8. THAM VỌNG PHẪU THUẬT TÂM HỒN
Câu chuyện dưới đây khiến Egas Moniz kinh ngạc. Đó là vào tháng 8 năm 1935, một năm đáng thất vọng đối với nhà thần kinh học này, và ông ấy đến dự một hội nghị ở London trong bộ dạng mệt mỏi. Tuy nhiên, ngay sau khi nghe câu chuyện về con tinh tinh, mọi sự chán nản đều tan biến.
Hai con tinh tinh tên là Becky và Lucy. Các nhà khoa học tại Đại học Yale cho chúng tham gia một số bài kiểm tra về trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề. Trong một bài kiểm tra, các nhà khoa học đặt một món ăn bên dưới một trong hai chiếc cốc úp ngược, sau đó hạ tấm màn che xuống trong vài phút. Becky và Lucy phải nhớ xem món ăn đó đang ở dưới chiếc cốc nào và nếu sai, sẽ không được ăn nó. Một bài kiểm tra khác liên quan đến việc sử dụng một cây gậy ngắn để kéo một loạt gậy dài hơn trong tầm với, sau đó dùng chiếc gậy dài nhất để lấy một món ăn khác. Lucy hoàn thành tốt cả hai nhiệm vụ, nhưng Becky không bao giờ nhớ được vị trí của món ăn và sẽ nổi cơn thịnh nộ nếu thất bại - kêu gào, đập tay, ném phân cùng nhiều hành động khác.
Sau khi huấn luyện những con tinh tinh thực hiện các nhiệm vụ này, các nhà khoa học đã thực hiện một hành động rất quyết liệt. Họ phẫu thuật cắt bỏ phần lớn bộ não của hai con tinh tinh - toàn bộ thùy trán - sau đó thực hiện lại các bài kiểm tra để xem Becky và Lucy xử lý các tình huống như thế nào. Kết quả thật đáng thất vọng. Theo báo cáo của nhóm nghiên cứu tại Yale được công bố ở London, phải sau vài giây, hai con tinh tinh mới nhớ được vị trí của món ăn, còn nhiệm vụ kéo chiếc gậy vượt quá khả năng của chúng. Mất thùy trán đồng nghĩa với việc ký ức ngắn hạn của chúng cũng bị xóa sạch, kéo theo đó là khả năng giải quyết vấn đề của chúng.
Tất cả đều rất thú vị dù hơi buồn một chút. Nhưng những hiểu biết sâu sắc về trí nhớ và khả năng giải quyết vấn đề không phải là điều đã thu hút Egas Moniz. Một nhà khoa học tại Yale đề cập rằng, sau khi phẫu thuật, Becky đã ngừng nổi cơn thịnh nộ nếu không có được món ăn. Nó hoàn toàn điềm tĩnh hệt như vừa trở về từ một "khóa tu hạnh phúc". Nhìn chung, việc cắt bỏ thùy trán dường như đã loại trừ chứng loạn thần kinh chức năng ở con tinh tinh.
Hiện tại, đây không phải là toàn bộ câu chuyện. Nhà khoa học này cũng cho biết, trong khi Becky dường như "trưởng thành" hơn thì Lucy lại theo hướng ngược lại: từ một con tinh tinh điềm tĩnh và ngoan ngoãn, nó trở nên cáu kỉnh và vùng vằng hệt như một em bé khủng hoảng tuổi lên hai. Việc cắt bỏ thùy trán đã gây ra chứng loạn thần kinh chức năng ở con tinh tinh này.
Nhưng Moniz, khi ấy đang ngồi dưới hàng ghế khán giả, đã bỏ lỡ hoặc bỏ qua phần thông tin về Lucy. Viễn cảnh về một Becky bình tĩnh đã chiếm lấy thùy trán của ông. Trong phần hỏi đáp sau đó, ông đứng dậy và đặt câu hỏi liệu phẫu thuật não ở người có thể điều trị chứng rối loạn cảm xúc theo cách tương tự hay không.
