thức chi tiết về giải phẫu, các bác sĩ có thể cắt đứt động mạch hoặc dây thần kinh khi đang "đào bới" bên trong người nào đó, khiến bệnh nhân phải sống đời thực vật nếu không chết.
Do tình trạng thiếu xác để làm giải phẫu, các nhà giải phẫu học người Anh (và những người đồng cấp của họ ở Bắc Mỹ) cảm thấy họ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trộm mộ. Một số nhà khoa học đã tự thực hiện hành động này, trong khi những người khác tranh thủ sự giúp đỡ của sinh viên, yêu cầu họ thề sẽ im lặng vào đầu học kỳ như những thành viên trong câu lạc bộ ái tử thi. Tuy nhiên, những lời thề hiếm khi có hiệu quả. "Dưới màn đêm", như một người quan sát cho hay, "trong những bữa tiệc bệnh hoạn nhất", các sinh viên sẽ uống rượu và xông vào các sân nhà thờ để khai quật những thi thể mới. Đối với họ, đó là trò chơi của quỷ dữ.
Bản mô phỏng một căn phòng giải phẫu. Hãy chú ý đến kẻ trộm mộ đang bước vào căn phòng với một thi thể bị đóng gói. (Tranh của Thomas Rowlandson.)
Các quan chức chính phủ có xu hướng nhìn nhận hành vi trộm mộ từ góc độ khác vì hai lý do. Thứ nhất, hầu hết các quan chức chính phủ đều giàu có và quyền lực. Trong khi đó, hầu hết các xác để giải phẫu đều đến từ tầng lớp bần cùng. Do đó, các quan chức có thể tha thứ cho việc trộm mộ mà không sợ người thân của họ mất tích. Ít vô nhân đạo hơn, các quan chức cũng biết rằng các bác sĩ và bác sĩ phẫu thuật mới vào nghề cần xác để tập luyện - và nói thẳng ra là để có có cơ hội thử và sai. Nếu không, những người mới vào nghề sẽ học giải phẫu bên trên chính các bệnh nhân còn sống, mắc sai lầm khi đang giải phẫu sâu bên trong ruột của họ. Nhiều người trong chính phủ muốn hợp pháp hóa việc giải phẫu vì lý do này, nhưng đa số ý kiến đã phản đối. Kết quả là giới y khoa Anh rơi vào một cuộc tạm ngưng không mấy dễ chịu liên quan đến việc mua bán xác. Đừng hỏi, đừng nói.
Nỗi ám ảnh của một người chính là tác nhân đã phá vỡ trạng thái cân bằng đó. John Hunter là William Dampier trong ngành giải phẫu học, được tôn kính vì những khám phá và được khen ngợi vì các phương pháp của ông. Lỗ mãng và ăn nói tục tĩu với mái tóc đỏ đến mức bạn có thể châm một điếu xì gà, Hunter là con út trong một gia đình Scotland 10 người con, và ông ấy theo nghiệp y một phần vì 6 anh chị của ông đều chết trẻ vì bệnh tật. Ông ấy noi gương người anh trai William, một bác sĩ sản khoa ở London, người được đánh giá cao (và được trả lương cao) nhờ việc đã cẩn thận đỡ đẻ cho phu nhân của các nhân vật quyền lực. William cũng dạy giải phẫu, nhưng không muốn khiến bản thân dơ bẩn trong những vụ mổ xẻ xác. Vì vậy, vào năm 1748, ở tuổi 20, Hunter chuyển đến London để trở thành trợ lý giải phẫu cho anh trai mình. Ông ấy chưa từng thực hiện bất kỳ một vết rạch nào lên cơ thể trước đó, nhưng sau sự vụng về của vết mổ đầu tiên, ông ấy đã không bao giờ dừng thực hiện công việc đó.
Nỗi ám ảnh của Hunter có hai dạng. Đầu tiên, ông ấy đam mê giải phẫu vì mục đích tìm hiểu, và không chỉ là giải phẫu con người. Ông ấy cũng đã giải phẫu trên hàng nghìn con vật, bao gồm cả những bộ phận nhỏ bé như "tinh hoàn chim sẻ, noãn ong và nhau thai khỉ"; ông ấy thậm chí còn hợp tác với Henry Smeathman trong việc mổ xẻ những con mối chúa kỳ dị. Thứ hai, Hunter coi giải phẫu là một cách để cải cách y học. Y học trong thời đại đó luôn nói suông về những thứ như quan sát và thử nghiệm, nhưng các phương pháp điều trị hằng ngày vẫn bao gồm các phương pháp cổ xưa như thuốc xổ, trích máu và thổi khí - theo nghĩa đen là thổi khói vào hậu môn của ai đó. Hunter muốn hiện đại hóa y học và coi giải phẫu là nền tảng của cải cách: để chữa bệnh, bác sĩ cần có kiến thức sâu sắc về cơ thể. Đối với ông ấy, điều này không chỉ bao gồm cách các bộ phận phối hợp với nhau mà còn là cảm giác, mùi và thậm chí cả vị của các loại mô khác nhau. Ông từng mô tả dịch dạ dày của tử thi có vị "mặn hoặc lợ". Táo bạo hơn, ông ấy báo cáo rằng "tinh dịch... khi ngậm một thời gian trong miệng... tạo ra một hơi ấm như gia vị". Hunter thậm chí còn mổ xẻ và nếm thử xác ướp Ai Cập.
