← Quay lại trang sách

4. VỤ ÁM SÁT GIÁO SƯ VÀ NGƯỜI BẢO VỆ

Theo những gì được kể lại, sự việc gây náo loạn đầu tiên liên quan đến giải phẫu ở Hoa Kỳ bắt đầu từ một trò đùa ngốc nghếch. Vào một buổi chiều tháng 4 năm 1788, trong khi một sinh viên y khoa tại Bệnh viện Đa khoa New York đang tiến hành giải phẫu cơ thể của một người phụ nữ trong phòng thí nghiệm, đột nhiên anh ta nhận ra không chỉ có riêng mình đang ở đây. Một nhóm trẻ tụ tập bên ngoài cửa sổ - đang há hốc mồm, tròn mắt nhìn vào xác chết.

Điều này khiến anh ta bực mình vì anh ta chỉ muốn làm việc trong yên tĩnh. Vì vậy, để dọa mấy cậu bé đó, anh ta lấy cánh tay của tử thi và vẫy chào mấy cậu nhóc. Hey! Sau đó anh ta nói to, "Đây là cánh tay của mẹ các nhóc đấy. Ta chỉ vừa mới đào lên thôi!"

Thật không may, một trong những cậu nhóc đó thực sự vừa mất mẹ, và nó chạy về nhà, giận dữ nói với cha mình về sự việc trên. Người cha liền cầm lấy chiếc xẻng và đi đến ngôi mộ của người vợ quá cố. Ông ấy chứng kiến một cảnh tượng đúng như những gì bản thân đang suy nghĩ - không có gì bên trong - và vô cùng giận dữ.

Ông ấy không phải là người duy nhất phải chịu đựng chuyện này. Người nghèo thường bị đánh cắp tử thi nhiều hơn người giàu. Người giàu có thể bỏ tiền ra để ngăn chặn việc bị ăn cắp tử thi như sử dụng lồng sắt bao quanh quan tài để bảo vệ cái xác. Người giàu cũng có thể trả tiền thuê bảo vệ riêng để canh mộ người thân trong một hoặc hai tuần để tử thi phân hủy đến mức không thể giải phẫu được. Người nghèo không thể đầu tư những biện pháp bảo vệ như vậy và một số nhóm người nhất định thường xuyên bị nhắm đến như: người Mỹ gốc Ấn; người da đen, cả nô lệ và tự do; người nhập cư Đức và Ireland. Vì vậy, khi trở về từ nghĩa địa và có ý định đến thẳng Bệnh viện đa khoa New York, cha cậu bé nọ thấy có rất nhiều hàng xóm bức xúc sẵn sàng đi cùng.

Khi đám đông lên đến hàng trăm người kéo đến bệnh viện, các bác sĩ và nhà giải phẫu hốt hoảng chạy trốn; một người nấp trong ống khói. Đám người giận dữ lôi tất cả các thiết bị y tế ra đường và đập phá chúng. Họ cũng đốt các mẫu vật giải phẫu và chôn cất một số tử thi ở nhiều trạng thái phân hủy khác nhau.

Tuy nhiên, đập phá bệnh viện không làm đám đông nguôi cơn giận. Số người gia nhập nhóm này tăng lên nhanh chóng chỉ sau một đêm, và ngày hôm sau họ đi tới một bệnh viện khác tại Đại học Columbia. Bản thân Alexander Hamilton đã phải đứng trước bệnh viện và cầu xin họ dừng lại. Trong khi đó, thị trưởng New York đã bắt giam một số nhà khoa học trong lĩnh vực y học vì sự an toàn của chính họ. Nhưng chừng đó vẫn chưa thể ngăn đám đông, với khoảng 5000 người tụ tập trước nhà tù, họ đập phá các cửa sổ và hàng rào, rồi la hét, "Lôi bọn bác sĩ ra đây!" Đến buổi tối, người thị trưởng hoảng loạn đã phải kêu gọi lực lượng dân quân. Ông ta cũng cầu xin sự giúp đỡ từ các nhà lãnh đạo địa phương để đảm bảo trật tự. Dù căng thẳng đến mức nào đi nữa thì mọi thứ vẫn có thể đã kết thúc một cách êm đẹp nếu không có những chuyện xảy ra tiếp theo.

Trong số các nhà lãnh đạo chính trị được gọi đến có John Jay, thẩm phán Tòa án Tối cao tương lai và thống đốc tương lai của New York. Nhưng lời cầu xin của ông ấy không có tác dụng. Một người dòng dõi quý tộc như ông ấy làm sao hiểu được cảm giác khi thi thể người thân bị đánh cắp? Có người đã ném đá khiến ông ấy bị vỡ hộp sọ.

Một nhà lãnh đạo khác được gọi đến là Baron von Steuben, một tướng quân đội, một trong những anh hùng của cuộc Chiến tranh Cách mạng. Ông ấy cũng bị ném gạch vào đầu. Khi Baron von Steuben loạng choạng lùi về sau, đẫm máu và bàng hoàng, ông ấy đã kêu gọi thị trưởng ra lệnh cho lực lượng dân quân nổ súng.

Lúc đó, về nguyên tắc, đây không phải là một mệnh lệnh. Nhưng những người lính đã quá hoảng hốt và không cần sự khích lệ nào nữa. Khi nghe thấy một vị tướng hô "bắn", họ liền chộp lấy khẩu súng trường và xả đạn vào đám đông. Có rất nhiều con số ước tính về số lượng người thương vong, nhưng đến khi làn khói tan đi, có tới 20 xác chết nằm trên đường phố. Đám đông lại tiếp tục xông lên, và kết quả là số người bỏ mạng không chỉ dừng lại ở đó.