Các khán giả đã bị sốc. Có phải Moniz đang thực sự đề xuất ý tưởng cắt bỏ thùy trán của ai đó?
Không. Nhưng trong tâm trí ông chứa đựng một cái gì đó đen tối không kém.
Moniz có thể đã không bao giờ vướng vào các hoạt động phẫu thuật thùy não nếu không vì tiếng tăm lừng lẫy của gia đình. Ông ấy lớn lên ở Bồ Đào Nha vào những năm 1870, nơi một người chú đã lấp đầy tâm trí ông bằng những câu chuyện về tổ tiên của gia đình - bao gồm cả Egas Moniz đời thứ nhất, một người lính huyền thoại giúp đẩy lùi quân Moors xâm lược vào những năm 1100. Những câu chuyện như vậy khơi dậy những cảm xúc cũng như khát vọng mạnh mẽ trong cậu bé để trở nên vượt trội và nổi tiếng. Khi còn trẻ, ông theo học trường y ở Bồ Đào Nha và học nội trú ngành thần kinh học ở Paris. Ngay sau đó, ở tuổi 26, ông được bầu vào quốc hội Bồ Đào Nha. Đến tuổi trung niên, ông trở thành đại sứ tại Tây Ban Nha và sở hữu một điền trang nguy nga ở Lisbon với hầm rượu đáng nể và vô số người hầu mặc trang phục do chính ông thiết kế.
Tuy nhiên, ông ấy vẫn thất vọng vì tiếng tăm trong lĩnh vực chính trị vượt xa dấu ấn của bản thân trong lĩnh vực y học. Trên thực tế, khi ông được bổ nhiệm vào khoa thần kinh tại một trường đại học danh tiếng ở Lisbon, mọi người chế giễu rằng ông được bầu vào vị trí này là nhờ các mối quan hệ chính trị chứ không phải sự nhạy bén trong khoa học. Những lời lẽ khiến ông ấy rất đau lòng.
Sau đó, sức khỏe của ông bắt đầu sa sút. Vì lối sống xa hoa nên từ lâu ông đã mắc bệnh gút ở tay. Tình trạng đau khớp này khiến ngay cả những cái bắt tay cũng trở thành thử thách đau đớn, và hạn chế khả năng làm việc với bệnh nhân. Ông ấy cũng tăng cân đáng kể ở tuổi trung niên, khiến ông trông béo phì và buồn bã.
Bác sĩ Egos Moniz, nhà thần kinh học khao khát vinh quang, người đã phát minh ra phương pháp phẫu thuật thùy não. (Tranh của José Malhoa.)
Không thể tiếp tục chữa trị cho bệnh nhân,
Moniz chuyển tham vọng của mình vào việc phát triển các quy trình y tế mới. Vào thời điểm những năm 1920, các bác sĩ có thể kiểm tra xương người bằng cách sử dụng tia X, nhưng họ không có cách nào hiệu quả để quan sát các mô mềm bên trong. Vì vậy, một số nhà khoa học ở Pháp đã phát minh ra phương pháp X quang mạch máu theo như tên gọi ngày nay. Với phương pháp này, các nhân viên y tế sẽ tiêm một chất lỏng có màu đục, chứa đầy các ion kim loại hòa tan vào tĩnh mạch của người bệnh. Chất lỏng này sẽ phản xạ lại khi tia X được quét qua người bệnh, cho phép các bác sĩ nhìn thấy thành của các mạch và các cơ quan.
Ngoài những tai nạn đẫm máu, đây là lần đầu tiên những gì bên trong ruột của một người sống được quan sát - một bước đột phá lớn.
Moniz lao vào nghiên cứu máy chụp mạch máu và chạy đua để đạt được những bức ảnh đầu tiên người ta có thể quan sát được bên trong ruột của một người sống - một bước đột phá lớn.