Với những phương pháp không chính thống của mình, Hunter đã thực hiện hàng chục khám phá về giải phẫu học, bao gồm cả tuyến lệ và dây thần kinh khứu giác. Ông ấy giám sát quá trình thụ tinh nhân tạo đầu tiên ở người và đi tiên phong trong việc sử dụng điện (từ pin thô) để kích tim. Ông ấy cũng lập biểu đồ về sự phát triển của trẻ sơ sinh trong tử cung và nghiên cứu sự phân loại răng hiện đại thành răng cửa, răng nanh, răng trước hàm và răng hàm. Dựa trên công việc nghiên cứu này + , Hunter được bầu vào Hiệp hội Hoàng gia vào năm 1767. Hơn nữa, việc thực hành phẫu thuật và kiến thức sâu sắc về giải phẫu học đã giúp ông trở thành một bác sĩ phẫu thuật nổi tiếng. Cuối cùng, ông mua một ngôi nhà ở London với mặt tiền lớn để tiếp nhận những bệnh nhân nổi tiếng như Adam Smith, David Hume, William Pitt và Joseph Haydn.
Tuy nhiên, Hunter vẫn bị các nhà phê bình chỉ trích - đặc biệt là về các giao dịch của ông ấy với những kẻ trộm mộ. Hầu hết các nhà giải phẫu học đều coi thường "những kẻ đào trộm xác" và "những gã vác bao tải" và gọi chúng là những tên côn đồ hèn hạ. Tuy nhiên, sự lỗ mãng của Hunter khiến những kẻ trộm mộ rất yêu thích ông. Ngôi nhà lớn của ông ấy thậm chí còn có một cửa hậu chỉ dành cho những kẻ trộm mộ; nó nhìn ra một con hẻm và vào lúc 2 giờ sáng, họ sẽ bắt đầu công việc và bóc gỡ những "gói hàng" của đêm hôm đó. Như một sinh viên nhớ lại, những căn phòng ở đó đặc biệt "thơm" mùi xác chết. Robert Louis Stevenson đã sử dụng ngôi nhà mặt tiền Janus này và cuộc đời của Hunter làm nguyên mẫu cho tiểu thuyết Dr. Jekyll and Mr. Hyde (tạm dịch: Tiến sĩ Jekyll và ông Hyde).
Nhà giải phẫu, bác sĩ phẫu thuật và người tiếp tay cho vụ trộm mộ John Hunter từng là nguyên mẫu cho cuốn tiểu thuyết "Dr. Jekyll and Mr. Hyde". (Tranh của John Jackson.)
Những kẻ trộm mộ thường làm việc theo nhóm. Các nhóm kém tinh vi hơn sẽ trộm các ngôi mộ tập thể, những hố mở không được giám sát cho đến khi chứa đầy xác của những kẻ khốn khổ. Các nhóm khôn khéo thực hiện hành vi công phu hơn. Họ thuê các nữ do thám - những người ít thu hút sự chú ý hơn - dò la các bệnh viện và các đám tang. Sau đó, những nữ do thám này sẽ cải trang thành người dự lễ tang và theo dõi hoạt động canh xác đến khi chôn cất. Những người do thám cũng để mắt tới những cái bẫy, chẳng hạn như súng trường nạp đạn được vùi trong đất và quan tài "ngư lôi" có thể phát nổ nếu bị chạm vào. Thô sơ hơn, một số gia đình sắp xếp cành cây, đá hoặc vỏ sò để đánh dấu bề mặt của ngôi mộ. Những người do thám chuyển tất cả thông tin này cho các băng nhóm để nhận thù lao.
Việc khai quật xác chết thực sự diễn ra vào ban đêm. Trên thực tế, những gã vác bao tải phải trở thành những nhà thiên văn nghiệp dư và lập biểu đồ về thời gian mọc và các kỳ trăng để xác định thời điểm bầu trời tối nhất. Không lo chuyện lính canh. Nếu nghĩa địa có một người lính canh, những tên trộm hoặc mua chuộc anh ta hoặc chuốc anh ta say ngất. Sau đó, chúng sẽ rón rén đến ngôi mộ mới, vô hiệu hóa bất kỳ chiếc bẫy nào, ghi nhớ vị trí của những chiếc gậy hay vỏ sò và bắt đầu đào bới bằng những chiếc xẻng gỗ mềm, êm, nhẹ của chúng.
Những tên trộm hiếm khi mở tung quan tài. Thay vào đó, chúng chỉ đào phần đầu, sau đó gài xà beng bên dưới nắp và sử dụng sức nặng của lớp đất bên trên để làm gãy tấm nắp đậy. Chúng móc một sợi dây vào phía dưới cánh tay của thi thể và kéo cái xác ra. Chúng thường làm biến dạng khuôn mặt một cách tàn bạo vào thời điểm này để không thể nhận dạng. Trước khi rời đi, chúng lột tấm vải liệm và vứt bỏ bất kỳ đồ trang sức nào trên thi thể vì ăn cắp vàng hoặc quần áo sẽ khiến chúng phải chịu án tử hình. Những kẻ chuyên nghiệp có thể dọn sạch một ngôi mộ trong vòng 15 phút, và trả lại nó hình dạng ban đầu. Một nhóm trộm mộ khác lẻn vào một khu nhà thờ và bắt đầu đào bới, nhưng chỉ tìm thấy một ngôi mộ trống - Chúng đã chậm hơn đối thủ + .