New York cũng không phải ngoại lệ. ít nhất đã có 17 cuộc bạo loạn liên quan đến hoạt động giải phẫu diễn ra tại Hoa Kỳ trước cuộc nội chiến, ở Boston, New Haven, Baltimore, Philadelphia, Cleveland và St. Louis. Và một lần nữa, dù vấn nạn trộm mộ chủ yếu xảy ra với người nghèo nhưng ngay cả người giàu cũng phải khóc. Ở bang Ohio, thi thể của thượng nghị sĩ John Scott Harrison - con trai của cựu tổng thống William Henry Harrison và là cha của vị tổng thống tương lai Benjamin Harrison - đã bị đào lên, lột trần, và mang đi chuẩn bị giải phẫu trước khi gia đình xuất hiện và "cứu" ông ấy + .

Cuối cùng, hầu hết các bang tại Hoa Kỳ đều thông qua các đạo luật về giải phẫu (còn gọi là "đạo luật xương cốt") phỏng theo đạo luật năm 1832 ở Anh. Những luật này cho phép các trường y được sử dụng các thi thể vô thừa nhận từ các bệnh viện và nhà tế bần. Nhưng các đạo luật này gây ra các vấn đề về mặt đạo đức ở Hoa Kỳ giống như ở Đại Tây Dương. Hơn thế nữa, mọi người đều sớm nhận ra rằng, việc sử dụng các thi thể vô thừa nhận không chỉ nguy hiểm về mặt đạo đức mà còn không đáng tin cậy ở góc độ khoa học. Bởi vì nghe có vẻ điên rồ, nhưng mức thu nhập có thể ảnh hưởng đến thi thể của bạn.

Những sự khác biệt này có thể truy nguyên đến các hormone. Tuy mỗi người nghèo mỗi khác, nhưng nhìn chung, người nghèo thường xuyên phải chịu áp lực ở mức cao hơn so với các tầng lớp trung lưu và thượng lưu. Những lý do giải thích cho điều này hết sức rõ ràng. Những nhóm dân cư nghèo đói thường gặp nhiều vấn đề về y tế hơn nhưng lại ít được điều trị hơn. Họ cũng tiếp xúc với nhiều chất gây ô nhiễm hơn, và đặc biệt là vào những năm 1800, nhiều người trong số họ thường xuyên phải đối mặt với việc bị trục xuất và chết đói. Cơ thể phản ứng lại với các yếu tố gây căng thẳng như vậy bằng cách giải phóng adrenaline và các hormone khác, và tình trạng căng thẳng kéo dài có thể ảnh hưởng đến kích thước và hình dạng của các tuyến tiết ra các hormone này. Một số tuyến, giống như các cơ bắp phải làm việc rất nhiều, đã tăng lên về kích thước. Những tuyến khác quá tải và teo lại. Và vì thường xuyên giải phẫu người nghèo, nên các nhà giải phẫu sẽ có cái nhìn sai lệch về những tuyến này. Đó chính là lỗi hệ thống trong khoa học của họ.

Đây không chỉ là nỗi lo lắng về mặt học thuật mà nó còn gây ra nhũng hậu quả chết người thực sự.

Trong những năm 1800, nhiều em bé bắt đầu chết vì những gì ngày nay chúng ta gọi là hội chứng đột tử ở trẻ sơ sinh (SIDS). Đương nhiên, các bác sĩ muốn biết nguyên nhân thực tế, vì vậy họ bắt đầu thực hiện khám nghiệm tử thi trên những đứa trẻ bị SIDS. Họ nhận thấy rằng, hầu hết các em bé bị SIDS có tuyến ức ở ngực rất lớn. Trên thực tế, đây là những tuyến ức bình thường. Chúng có vẻ chỉ to hơn so với các tuyến ức thiếu chất mà họ thường thấy ở những đứa trẻ xuất thân từ những gia đình nghèo. Những đứa trẻ nghèo này thường chết vì các bệnh như tiêu chảy hoặc suy dinh dưỡng. Ngược lại, những đứa trẻ mắc SIDS đã chết đột ngột theo đúng như định nghĩa - trước khi bệnh tiêu chảy hoặc suy dinh dưỡng có thể làm suy yếu các tuyến của chúng. Do đó, kích thước tuyến ức của những đứa trẻ này là bình thường.

Do không nhận thức được điều này, các nhà nghiên cứu bệnh học cho rằng SIDS là do các tuyến ức phì đại gây ra, chúng chèn ép khí quản và khiến trẻ bị ngạt thở. Vì vậy, để giảm kích thước các tuyến, vào đầu những năm 1900, các bác sĩ bắt đầu dùng bức xạ để làm nổ chúng. Đã có hàng nghìn trẻ bị bỏng, các tuyến bị suy yếu, và sau đó là mắc ung thư, với khoảng 10.000 trẻ em bị chết non theo ước tính. Đó là một ví dụ sâu sắc về cách một kết luận khoa học sai có thể dẫn đến những hậu quả khoa học nguy hiểm như thế nào.

Cuối cùng, việc hiến xác giúp hạn chế việc phải sử dụng những xác chết vô người nhận. Triết gia Jeremy Bentham, cha đẻ của chủ nghĩa thực dụng, đã trở thành người đầu tiên trong lịch sử hiến xác để phục vụ khoa học vào năm 1832, một phần để giảm bớt sự kỳ thị của việc giải phẫu. Tuy nhiên, hành vi tốt đẹp này của ông không thuyết phục được nhiều người lúc đó, nhưng thế giới dần xuôi theo suy nghĩ của Bentham vào giữa những năm 1900. Ngày nay, phần lớn thi thể được giải phẫu trong các trường y đều là do hiến tặng.