Moniz lao vào nghiên cứu phương pháp chụp mạch máu và chạy đua để cho ra đời những bức ảnh đầu tiên về não bộ. Ông bắt đầu thực hiện công việc trên tử thi. Trợ lý của ông (người xử lý các công cụ dưới sự chỉ đạo của Moniz) sẽ bơm chất lỏng mờ đục vào não. Tiếp theo, người trợ lý sẽ tách riêng phần đầu ra, có thể là dùng cưa, và lao lên chiếc limousine của Moniz cùng cái đầu; sau đó chiếc xe phi thẳng qua thị trấn đến nơi có thiết bị chụp X quang đang chờ sẵn. Trong nhiều tuần, Moniz nhớ lại, ông đã sống trong nỗi sợ hãi về một vụ tai nạn ô tô. Ông ấy có thể nhìn thấy tận mắt phần đầu bị cắt rời lăn ra vỉa hè, và điều đó phơi bày những thí nghiệm rùng rợn của ông ấy.
Sau khi thực hành trên tử thi, Moniz và trợ lý chuyển sang những bệnh nhân còn sống. Tuy nhiên, các chất lỏng mà họ tiêm vào (ví dụ, stronti bromua, natri iodua) thường bị rò rỉ sang mô xung quanh và gây ra các vấn đề về thần kinh như sụp mí mắt và co giật. Một bệnh nhân đã tử vong. Dù đau lòng nhưng vẫn không nao núng, Moniz thay đổi các giải pháp và tiếp tục mày mò nghiên cứu. Vào tháng 6 năm 1927, cuối cùng ông cũng chụp được một số bức ảnh tuyệt đẹp về các động mạch và tĩnh mạch não. Ông thậm chí còn xác định chính xác một khối u gần tuyến yên của một bệnh nhân dựa trên sự phân nhánh của các mạch máu ở đó.
Những hình ảnh này vô cùng quan trọng, và Moniz biết điều đó. Ông nỗ lực hết mình để xác định được ưu tiên khi cho ra hai chục bài báo về phương pháp chụp mạch máu vào năm 1927 và 1928. Vô cùng tự tin, ông đã đề nghị hai đồng nghiệp đề cử mình cho giải Nobel, và họ đã làm vậy - vì không muốn từ chối một người có nhiều mối quan hệ như ông.
Các đề cử thôi không đủ. Bởi vì Moniz không phát minh ra phương pháp chụp mạch máu, các nhà khoa học khác chỉ coi công trình của ông phần nào đó là sản phẩm phái sinh, và trong giai đoạn cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, Moniz có thể thấy tỷ lệ tín nhiệm của ông giảm dần. Không nghi ngờ gì khi phương pháp chụp mạch não đã cứu sống được nhiều người, và giờ đây các đồng nghiệp tôn vinh ông như một nhà khoa học chân chính. Nhưng điều đó gần như không đủ để ông được đúc tượng thờ trong đền thờ của dòng tộc.
Đây là tình trạng của Moniz khi đến dự hội nghị London vào năm 1935 - 60 tuổi, đi khập khễnh vì bệnh gút và chán nản với di sản của bản thân. Trong nỗ lực cuối cùng nhằm quảng bá bản thân, ông đã dựng một gian thực hành phương pháp chụp mạch não ở đó, nhưng gần như không đạt được kết quả gì. Thay vào đó, Moniz dành phần lớn thời gian trò chuyện với một bác sĩ ở gian hàng bên cạnh, một nhà thần kinh học trẻ tuổi đầy tham vọng người Mỹ tên là Walter Freeman, người cũng nghiên cứu về trực quan hóa não bộ. Freeman thể hiện là một người trình diễn tốt hơn hẳn một Moniz xa cách (trong trí nhớ của các đồng nghiệp, tại các hội nghị khác, Freeman là một người thường gây sự chú ý, hay hò hét và quy tụ những đám đông vây quanh mình), nhưng cả hai khá hợp nhau và nói chuyện bằng tiếng Pháp về các khía cạnh khác nhau trong công việc của họ. Khá tẻ nhạt.