Những kẻ trộm mộ cũng có những thủ thuật khác để kiếm tiền. Thay vì khiến bản thân dơ bẩn khi trực tiếp thực hiện công việc đào bới, một số kẻ chọn trở thành "nghệ sĩ lừa đảo". Chúng sẽ đến thăm một trại tế bần hoặc bệnh viện, chọn một thi thể ở đó, và bắt đầu khóc lóc tỏ vẻ đau đớn khi tuyên bố rằng đó là người "chú" hoặc "người cô tuyệt vời" mà chúng yêu quý. Một số băng nhóm sẽ bán xác cho một nhà giải phẫu học nhưng sau đó một giờ, khi nhà giải phẫu chuẩn bị thực hiện công việc của mình, chúng quay lại. Đóng giả là một người thân, bọn chúng sẽ đòi lại thi thể, đe dọa gọi cảnh sát - sau đó cả nhóm sẽ tìm một nhà giải phẫu khác và bán cái xác này một lần nữa. Trơ trẽn hơn, một băng nhóm đã gói một thành viên còn sống của chúng vào một chiếc bao tải và bán hắn ta cho một nhà giải phẫu học. Chúng hy vọng nhà giải phẫu học sẽ để cái "xác" qua đêm - lúc đó hắn sẽ lẻn ra ngoài, ăn trộm đồ đạc của gia chủ và trốn mất. Kế hoạch thất bại khi nhà giải phẫu nhận ra "xác chết" vẫn còn sống.
Thời của Hunter, với mỗi thi thể người lớn, các băng nhóm kiếm được một khoản cố định - khoảng 2 bảng Anh - gần bằng khoản tiền mà các lao động kiếm được trong cả mùa thu hoạch. Đối với loại xác "nhỏ" (trẻ em), chúng sẽ tính theo độ dài của xác + . Đối với các mẫu phẩm quý hiếm (ví dụ: phụ nữ mang thai trong những tháng cuối), giá có thể tăng lên 20 bảng Anh (2.500 đô la ngày nay). Một kẻ trộm mộ siêng năng đã từng tiêu sạch 100 bảng Anh chỉ trong một đêm.
Tuy nhiên, công việc này cũng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm. Nếu bị bắt, những kẻ trộm mộ có nguy cơ ngồi tù hoặc bị lưu đày đến các thuộc địa + . Và trong khi cảnh sát thường phớt lờ những hành vi vi phạm này, nhưng những người dân thì không: Những kẻ trộm mộ thường xuyên bị đánh đập, thậm chí bị giết chết. Một đám người nổi cơn thịnh nộ, đã cố chôn sống một kẻ trộm mộ trong cái hố mà hắn vừa đào. Một số nhà giải phẫu học hành động như những bố già và chăm sóc những kẻ trộm mộ đáng tin cậy nhất của chúng, bảo lãnh chúng ra khỏi tù hoặc chu cấp cho gia đình chúng trong thời gian chúng ngồi tù. Nhưng nếu các nhà giải phẫu học lừa gạt những kẻ trộm mộ hoặc mua xác từ một nhóm đối thủ thì bọn chúng sẵn sàng đột nhập vào phòng thí nghiệm đánh cắp xác hoặc phá hủy khiến chúng trở nên vô dụng với mục đích giải phẫu. Đó là "luật rừng" trong giới của chúng. Xác đến tay ông vẹn nguyên, xinh đẹp. Nếu có vấn đề với nó thì đó là lỗi của ông.
Tuy nhiên, Hunter hiếm khi phá vỡ quy tắc với những kẻ trộm mộ, chủ yếu là vì ông không đủ khả năng: tất cả các nghiên cứu của ông ấy đều phụ thuộc vào chúng, về sau, ông ước tính rằng, trong suốt mười mấy năm làm việc cho anh trai, ông đã giải phẫu hoặc quan sát giải phẫu 2000 xác chết - cứ hai ngày một xác. Dựa trên sự thật rằng, tất cả những thi thể đó đều đã bị đánh cắp - đôi khi do chính Hunter thực hiện - điều này đã đủ tệ hại rồi. Nhưng mỗi tháng qua đi, thêm mỗi cái xác được giải phẫu, đạo đức của Hunter cũng ngày một chai sạn, và không lâu sau, trong mắt ông, những thi thể từng là con người giờ chỉ là một lớp vỏ bọc bộ xương. Có lẽ thông tin đáng hổ thẹn nhất liên quan đến người khổng lồ của Ireland, Charles Byrne.
Theo những thông tin lượm lặt được, Byrne cao đến 2,5m - đến nỗi người ta cho rằng anh ta có thể châm tẩu thuốc bằng đèn đường mà không cần nhón chân. Các học giả vào thời điểm đó cho rằng chiều cao ấn tượng của anh ta là do cha mẹ anh ta đã làm tình trên đỉnh đống cỏ khô; các bác sĩ ngày nay thì cho rằng một khối u tuyến yên đã gây dư thừa hormone tăng trưởng trong cơ thể anh ta. Để kiếm sống, Byrne khoe thân hình đồ sộ trong các hội chợ quận ở khắp Ireland và Anh. Anh ta đã từng được diện kiến Vua George một lần, và khoảnh khắc John Hunter nhìn thấy Byrne, ông ấy đã ám ảnh về việc giải phẫu người đàn ông này.