Tuy nhiên, các trường y ngày nay vẫn thường phải cố gắng để tìm đủ số lượng thi thể. Theo một phân tích từ năm 2016 cho thấy rằng, các trường y ở thành phố New York thiếu khoảng 30 thi thể trong tổng số 800 thi thể cần thiết để đào tạo các bác sĩ mới, chiếm khoảng 5%. Ở các quốc gia khác, sự chênh lệch này là gần 40%. Các quốc gia như Ấn Độ, Brazil và Bangladesh thậm chí phải đối mặt với sự thiếu hụt lớn hơn. Nigeria có gần 200 triệu người, tuy nhiên hằng năm một số trường y ở quốc gia này không nhận được thi thể hiến tặng nào. Để bù đắp tình trạng thiếu hụt, những kẻ trộm xác hiện nay lại tiếp tục trộm những thi thể đã được chôn cất hoặc ăn cắp chúng từ các giàn thiêu và bán chúng trên "chợ đỏ".

Giờ đây chúng cũng không cần trộm cả xác. Giống như kẻ trộm xe hơi ăn trộm các bộ phận, những kẻ trộm mộ có thể kiếm được nhiều tiền hơn - lên tới 200.000 đô la - bằng cách trộm cả xác rồi bán lẻ các bộ phận: răng, màng nhĩ, giác mạc, gân, thậm chí cả bàng quang và da. Thông thường, gia đình của người quá cố không biết điều này đang xảy ra; một số gia đình khi nhận tro cốt của người thân từ nhà tang lễ đã phát hiện xương cốt đã được thay thế bằng những ống nhựa PVC. (ít nhất là họ đã lấy lại được một phần thi thể. Năm 2004, một giám đốc nhà tang lễ tại Staten Island đã bị bắt quả tang khi bán các thi thể cho quân đội Hoa Kỳ với giá 30.000 đô la; quân đội đang treo các thi thể được xỏ giày bọc thép trên các quả mìn để thử nghiệm hiệu quả của những đôi giày này.) Chắc chắn, luật pháp quốc tế có các quy định tương đối cứng rắn với các bộ phận được cấy ghép (phổi, gan, thận) nhằm ngăn chặn hoạt động buôn bán nội tạng. Nhưng mặt khác, như một giáo sư về giải phẫu than thở, "chúng ta đang cẩn trọng hơn với việc [nhập khẩu] trái cây và rau quả hơn so với các bộ phận cơ thể". Và trong khi những người nghèo một lần nữa có nguy cơ bị trộm mộ cao hơn thì tình trạng này cũng đã xảy ra với người dẫn chương trình Alistair Cooke của Masterpiece Theatre, vào năm 2004.

Nếu tất cả điều này khiến bạn khó chịu với ngành khoa học giải phẫu thì bạn không phải người duy nhất cảm thấy như vậy. Bản thân các nhà giải phẫu học vẫn tiếp tục tranh luận về mặt đạo đức của các hoạt động khác nhau này, và ngay cả trong những trường hợp mà khoa học giải phẫu thực sự đem lại lợi ích - ví dụ như, truy tố tội phạm trong các vụ án giết người thông qua hoạt động pháp y - vẫn luôn có một ảnh hưởng ngầm phản đối hoạt động nghiên cứu này. Trên thực tế, phần lớn hoạt động giải phẫu pháp y bắt nguồn từ một vụ án hết sức ghê rợn tại Trường Y Harvard vào năm 1849. Xét trên nhiều khía cạnh, đó là một cuộc đối đầu giữa quá khứ và tương lai trong lĩnh vực này: những bộ não xuất sắc nhất trong giới y học Hoa Kỳ phải xác định liệu đây có phải chỉ là một thỏa thuận đào trộm xác mờ ám, hay một điều gì đó nguy hiểm hơn nhiều đã xảy ra.

Thứ đầu tiên khiến một người bảo vệ suy nghĩ về việc giết người chính là con gà tây. Vào ngày lễ Tạ ơn năm 1849, anh ta được tiến sĩ Webster, ông chủ của ông ấy, tặng cho một món quà - một chú gà tây thơm ngon đặt trên bàn bếp nhà mình. Tuy nhiên, ông ấy lại đang phải đẽo bức tường gạch của một nhà vệ sinh trong tầng hầm của Trường Y Harvard. Ông ấy muốn ở nhà và ăn tiệc. Nhưng ông ấy không thể ăn khi tất cả những manh mối này đang giằng xé lương tâm.

Không chỉ riêng người bảo vệ này ám ảnh về vụ án; hầu hết những người tại Cambridge, Massachusetts, cũng đang bàn tán xôn xao. Tiến sĩ George Parkman - một người đàn ông cao lênh khênh với dáng đi thẳng đứng, cằm chếch lên theo một hướng khó có thể thực hiện - đã dừng lại tại một cửa hàng tạp hóa vào một chiều thứ Sáu để mua một ít đường nghiền và gần 3kg bơ. Sau đó, ông ấy đề nghị người bán hàng giữ giúp hàng hóa cùng một món ưa thích dành cho đứa con gái bị tàn tật của mình: rau diếp cải, một món ngon vào tháng 11. Parkman nói với người bán hàng rằng ông ấy có một cuộc hẹn, và sẽ trở lại sau ít phút để lấy đồ. Nhưng ông ấy đã không bao giờ quay trở lại.

Ảnh. George Parkman bị mất tích. (Nguồn từ Thư viện Y học quốc gia Hoa Kỳ.)