Vì vậy, một ngày nọ, Hunter tiếp cận Byrne ở London và đề nghị đặt mua trước xác của anh ta. Đối với Hunter, lời đề nghị là một vinh dự. Có ai không muốn được giải phẫu bởi nhà giải phẫu hàng đầu thế giới? (Thực ra, sau này Hunter đã đề nghị các trợ lý của mình hứa sẽ giải phẫu ông sau khi ông qua đời.) Nhưng nỗi ám ảnh của Hunter đã khiến ông ấy mù quáng trước thực tế rằng, hầu hết mọi người đều coi giải phẫu là một hoạt động đáng ghê tởm, và Byrne đã hét lên khi nhận được lời đề nghị này. Sau khi Hunter rời đi, Byrne gọi bạn bè đến và bắt họ thề với Chúa sẽ vứt xác anh ta xuống biển sau khi anh ta chết, tránh xa bàn tay của nhà giải phẫu.
Đáng buồn cho Byrne, cái chết của anh ta đến sớm hơn dự kiến. Các vấn đề của tuyến yên có thể gây viêm khớp và đau đầu, và anh ta được cho là đã bắt đầu mượn rượu để giảm bớt cơn đau. (Hunter biết được điều này thông qua một kẻ do thám mà ông thuê để theo dõi gã khổng lồ này khắp các quán rượu.) Với thân hình ấy, có lẽ anh ta phải nốc một lượng lớn rượu mới có thể say bí tỉ, vì thế gan của anh ta như bị thiêu cháy. Cuối cùng anh ta chết vì rượu vào tháng 6 năm 1783, khi vừa tròn 22 tuổi.
Như một tờ báo đã đưa tin, các nhà giải phẫu học bắt đầu vây quanh ngôi nhà của Byrne "giống như những người thợ săn ở Greenland vây quanh một con cá voi khổng lồ". Bạn bè của Byrne đặt mua một chiếc quan tài có kích thước bằng chiếc thuyền buồm dọc, và nhận thấy lúc còn sống, Byrne thường hay khoe thân hình đồ sộ của mình nên họ đã sắp xếp trưng bày xác của anh ta và bắt đầu bán vé để kiếm lời. Tuy nhiên, đúng như lời họ nói, không ai lấy được cái xác. Sau bốn ngày thu lời từ việc bán vé, họ bắt đầu cuộc hành trình dài 75 dặm ra biển để thực hiện mong muốn cuối cùng của người thanh niên quá cố này.
Thật không may, những người đưa tang có mục đích tốt nhưng vận chuyển một chiếc quan tài khổng lồ là công việc khó khăn trong cái nóng tháng 6, vì vậy cứ đi được vài dặm, những gã trai Ireland lại dừng lại để nghỉ chân, không quên nhấm nháp chút rượu bia và nâng ly vì người bạn của mình. Là những người bạn có trách nhiệm, họ luôn cố gắng mang quan tài vào bên trong quán rượu để tiện trông chừng nó; nếu không vừa, họ sắp xếp một vị trí để đảm bảo an toàn. Ví dụ, tại một quán rượu, khi cánh cửa quá hẹp, họ nghe theo gợi ý của người chủ quán và để nó trong một nhà kho gần đó mà anh ta biết. Cuối cùng, họ cũng đến được bờ biển, thuê một chiếc thuyền địa phương và chèo thuyền ra khơi. Ở đó, họ đẩy quan tài của bạn mình khỏi mũi thuyền, và nhìn nó chìm xuống đáy biển.
Trong lúc đó, thi thể của người khổng lồ Ireland đã được đưa trở lại London. Trước nghi lễ canh xác, do thám của Hunter đã tiếp cận người thực hiện nghi lễ và hối lộ ông ta 50 bảng. Những gã này cảm nhận được mong muốn dữ dội của đối phương, đã hét giá lên đến 500 bảng Anh (50.000 đô la ngày nay). Hunter không thể chi trả số tiền đó, nhưng con tim đã thắng lý trí và ông đã đồng ý. Sau đó, người canh xác này đưa những người bạn của Byrne đến quán rượu có cửa ra vào hẹp như đã nói ở trên do biết rằng chiếc quan tài sẽ không vừa chiếc cửa đó. Hắn đã hối lộ chủ nhà kho gần đó để giấu một số dụng cụ và một số người trong đống rơm, và trong khi bạn bè của Byrne vui vẻ nhậu nhẹt, nhóm người của hắn đã mở nắp quan tài, lấy xác gã khổng lồ và giấu vào trong đống rơm rồi xếp đá có khối lượng tương đương vào quan tài. Sau đó, hẳn bạn cũng biết chuyện gì đã xảy ra. Vào rạng sáng hôm sau, Hunter đã kéo cái xác qua lối cửa hậu kín đáo để vào nhà.