Parkman, gần 60 tuổi, tốt nghiệp Trường Y Harvard vào năm 1809, nhưng chưa bao giờ làm việc nghiêm túc trong lĩnh vực này. Thay vào đó, ông ấy thích tích lũy bất động sản, và đã hiến đất để xây dựng tòa nhà y tế ba tầng của Harvard. Ớ cấp độ thấp hơn, Parkman sở hữu một số khu ổ chuột và là một người khắt khe về tiền thuê. Ông ấy cũng là một kẻ cho vay nặng lãi khét tiếng, sẵn sàng săn lùng những con nợ để đòi từng xu - đặc biệt nếu họ chạm mặt ông ấy.

Và Tiến sĩ John White Webster đã tình cờ gặp ông ấy. Webster, 56 tuổi, là một người hay quấy rầy người khác. Ông ấy tốt nghiệp trường Y Harvard sau Parkman vài năm, và sinh sống tại London, nơi ông ấy yêu thích xuất hiện tại các buổi hành hình công khai. "Treo cổ lúc 8 giờ sáng, và ăn sáng lúc 9 giờ!", ông ấy lảm nhảm. Chắc chắn ông ấy cũng trộm một hoặc hai thi thể trong thời gian ở đây. Nhưng sau khi hành nghề y ở Azores một thời gian, Webster từ bỏ y học để giảng dạy địa chất học và hóa học tại Harvard; phòng thí nghiệm của ông ấy nằm trong tầng hầm của tòa nhà y tế. Các bài giảng của ông ấy thường sắc sảo và hóm hỉnh, và ông thích sử dụng khí cười để giúp sinh viên cảm thấy hưng phấn.

Mặc dù đã từ bỏ công việc của một bác sĩ nhưng Webster vẫn say mê với lối sống cũ. Một giáo sư Harvard thông thường thời ấy khá giàu có, và để trở thành giáo sư họ phải bỏ ra khoảng 75.000 đô la (tương đương với 2,3 triệu đô la hiện nay). Ba phần tư số giáo sư chiếm gần 1% số người giàu có và một số tòa biệt thự của các giáo sư đắt đỏ đến mức chúng còn xuất hiện trên các bản đồ du lịch địa phương, như vậy, mọi người đến ngắm và trầm trồ. So sánh một cách dễ hiểu, mức lương của Webster là 1.200 đô la, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của trường đại học là 1.950 đô la. Mức lương này không chỉ gây bất tiện mà đe dọa đến vị trí của ông ấy tại trường. Vào giữa những năm 1840, một giáo sư người Ý tại Harvard thực sự đã buộc phải từ chức sau khi phá sản; việc không sống theo tiêu chuẩn xã hội của Harvard sẽ gây ra một số hậu quả. Vì vậy, Webster đã chọn lối sống mà ông ấy ưa thích như là một bác sĩ, mua một ngôi nhà có sáu phòng ngủ, hai phòng khách ở Cambridge và tiêu khiển một cách phung phí với hàu và rượu vang. Nhưng ông ấy lại không có tiền để thuê người hầu - đáng xấu hổ là, vợ và con gái ông ấy phải tự dọn dẹp - và những khoản tiết kiệm còn ít đến mức không đủ để thanh toán một hóa đơn 9 đô la.

Nhà hóa học và kẻ bị cáo buộc giết người tại Trường Y Harvard, John White Webster. (Nguồn từ Thư viện Y học quốc gia Hoa Kỳ.)

Thay vì tiết kiệm, Webster đến gặp Parkman vào năm 1842 để vay 400 đô la (tương đương 13.000 đô la hiện nay). Năm 1847, ông ấy quay trở lại để vay thêm 2.000 đô la (tương đương 62.000 đô la hiện nay). Webster đã cố gắng tận dụng tốt những khoản vay trong hai năm sau đó. Nhưng ông ấy không có chút kỷ luật tài chính nào, và cuối cùng phải gán một bộ sưu tập khoáng vật và đá quý yêu thích cho Parkman làm tài sản thế chấp. Những người xung quanh thị trấn đã sớm bàn tán về các khoản nợ của Webster, và điều này khiến ông ấy tức giận. Trong một lần đang cắt tóc, ông ấy nghe thấy một người quen đùa, "Anh từng thấy ai cạo râu cho khỉ chưa?" Đó có thể là một lời nói đùa vô hại và không liên quan đến vấn đề tài chính của Webster. Nhưng Webster nhảy dựng lên, giật lấy dao tỉa của thợ cắt tóc và bất ngờ tấn công. Ông ấy suýt nữa đã đâm người nói câu đùa đó.

Vào mùa thu năm 1849, Parkman tìm đến Webster để đòi tiền và cảnh sát trưởng dọa tịch thu tài sản của Webster. Không còn thời gian, Webster lén thế chấp bộ sưu tập khoáng vật yêu thích của mình cho hai chủ nợ khác sau lưng Parkman. Thật không may, một trong số họ là anh rể của Parkman, Robert Shaw. Một ngày nọ, Shaw và Parkman tình cờ gặp Webster trên đường phố và Shaw đã hỏi Parkman về các vấn đề tài chính của Webster. Khi Parkman hỏi tại sao anh ta lại tò mò, Shaw đã đề cập đến bộ sưu tập khoáng vật. Sau một thoáng mơ hồ, họ nhận ra Webster về cơ bản đã thế chấp cùng cùng một bộ sưu tập cho cả hai người họ.

Parkman vô cùng tức giận khi biết tin này, và đã đến gặp trực tiếp Webster ở tầng hầm của trường y. Trả tiền cho tôi hay thế nào đây, ông ấy yêu cầu. Cả hai người đều mất bình tĩnh, và người bảo vệ của tòa nhà tình cờ nghe thấy họ cãi nhau, trong đó Parkman dọa "sẽ làm điều gì đó". Cuối cùng, Webster hứa sẽ trả 483 đô la (tương đương 15.000 đô la ngày nay) vào thứ Sáu, trước Lễ Tạ ơn.