Thật kỳ lạ, ông không bao giờ giải phẫu Byrne. Đáng lẽ với con mắt của người có kinh nghiệm, ông đã có thể đã phát hiện ra khối u tuyến yên và sự liên quan của nó với thân hình to lớn của anh ta, nhưng mối liên kết này vẫn không được khám phá trong một thế kỷ tiếp theo + . Tuy nhiên, Hunter cảm thấy sợ hãi trước những người bạn của Byrne và đã từ bỏ kế hoạch của mình. Thay vào đó, ông nấu cái xác để bảo quản bộ xương. Ông đã sử dụng một cái thùng đồng khổng lồ để làm điều đó, hớt lớp mỡ nổi lên như hớt lớp váng béo của một nồi xúp khổng lồ, sau đó nhặt xương của gã ra. Hunter cuối cùng đã mở một bảo tàng những điều kỳ quặc trong hoạt động giải phẫu ở London (một nhà văn gọi nó là "Bộ sưu tập những nỗi bất hạnh của con người của Hunter"), noi bộ xương cao gần 2,5m đóng vai trò trung tâm. Trái ngược với mong muốn của khổ chủ, bộ xương đó vẫn được trưng bày cho đến ngày nay. Hunter để lại hai di sản trái ngược nhau. Ông đã trở thành một trong những nhà khoa học vĩ đại được công nhận rộng rãi trong thời đại của mình, đồng thời đã công bố hàng chục khám phá về cơ chế hoạt động của cơ thể người. Ngoài các phát hiện của bản thân, ông đã khởi xướng một tinh thần mới trong y học, kéo nó ra khỏi những phương pháp trích máu và thổi khí, đồng thời nhấn mạnh vào quan sát và thử nghiệm, một bước tiến lớn tới việc gây dựng danh tiếng cho khoa học. Ông ấy cũng truyền cảm hứng cho vô số sinh viên (hai trong số đó là Edward Jenner và James Parkinson), và việc ghi danh vào các trường y khoa bùng nổ sau khi ông ấy qua đời năm 1793.
Vấn đề thiếu đạo đức của Hunter đã làm suy yếu nghiêm trọng danh tiếng của ông ấy. Lên án các nhà khoa học trong quá khứ vì không sống theo các tiêu chuẩn đạo đức ngày nay là không công bằng, nhưng ngay cả trong thời đại của ông ấy, mọi người cũng luôn khinh thường Hunter. Bằng sự xảo quyệt của mình, ông trở thành kẻ thù của cả những bác sĩ chân chính, những người ghê tởm việc ông bắt tay với những kẻ trộm mộ, lẫn tầng lớp thấp kém, những người sớm trở thành nguyên liệu cho các nghiên cứu của ông. Ngay cả các nhà giải phẫu học đồng nghiệp của Hunter cũng thất vọng khi ông ấy đánh cắp cơ thể của Charles Byrne. Ông ấy là một ví dụ điển hình về việc lấy kết quả tốt đẹp để biện minh cho hành vi tội lỗi của mình, như thể luân thường đạo lý chỉ đơn thuần tính đến đạo đức, trong đó những hành động tốt đẹp sẽ triệt tiêu những hành động xấu xa.
Điều tệ hơn đã xảy đến. Hơn ai hết, Hunter biến việc trộm mộ từ những buổi tiệc tùng bừa bãi của các sinh viên thành một ngành công nghiệp, và số lượng cực lớn các thi thể mà ông ấy mua đã bóp méo thị trường dành cho chúng. Sự bùng nổ số lượng sinh viên y khoa càng làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu thi thể và khiến giá ngày càng cao hơn, từ khoảng 2 bảng Anh vào những năm 1780 lên 16 bảng Anh (gần 1.000 đô la) ở một số nơi vào những năm 1810 - bằng mức mà một người lao động bình thường kiếm được trong 5 năm. Chắc chắn Hunter không phải là một con quái vật. Dù sở hữu lương tâm dễ thay đổi nhưng ít nhất ông ấy vẫn còn có một chút lương tâm. Nhưng giá thi thể càng cao thì càng khiến những con người không còn nhân tính bị lôi cuốn vào trò chơi. Những kẻ như Burke và Hare.
Kí ức về việc làm ngạt thở người đàn ông già cả bằng một chiếc gối đã giày vò William Burke. Anh ta phải uống rượu whisky vào mỗi đêm để dễ ngủ, và luôn để rượu ở đầu giường để uống thêm nếu cần. William Hare ít gặp rắc rối hơn. Dù sao thì ông già cũng đã chết, vậy tại sao lại phải lo sợ về điều đó?
Tuy nhiên, do hoàn cảnh, không ai trong hai người này trả lại số tiền mà chúng có thể kiếm được. Burke, khi đó đã ngoài 30 tuổi, lớn lên trong nghèo khó ở Ireland và làm cha từ khi còn rất trẻ. Cuối cùng, anh ta một mình đến Scotland để kiếm tiền nuôi gia đình và nhận nhiều công việc nặng ở đó - đào kênh, hàn xì, nướng bánh mì. Người vợ ở nhà sau đó cũng không trả lời thư của anh ta nữa, và anh ta chuyển đến sống với một người phụ nữ khác ở Edinburgh. Hoàn cảnh của Hare thậm chí còn tệ hơn. Anh ta có lẽ trẻ hơn Burke và có khả năng cũng đã nhập cư từ Ireland. Trong khi Burke có khuôn mặt tròn, ấm áp thì Hare lại có đôi mắt hí và vẻ gầy gò, ốm yếu như Shakespeare đã cảnh báo phải đề phòng. Trong một vài năm, Hare đã giúp quản lý nhà trọ của vợ mình là Margaret, nhưng tình hình không mấy khả quan. Burke, một thợ sửa giày, cũng sống rất chật vật. Vì vậy, dù lương tâm có bị cắn rứt hay không thì khi Burke lại hết sạch tiền, Hare không khó thuyết phục người bạn của mình tiếp tục giết người.