Đến hôm thứ Sáu, Parkman đã thanh toán tiền bơ và đường cho người bán hàng tạp hóa và gửi kèm rau diếp. Ông ấy hếch cằm lên và đi tới chỗ Webster để lấy tiền. Sau đó, Webster nói với cảnh sát rằng, Parkman đã giật lấy 483 đô la mà không nói lời nào rồi vội vã bỏ đi.

Đó là khi bí ẩn này bắt đầu. Parkman là một người mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) trong thói quen của mình, vì vậy khi ông ấy không có mặt ở bữa tối hôm đó, gia đình ông ấy bắt đầu băn khoăn. Sáng hôm sau ông ấy vẫn chưa về nhà, gia đình đã vô cùng hốt hoảng. Sau vài nghi vấn và giả thuyết, họ quyết định đăng tin trên báo rằng sẽ trả 3.000 đô la cho ai cung cấp thông tin về ông ấy (tương đương 92.000 đô la hiện nay). Nhìn thấy thông báo này, một Webster đầy tuyệt vọng đã đến gặp anh trai của Parkman và thông tin về cuộc gặp mặt nọ. Nghe tin này, gia đình cảm thấy vô cùng lo lắng. Parkman có thói quen không tốt khi mang theo quá nhiều tiền mặt sau khi thu nợ. Ông ấy từng bị cướp tiền trước đây và chắc chắn chuyện này đã tái diễn, và ông ấy đã bị giết. Gia đình hết sức đau lòng và tiếp tục đăng tin thứ hai lên báo hứa trả 1.000 đô la cho ai tìm thấy xác Parkman

Trong khi đó, cảnh sát bắt đầu mò tìm khu vực sông Charles gần đó. Họ cũng tra khảo một số tên tội phạm ở địa phương để thu thập tin tức. Không có gì chắc chắn được đưa ra. George Parkman được xác nhận nhìn thấy lần cuối cùng là tại Trường Y Harvard. Quả thực, có những tin đồn rằng con chó của Parkman, thường đi cùng ông ấy khi đi thu nợ, đã lảng vảng gần tòa nhà, như thể đang chờ chủ nhân của mình xuất hiện.

Vì vậy, vài ngày trước Lễ Tạ ơn, cảnh sát đã đến trường y để tìm kiếm. Đầu tiên, họ họ lục soát căn phòng của người bảo vệ dưới tầng hầm, bao gồm cả phía bên dưới giường. Không có gì ở đây. Chỉ sau đó, vô cùng miễn cưỡng - vì ghét phải phiền đến một học giả nổi tiếng như Webster - cảnh sát đã gõ cửa phòng bên cạnh, văn phòng của ông ấy. Một Webster hào hiệp bước ra nói rằng ông ấy hoàn toàn hiểu sự việc và để họ vào lục soát phòng thí nghiệm của mình. Hoặc ít nhất là gần hết căn phòng. Không ai đủ can đảm để vào tìm kiếm trong nhà vệ sinh. Họ cũng tìm thấy một căn buồng bị khóa, và khi được hỏi có gì bên trong, Webster cho viên cảnh sát biết ông ấy chứa các hóa chất nổ ở đó. Vậy là kết thúc buổi tìm kiếm, cảnh sát chào tạm biệt vị giáo sư và trở ra rà soát những người ở tầng lớp thấp hơn. Họ không hề biết rằng, một nghi phạm rõ ràng hơn nhiều đã ở ngay trước mắt họ trong suốt thời gian này.

Người bảo vệ tại trường Harvard, Ephraim Littlefield.(Nguồn từ Thư viện Y học quốc gia Hoa Kỳ.)

Ephraim Littlefield không chỉ là một một bảo vệ trường y. Bộ râu quai nón và thân hình cao lớn khiến ông ấy trông giống một tín đồ lịch thiệp của Hiệp hội Giáo hữu, nhưng ông ấy cũng tham gia vào hoạt động kinh doanh bẩn thỉu để tìm thi thể cho các lớp học giải phẫu. Bởi vợ chồng ông ấy sống trong một căn phòng dưới tầng hầm của trường y, nên ông ấy có thể gặp những kẻ trộm xác bất cứ lúc nào. Littlefield cũng không đứng ngoài hành vi phạm tội này. Một năm trước đó, một bác sĩ địa phương thực hiện không thành công ca phá thai đã bước sang tam cá nguyệt thứ hai và khiến bệnh nhân tử vong. Sau đó, anh ta thử bán cả xác người phụ nữ và thai nhi cho một bác sĩ tại Harvard, Oliver Wendell Holmes Sr. Để thể hiện đạo đức nghề nghiệp với những người khác, Holmes đã từ chối. Tay bác sĩ tuyệt vọng tìm đến Littlefield để yêu cầu ông ấy xử lý xác chết giúp mình. Littlefield nhận làm việc đó với mức giá 5 đô la. Littlefield đã nhận được tiền, nhưng sau đó tay bác sĩ kia cũng bị bắt, và những lời khai về việc mua chuộc Littlefield khiến trường học cảm thấy xấu hổ.

Hoạt động buôn bán đen tối này khiến người bảo vệ trở thành nghi phạm hàng đầu trong vụ biến mất của Parkman - và cảnh sát đã lục soát căn phòng của ông ấy ở trường y. Vì vậy, có lẽ để bảo vệ thanh danh cho bản thân, Littlefield tự mình điều tra trong vài ngày sau đó, và ông ấy tập trung vào một số nghi ngờ dai dẳng về ông chủ của mình, Tiến sĩ Webster.

Căn phòng dưới tầng hầm của Littlefield nằm cạnh phòng thí nghiệm của Webster, và bởi vì công việc của người bảo vệ bao gồm việc đốt lò trong phòng thí nghiệm vào mỗi sáng nên ông ấy đã quen với việc tùy ý ra vào phòng thí nghiệm. Đột nhiên, sau khi Parkman biến mất, Webster bắt đầu khóa cửa phòng thí nghiệm. Tuy nhiên, lò bên trong vẫn cháy rực - nóng đến mức Littlefield thậm chí không thể chạm vào bức tường ở phía bên kia của chiếc lò; ông ấy lo sẽ xảy ra hỏa hoạn. Thậm chí ông ấy đã thết đãi người bảo vệ một con gà tây hơn 3kg. Tại sao vậy? Và tại sao ông ấy lại bắt Littlefield đi bộ lên thị trấn để lấy nó, thay vì yêu cầu cửa hàng giao đến? Có phải ông ấy làm vậy để Littlefield không cản trở hành động của mình?

Littlefield cảm thấy nghi ngờ và bắt đầu tìm kiếm xung quanh. Một ngày nọ, khi Webster quên không khóa cửa phòng thí nghiệm, người bảo vệ đã lẻn xuống tầng hầm, quỳ rạp và hé mắt quan sát dưới ngưỡng cửa. Ông ấy chỉ có thể thấy dấu chân của Webster; vị giáo sư dường như đang kéo một thứ gì đó về phía lò phòng thí nghiệm. Sau đó, Littlefield thậm chí còn lách người qua một cửa sổ để ngỏ để vào phòng thí nghiệm của Webster, nhưng cuộc tìm kiếm vội vàng không cho ra kết quả gì bất thường.

Đó là khi ông ấy quyết định sẽ đào bới. Vào ngày Lễ Tạ ơn, Littlefield nhận thấy tòa nhà rất vắng vẻ. Trong khi con gà tây hơn 3kg đang dần nguội lạnh, ông ấy cầm một cái rìu nhỏ và cái đục, bảo vợ mình canh chừng, rồi lẻn vào căn phòng dưới tầng hầm để đục phá bức tường gạch của căn phòng bí mật đó. Cảnh sát đã không kiểm tra nhà vệ sinh của vị giáo sư. Người bảo vệ không quá câu nệ về việc đó.

Mặc dù vậy, ông ấy hơi lười biếng. Có năm lớp gạch dẫn đến căn hầm, và chiếc rìu nhỏ không phải là công cụ phù hợp. Vì vậy, Littlefield bỏ cuộc sau 90 phút vì lạnh và đói. Đêm đó, có lẽ để xả hơi, ông ấy đi nhảy cotillion với vợ và ở lại cho đến 4 giờ sáng. Sáng hôm sau ông ấy cực kỳ bực bội, và phải làm một số việc kỳ lạ + , nhưng cuối cùng ông ấy lại đến một lò đúc gần đó để mượn một cái búa, một cái đục tốt hơn và một cái xà beng - để bắt đầu công việc theo một cách khác, ông ấy tuyên bố. Sau đó, mọi thứ đã sáng tỏ dưới căn hầm.

Sau một lúc, ông ấy cũng đục được kha khá. Thế rồi, ông ấy nghe thấy bốn tiếng búa nện vào chiếc cửa phía trên - bang, bang, bang - ám hiệu của vợ ông ấy cho biết Webster đang đến. Littlefield bỏ lại mọi thứ và chạy lên tầng, và nhận ra đó chỉ là một báo động giả. Tuy nhiên, Webster đã xuất hiện không lâu sau đó, và Littlefield đã phải tranh cãi với ông ấy trước khi có thể quay lại căn hầm.

Vài giờ sau, cuối cùng ông ấy cũng đục được một cái lỗ ở lớp gạch trong cùng. Ông ấy nhấc đèn lên và soi vào cái lỗ tối như hũ nút. Nhưng một luồng khí lạnh bất ngờ thổi qua và gần như làm tắt ngọn đèn. (Giả sử ở vị trí ông ấy đang đào, luồng khí lạnh chắc chắn sẽ tạt vào mặt ông ấy một số mùi hôi.) Tuy nhiên, Littlefield tiếp tục đục lỗ rộng ra và thử lại, lần này ông che chiếc đèn lại khi đưa đèn vào trong. Đó là một khoảnh khắc kinh hãi. Ông ấy thấy được những thứ mà hầu hết mọi người sẽ thấy bên trong một nhà vệ sinh trong khu quân đội. Nhưng khi nhìn sang chỗ bóng tối lờ mờ, ông ấy thấy thêm một thứ. Ở chính giữa căn hầm là khung xương chậu của một con người có màu trắng đục.

Littlefield chạy nhanh đi báo tin cho cảnh sát, và họ đã lục soát kỹ lưỡng phòng thí nghiệm. Họ tìm thấy những mảnh xương và hàm răng từ đống tro tàn trong lò, xương ống chân ở nhà vệ sinh đựng trong ván mà họ đã kéo lên. Khủng khiếp nhất là khi một cảnh sát thọc tay sâu vào thùng đựng chè của Webster - nơi ông ấy giữ bộ sưu tập khoáng vật quý giá của mình, nguồn gốc của tất cả những rắc rối này. Gần đấy, cảnh sát cảm thấy một thứ gì đó ướt át và mềm mềm. Đó là chiếc lồng ngực đã khoét hết nội tạng, và kẹp một chiếc đùi trái bên trong như món thịt người rút xương.