Một kịch bản khá không chính xác về một vụ giết người người do Burke-Hare thực hiện. Nạn nhân của chúng hầu như luôn say khướt, và hai tên này đã giết họ - không phải bằng cách bóp cổ, mà bằng cách ngồi lên ngực và bịt miệng và lỗ mũi, một phương pháp giết người ngày nay được gọi là "burking" (gây ngạt). (Khắc họa bởi Robert Seymour.)
Một phụ nữ lớn tuổi tên là Abigail Simpson đã thuê một phòng tại khu nhà trọ vào giữa tháng 2 năm 1828. Hai tên này đã chuốc bà ấy say đến mức nôn mửa, nhưng họ vẫn tiếp tục ép bà ấy uống rượu đen và rượu whisky cho đến khi bất tỉnh. Thành thật mà nói, bà ấy có thể đã chết vì ngộ độc rượu vào thời điểm đó, nhưng Hare vẫn nằm đè trên ngực bà ấy để đảm bảo chắc chắn, còn Burke thì bịt chặt miệng và lỗ mũi cho đến khi bà ấy bất động. Xác Simpson có thể được bán với giá khoảng 10 bảng Anh và mặc dù Burke vẫn phải uống rượu mỗi đêm, nhưng lần này hắn đã dễ ngủ hơn.
Mọi thứ sớm trở nên dễ dàng hơn rất nhiều. Như Burke từng nói, hai tên này phát hiện ra rằng "giết 1 con cừu cũng bị treo cổ, giết 10 con cừu cũng vẫn bị treo cổ", và trong 10 tháng sau đó, họ đã thực hiện một trong những vụ giết người lớn nhất trong lịch sử, giết chết 14 nạn nhân bằng cách gây ngạt. Chúng giết một bà già và đứa cháu nội thiểu năng của bà ấy. Chúng giết một bà lão khác chỉ còn một chiếc răng và sau đó là cô con gái được cho là đã ghé qua để tìm kiếm bà ấy. Bọn chúng thậm chí còn không biết tên của nạn nhân. Ban đầu, chúng chỉ chờ con mồi là những khách đến thuê phòng, nhưng cuối cùng chúng sốt ruột và bắt đầu dụ mọi người vào. Burke, một người hoạt ngôn với khuôn mặt ấm áp, sẽ dò la gần các cửa hàng bán rượu vào sáng sớm, tìm kiếm những kẻ nghiện rượu kém may mắn, luôn cần rượu để tỉnh táo mỗi ngày. Sau đó, hắn ta sẽ chiếm được lòng tin của họ và mời họ đến nhà Hare để thưởng thức một bữa ăn ấm áp và uống thêm. Khi trò lừa đảo được thực hiện trót lọt, Williams xuất hiện. Burke nhớ rằng các nạn nhân "sẽ co giật và bụng réo ùng ục" khi họ giãy chết. Tất cả các thi thể sau đó được chuyển đến chỗ nhà giải phẫu học Robert Knox.
Mặc dù không xuất sắc như John Hunter, nhưng Knox là một nhà khoa học tài năng và ông ấy vẫn lịch thiệp hơn Hunter rất nhiều. Trong các bài giảng, ông ấy mặc áo khoác lịch lãm và áo sơ mi viền ren, tay đeo nhẫn kim cương dù nhuốm máu đỏ tươi. Tuy nhiên, ông ấy cũng thèm khát các thi thể giống như Hunter do phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt về xác người ở Edinburgh, nơi hàng trăm sinh viên y khoa mới nhập học mỗi năm. Trước áp lực đó, ông ấy dễ dàng chấp nhận bất cứ thi thể nào được chuyển đến nhà. Theo lời của một bài đồng dao sau này về bộ ba này, "Burke đồ tể, Hare kẻ trộm/Và Knox, cậu bé mua thịt bò".
Chắc chắn các trợ lý của Knox đã nghi ngờ Burke và Hare. Một người từng gay gắt chất vấn Burke bằng một số câu hỏi hóc búa về nguồn gốc của một cái xác cụ thể. (Burke phản pháo, "Nếu phải giải trình về nguồn gốc cái xác, tôi sẽ thông tin đến Bác sĩ [Knox],
chứ không phải
anh!") Ngay cả khi người trợ lý đó có thông báo cho Knox về việc này thì Knox có thể cũng sẽ không làm gì cả. Bất kỳ nhà giải phẫu học có năng lực nào cũng có thể nhìn ra các dấu hiệu ngạt thở ở những cái xác mà Burke và Hare mang tới: mắt đỏ ngầu, mặt xung huyết, máu rỉ ra từ khóe miệng. Nhưng phần xương còn nguyên vẹn đã giúp Knox có được lời phủ nhận chính đáng. Dù sao thì hầu hết các nạn nhân đều nồng nặc mùi rượu, và điều đáng buồn là những người nghiện rượu vẫn thường bị ngạt thở vì nôn mửa. Nói tóm lại, Knox nhắm mắt bỏ qua trước bất kỳ dấu hiệu có thể gây rắc rối nào, không muốn khiến người cung cấp thi thể tin cậy cảm thấy khó chịu và gây ảnh hưởng đến nghiên cứu của ông ấy.