Ảnh. Phần còn lại của George Parkman được khôi phục từ phòng thí nghiệm của John White Webster tại Harvard. (Nguồn từ Thư viện Y học Quốc gia Hoa Kỳ.)

Dư luận bàng hoàng. Một vụ giết người - ngay tại Harvard? Một tờ báo đưa tin, "Trên đường phố, ở những khu chợ nhỏ, hay bất kỳ ngóc ngách nào, mọi người chào hỏi nhau với những nét mặt xanh xao và tò mò, 'Việc đó có đúng không?'" Nhà thơ Henry Wadsworth Longfellow, người dạy tiếng Ý tại Harvard và coi Webster là một người bạn, tỏ ra thất kinh. Ông than thở, "Mọi tâm hồn đều bị vấy bẩn vì hành động kinh tởm này".

Nhưng nếu nhiều người đã sẵn sàng treo cổ Webster thì các công tố viên địa phương đã quan sát các bằng chứng và thấy khó xử. Giống như vụ Burke và Hare, vụ án này cũng không hề dễ giải quyết. Người chết thì đúng rồi, nhưng cái xác lại không đầu. Thực sự đây có phải là Parkman không? Thực tế, các thi thể được đưa ra vào trường y liên tục. Ngay cả khi đó là Parkman, có lẽ ai đó đã giết ông ấy ở một nơi khác, hoặc tìm thấy ông ấy chết ở đâu đó và bán thi thể lại cho trường. Cảnh sát cũng không thể bỏ qua Littlefield. Rốt cuộc, ai đã tìm thấy thi thể? Mọi người đều nhớ ông ấy sẵn sàng bán thi thể một người mẹ và thai nhi đã chết để lấy 5 đô la. Có lẽ ông ấy mong kiếm chác được chút ít từ thi thể của Parkman, hoặc đang móc nối để ăn chia với một số kẻ trộm mộ. Dù phân tích từ góc độ nào, mọi khả năng đều có thể xảy ra.

Dựa trên tính chất của vụ bê bối, phiên tòa xét xử Webster vào tháng 3 năm 1850 được coi là vụ án lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ tính đến thời điểm đó. Các quan chức thành phố đã dựng cả cần trượt để mọi người ra vào phòng xử án; 60.000 người đã ròng rã theo dõi suốt 11 ngày, và các tờ báo in được cập nhật hằng giờ giống như những dòng tweet. Vụ án cũng lan đến mọi tầng lớp ở Boston lẫn khu vực lân cận. Giới nghèo Boston nguyền rủa Webster là một kẻ tâm thần và yêu cầu treo cổ ông ấy. Trong khi đó, giới giàu Cambridge lại chế nhạo Littlefield là một kẻ hèn hạ dơ bẩn đã đổ tội cho ông chủ của mình. (Các tờ báo bên ngoài cũng chia làm hai phe. Một tờ báo tại Virginia khẳng định rằng "kẻ ghê tởm nhất trong tất cả các động vật hai chân, Ephraim Littlefield".) Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là cha vợ của Herman Melville. Ông cũng là thành viên của hội đồng giám thị tại Harvard, điều này thường sẽ là mâu thuẫn về lợi ích - ngoại trừ cả bị cáo và nạn nhân cùng là cựu sinh viên Harvard. Cùng với đó là các luật sư chính biện hộ cho hai bên và 25 nhân chứng. Đó vừa giống như một phiên tòa, vừa là một cuộc hội ngộ.

Lời bào chữa của Webster rất đơn giản. Tôi là người của Harvard, còn Littlefield thì không. Vì vậy, giữa hai chúng tôi, rõ ràng là anh ta đã làm điều đó. Cụ thể hơn, luật sư của Webster đã chỉ ra rằng thân chủ của mình không có vũ khí giết người và không biết Parkman chết thế nào. Nó giống như một trò chơi manh mối: vào những thời điểm khác nhau, các luật sư truy tố đã phỏng đoán công cụ giết người là một chiếc búa tạ, một con dao và "tay và chân" của Webster. Hội đồng xét xử thực sự có thể kết án một người không có vũ khí và không có vết thương nào được nhìn thấy trên thi thể hay không? Đặc biệt là trong một tòa nhà đầy xác chết?

Tuy nhiên, phía công tố sở hữu một điểm quan trọng để có thể dẫn đến lời luận tội. Thi thể đã được tìm thấy tại một trường y, cách không xa một trong số những cơ quan hàng đầu thế giới về giải phẫu. Họ là những chuyên gia trong việc đọc cơ thể con người, và dù họ tôn trọng Webster với tư cách là một đồng nghiệp, nhưng thi thể trong nhà vệ sinh của ông ấy là chứng cứ để kết tội.

Trước tiên, các nhà giải phẫu khẳng định thi thể là của Parkman. Một vài trong số họ đã quen biết Parkman trong nhiều năm, và với kinh nghiệm, họ nhận ra phần thân gầy gò được phát hiện trong thùng chè. Tương tự, bác sĩ nha khoa của Parkman (một đồng nghiệp khác tại Harvard) nhận ra hàm răng giả bị đốt phát hiện ở trong lò vì chính ông ấy đã tạo ra chúng. Hơn nữa, vị nha sĩ này cho biết chiếc răng đã bị thiêu khi vẫn cắm vào hàm. Ông lưu ý, nếu bị thiêu trực tiếp trong lò, răng giả sẽ nổ, như vậy chứng tỏ chúng được cách nhiệt bằng một thứ gì đó ẩm ướt, giống như da thịt con người. Đó là một nhận xét chuyên sâu của pháp y nha khoa.

Về việc ai đã giết Parkman, các manh mối đều hướng vào Webster. Các nhân chứng lưu ý, thủ phạm đã để lộ sự chuyên nghiệp trong việc tách rời xương ức, lồng ngực và xương đòn. Đối với các cơ bắp và gân dày đặc ở ngực, rất khó tách xương ức ra mà không làm đứt chúng; chỉ có người thường xuyên giải phẫu các thi thể mới biết cần cắt ở vị trí nào. Người từng là bác sĩ, Webster, phù hợp với mô tả đó, trong khi Littlefield, được biết đến với hành vi buôn bán xác chết, chưa bao giờ cầm đến một con dao mổ.

Tuy nhiên, bất chấp tất cả các bằng chứng chống lại Webster - những vết cắt chính xác; hàm răng bị đốt cháy; thi thể được tìm thấy trong nhà vệ sinh của ông ấy - mọi người đều nghĩ ông sẽ thoát được hình phạt nặng nhất vì hội đồng xét xử là những người ủng hộ Cambridge. Phiên tòa kết thúc ngay trước 8 giờ tối thứ Bảy, và hội đồng xét xử trở lại cùng bản án sau 3 giờ. Bố vợ của Melville yêu cầu phòng xử án im lặng và hỏi họ nghĩ gì về bị cáo.

Webster vẫn duy trì thái độ không quan tâm trong suốt quá trình xét xử, và không để lộ chút cảm xúc nào. Nhưng khi từ có tội vang lên, ông ấy "bắt đầu có biểu hiện như thể bị bắn", một nhân chứng cho biết, rồi ngã ngồi vào ghế. Cách vài mét phía sau ông ấy, Ephraim Littlefield bật khóc.

Do tính công khai của vụ án nên phiên tòa xét xử Webster tạo nên một sự thúc đẩy lớn cho ngành khoa học pháp y ở Hoa Kỳ, cũng giống như phiên tòa xét xử O. J. Simpson giúp mọi người làm quen với bằng chứng DNA 150 năm sau đó. Quan trọng không kém, sau một thế kỷ với những náo loạn và trộm mộ, phiên tòa đã giúp khôi phục danh tiếng của ngành khoa học giải phẫu. Các bác sĩ giải phẫu không chỉ bắt được kẻ giết người mà còn kết tội vị giáo sư giàu có và giải oan cho người bảo vệ nghèo, họ đã đảo ngược khối liên kết về giải phẫu thông thường. Trên thực tế, một nhà quan sát cho rằng đây có lẽ là phiên tòa công bằng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ: "Chưa bao giờ có một ví dụ nổi bật hơn phiên tòa này về công lý bình đẳng và chính xác [...] tiền bạc, những người bạn có tầm ảnh hưởng, nhóm luật sư đủ thẩm quyền, những lời cầu nguyện, những kiến nghị, và uy tín của một nhà khoa học danh tiếng, [tất cả] đều không cứu được ông ấy".

Ảnh. Cảnh dựng lại hiện trường vụ án giết người bi thảm giữa Webster - Parkman tại Harvard.

Và chắc chắn, Webster đã giết Parkman: cuối cùng ông ấy thú nhận điều này vài ngày trước khi bị treo cổ. Trong cuộc gặp gỡ cuối cùng và dẫn đến cái chết này, Webster cho biết, Parkman đã chửi rủa ông ấy là kẻ hèn nhát và đe dọa sẽ khiến ông ấy bị sa thải - biện pháp cuối cùng nhắm đến những tổn thất về tài chính. Trong cơn phẫn nộ, Webster vồ lấy một khúc gỗ gần đó và đập vào thái dương của kẻ đe dọa mình. (Từng là một bác sĩ nên dường như ông ấy biết cần phải đánh vào đâu.) Parkman ngã quỵ, và Webster hoảng loạn đã chặt thi thể thành từng phần và thiêu hủy chúng.

Hóa ra, sự thú nhận là lời cầu xin sự khoan hồng cuối cùng. Như Webster trình bày với thống đốc, ông ấy đã phạm tội ngộ sát chứ không phải giết người, và xứng đáng ngồi tù chứ không phải tử hình. Vị thống đốc đã không lay động, và giống như William Burke trước kia, John White Webster bị treo cổ vì tội giết người vài ngày sau đó + .

Dù nghiên cứu giải phẫu có lịch sử nhiều bê bối, nhưng ít nhất chúng ta có thể nói rằng: ngoài những vụ giết người của Burke-Hare, thì những nạn nhân mà thi thể họ bị đào bới và giải phẫu đều đã chết trước đó. Thật đáng buồn, nhưng ít nhất họ không biết điều đó.

Thật đáng tiếc, điều đó không phải lúc nào cũng thường xảy ra. Hầu hết các nghiên cứu y học diễn ra trên người sống, và như chúng ta sẽ thấy trong các chương sau, ngay cả các nhà giải phẫu của những năm 1800 cũng sẽ lúng túng trong một số thí nghiệm man rợ trong thế kỷ tiếp theo. Con người không phải là những sinh vật duy nhất phải chịu đựng. Nghiên cứu y học thường coi động vật là phương tiện chứ không phải kết quả, và nỗi đau đớn của chúng bị gạt sang một bên như là thiệt hại ngoài dự kiến. Đó là một tình trạng khó xử nghiêm trọng về mặt đạo đức ngay cả khi các thí nghiệm cung cấp nguồn dữ liệu hữu ích. Nhưng trong trường hợp của Thomas Edison, người đã tra tấn ngựa và chó bằng điện chỉ để nhằm hạ uy tín của một đối thủ kinh doanh - điều đó đã lạc bước sang một địa hạt thực sự tội lỗi.