Tiến sĩ Robert Knox khét tiếng, người đã "mua thịt bò" từ những kẻ sát nhân Burke và Hare. (Được sự cho phép của Wellcome Trust.)
Knox càng mua nhiều "thịt bò", Burke và Hare càng liều lĩnh hơn. Một ngày nọ, Burke thấy hai cảnh sát quấy rối một phụ nữ say rượu và hắn đã "hào hiệp" đề nghị đưa cô ấy về nhà; nhưng hắn đưa cô ấy đến nhà của Hare và tấn công cô. Vụ giết người nổi tiếng nhất liên quan đến Daft Jamie, một "tên ngốc của thị trấn" được yêu mến, kẻ lang thang trên đường với đôi chân trần và được mọi người biết đến. Hai tên này cũng đã tấn công anh ta và đưa xác đến chỗ Knox. Và thay vì đốt quần áo của Jamie như vẫn làm với các nạn nhân khác, chúng đem quần áo đi cho bạn bè; một số người trong thị trấn nhận ra đồ đạc của chủ nhân cũ và cảm thấy khó hiểu. Khi Knox và nhóm của ông ấy tập trung lại để giải phẫu Daft Jamie, một trợ lý đã tỏ ra kinh ngạc khi thấy cái xác. Knox im lặng và yêu cầu họ tập trung vào thi thể.
Những lần thoát chết như vậy chỉ càng thôi thúc Burke và Hare hành động, và hành vi giết người của chúng lên đến đỉnh điểm với ba lần giết người vào khoảng Halloween năm 1828. Lần này, các vị khách - một cặp vợ chồng trẻ tên Ann và James Grey và một phụ nữ Ireland nhỏ nhắn, 40 tuổi tên là Margaret Docherty - không ở cùng nhà Hare mà ở với Burke và người vợ trên danh nghĩa của anh ta. (Burke làm quen với Docherty tại một cửa hàng tạp hóa bằng cách tuyên bố rằng tên của anh ta cũng là Docherty.) Với mong muốn xử lý Docherty trước, Burke trình bày vài lý do khá thuyết phục để đuổi khéo Ann và James ra ngoài. Hare sau đó gặp Burke ở nhà Burke. Như thường lệ, Burke và Hare chuốc say Docherty; có lẽ là do nỗi nhớ quê hương, chúng cũng đã khiến cô ấy hát một vài điệu hò Ireland. Mọi thứ sau đó thay đổi đầy bất ngờ. Vào khoảng 11 giờ tối, hai tên này tranh cãi dữ dội và Burke bắt đầu bóp cổ đối tác của mình. Docherty hét lên, "Giết người! Giết người!" và một người hàng xóm trên lầu đã báo cảnh sát.
Tuy nhiên, hôm đó là Halloween, một đêm đầy rẫy những trò nghịch ngợm, cảnh sát quá bận rộn. Không có ai ghé qua. Và cuối cùng Burke và Hare cũng có thể dàn xếp, chúng chuyển mục tiêu sang Docherty và tấn công cô ấy. Sau đó, chúng lột áo choàng đỏ của cô và giấu xác cô vào đống rơm dưới chân giường.
Cuối cùng, vào cuối ngày 1 tháng 11 - ngày Lễ Các Thánh - Ann ở nhà một mình và bới đống rơm. Cô nghi ngờ Burke và Hare đã thực hiện một vụ trộm Halloween nào đó và đang giấu đồ bất hợp pháp. Thay vì một món đồ, cô ấy tìm thấy một cánh tay, rồi tiếp đó là xác một người phụ nữ khỏa thân với vết máu rỉ ra từ khóe miệng. Ann kéo chồng bỏ trốn, nhưng họ gặp Helen, người vợ danh nghĩa của Burke, ở cửa. Helen đề nghị trả tiền cho họ để im lặng, nhưng Ann và James đã phớt lờ cô ta và chạy đi báo cảnh sát + .
Tuy nhiên, cảnh sát nhanh chóng nhận thấy đây không phải là một vụ án dễ giải quyết. Đúng, có một xác chết, nhưng Burke và Hare luôn có thể khẳng định Docherty đã say rượu và chết ngạt. Vì vậy, bằng một chút mánh khóe, cảnh sát đã cân nhắc tính cách của hai tên này, cho rằng Hare là người dễ bất chấp luân thường đạo lý hơn và đã đưa ra thỏa thuận về lời khai với hắn. Mọi chuyện xảy ra nhanh chóng như bỏ bùa. Hare đã làm chứng chống lại Burke, giúp hắn thoát khỏi mọi cáo buộc.
Phiên tòa xét xử Burke bắt đầu vào cuối tháng 12 và kéo dài 24 giờ liên tục, với một bản án có tội là điều chắc chắn. Thẩm phán kết án treo cổ. Trong khi đó, Hare bước ra khỏi phòng xử án với tâm thế của một người tự do - mặc dù phải cải trang vì một đám đông đang sẵn sàng trả thù hắn. Hắn trốn chui trốn lủi như chính cái tên của mình - hare (thỏ rừng), và sau vài lần thoát chết ở các thị trấn khác nhau, hắn trốn khỏi Scotland và biến mất. Những năm cuối đời cũng bí ẩn như những năm đầu đời của hắn.
Burke bị treo cổ vào một buổi sáng trời mưa một tháng sau đó. Bản thân cái chết không có gì nổi bật, mặc dù mọi cửa sổ trong các tòa nhà xung quanh nhà tù đều chật cứng người xem. Với kết cục khiến nhiều người thỏa mãn, cơ thể hắn sau đó đã được giao cho đối thủ lớn nhất của Robert Knox để giải phẫu và trưng bày trong một viện bảo tàng. Khủng khiếp hơn, nhà giải phẫu này thậm chí còn nhúng bút lông vào máu từ hộp sọ của Burke để viết một tấm biển: "Dòng chữ này được viết bằng máu của Wm Burke, người đã bị treo cô tại Edinburgh vào ngày 28 tháng 1 năm 1829..."
Knox cũng đối mặt với nguy cơ bị truy tố, nhưng không có bằng chứng: ông ấy vẫn có thể khẳng định mình không biết. Như một người đương thời nhớ lại, một đám đông ở Edinburgh đã làm một hình nộm của ông ấy với chiếc "đầu hói". Thay vì đốt hình nộm đó, đám đông đã chôn nó.
Sự phẫn nộ trước các vụ giết người của Burke và Hare (cũng như một số vụ giết người theo hiệu ứng bắt chước ở London) cuối cùng buộc các quan chức Anh phải làm điều gì đó liên quan đến vấn đề thiếu các tử thi phục vụ hoạt động giải phẫu. Cụ thể, họ đã ban hành luật trao cho các nhà giải phẫu những thi thể vô thừa nhận từ các trại tế bần và bệnh viện từ thiện, những thi thể vô chủ. Luật này không chỉ giúp gia tăng số lượng thi thể phục vụ đào tạo và nghiên cứu, mà còn hạn chế thị trường chợ đen và cho phép các nhà khoa học cắt đứt quan hệ với những tên trộm, côn đồ và những kẻ trộm mộ.
Dù giải pháp này có vẻ khả thi, tuy nhiên việc sử dụng những tử thi vô thừa nhận đã làm nảy sinh các vấn đề đạo đức của chính nó. Cụ thể, những người nghèo rất ghét kế hoạch này vì họ vẫn sẽ là nguồn cung cho giải phẫu. Suy cho cùng, những người giàu có hay có mối quan hệ xã hội chẳng bao giờ chết vô thừa nhận trong các nhà tế bần.
Trong màn đáp trả nhẫn tâm trước lời oán trách này, một chính trị gia lập luận rằng, việc hiến xác cho nghiên cứu là một trong những điều ít ỏi mà người nghèo có thể làm cho xã hội sau tất cả các bữa ăn miễn phí và dịch vụ chăm sóc y tế mà họ được hưởng trong suốt cuộc đời. (Một chính trị gia đối thủ phản bác rằng ông ấy ủng hộ việc giải phẫu những người đang ăn bám nguồn lực của công chúng. Ông ấy đề xuất bắt đầu với gia đình hoàng gia.) Thương tâm hơn, một số người ủng hộ đạo luật chỉ ra rằng, dù việc tìm kiếm nguồn cung thi thể vẫn còn nhiều khía cạnh không công bằng, tuy nhiên, việc cải thiện hoạt động đào tạo các y bác sĩ sẽ mang lại lợi ích cho người nghèo nhiều hơn bất kỳ nhóm người nào khác. Có điều, bệnh tật thường giáng đòn mạnh hơn vào nhóm người nghèo. Người giàu cũng có thể chi trả cho các bác sĩ chuyên khoa và bác sĩ phẫu thuật có kinh nghiệm, trong khi người nghèo bị mắc kẹt với những người mới và dễ phạm sai lầm. Do đó, những người mới vào nghề có thể thực hành hiệu quả trên những người đã chết hơn là những người còn sống. Nói cách khác, việc cho phép giải phẫu các thi thể vô thừa nhận bớt vô đạo đức hơn trong số hai tội ác và sẽ giảm bớt đau khổ cho những người nghèo nói chung.
Cuối cùng, những lập luận như vậy đã giành được chiến thắng và Quốc hội thông qua Đạo luật Giải phẫu vào năm 1832. Tuy nhiên, trong khi hành động này xoa dịu căng thẳng ở Anh thì nó lại không thể dập tắt sự phẫn nộ ở Hoa Kỳ, nơi các nhà giải phẫu học luôn bị ghét bỏ và "bạo loạn giải phẫu" xảy ra thường xuyên. Đặc biệt, một khoa giải phẫu - tại một trong những trường đại học nổi tiếng nhất của Hoa Kỳ, Đại học Harvard - đã bị kéo vào một vụ bê bối kinh hoàng khi một cựu sinh viên nổi tiếng mất tích và xuất hiện ở một nơi nào đó mà không nên xuất hiện với các bộ phận trên cơ thể bị cắt xẻ thành từng mảnh.