Tuy nhiên, tại một thời điểm nào đó trong hội nghị, Moniz đã tham dự phiên thảo luận về hai con tinh tinh Becky và Lucy - và cảm thấy toàn bộ cuộc sống của mình đã thay đổi. Rất ít người có thể tạo ra mối liên hệ này. Nhưng trong câu chuyện về Becky, Moniz đột nhiên nhìn ra giải pháp cho một trong những vấn đề nhức nhối nhất của xã hội phương Tây - tình trạng đáng xấu hổ của những bệnh viện tâm thần.
Trong thời cổ đại và trung cổ, bất cứ khi nào ai đó mất trí, gia đình họ sẽ tiếp nhận và chăm sóc. Nhưng khi quá trình công nghiệp hóa làm rạn nứt cuộc sống gia đình vào những năm 1700 và 1800, gánh nặng chăm sóc chuyển sang cho chính phủ, và chính phủ bắt đầu dồn những khu vực mới thành các bệnh viện tâm thần. Vào năm 1900, mọi thành phố lớn ở phương Tây đều có một bệnh viện tâm thần, và tất cả chúng đều giống nhau một cách đáng buồn: ồn ào, bẩn thỉu và quá đông đúc. Một nhà sử học ghi lại: "Bệnh nhân bị những người phục vụ đánh đập, làm ngạt thở và quát tháo. Họ bị nhốt trong những căn phòng tối, ẩm ướt, có đệm lót và thường phải mặc những chiếc áo bó có ống tay dài bị cột lại". (Một phụ nữ tại một bệnh viện tâm thần thậm chí bị buộc phải sinh con khi đang mặc chiếc áo bó như vậy trong phòng biệt giam). Tồi tệ nhất là, họ so sánh nơi này với các trại tập trung. Các bác sĩ tâm thần đã cố gắng giúp những người mất trí, mặc dù không đạt được nhiều thành công. Các phương pháp điều trị phổ biến nhất là khởi động lại bộ não của họ bằng thuốc hoặc sốc điện để gây co giật và hôn mê + .. Một số bệnh nhân (thực sự) được hưởng lợi từ các biện pháp này, nhưng con số này rất ít. Và các "phương pháp điều trị" khác ít được nói tới - thiến, tiêm máu ngựa, "túi xác" ướp lạnh - thì càng tệ.
Một cảnh trong Bệnh viện Hoàng gia Bethlem nổi tiếng ở Anh, nơi có biệt danh - Bedlam - đồng nghĩa với tình trạng tồi tệ của những bệnh viện tâm thần. (Trích từ loạt phim Rake's Progress của William Hogarth.)
Thật vậy, điều đáng buồn nhất ở các bệnh viện tâm thần là bầu không khí bất lực nơi đây. Bệnh nhân rên rỉ và khóc lóc, lắc lư và hú hét hết ngày này qua ngày khác, và việc mà người ta đã làm với họ không tạo nên bất kỳ sự khác biệt nào. Ngay cả việc gọi những người như vậy là "bệnh nhân" dường như cũng không chính xác vì từ đó ám chỉ về triển vọng chữa khỏi bệnh. Thực ra, họ là những tù nhân. Một số tù nhân không có giường bởi vì họ sẽ đập phá chúng và dùng các mảnh vỡ đâm người khác. Một số người không có quần áo vì họ sẽ tự xé rách hoặc làm bẩn nó. về mặt nào đó, những người này còn tồi tệ hơn cả động vật. ít nhất là động vật còn kiểm soát được hành vi. Còn những người này bị tâm trí giày vò giờ này qua giờ khác, hết thập kỷ này đến thập kỷ khác.
Đột nhiên, Moniz phát hiện ra một cách để cứu họ. Nếu những việc mà người ta đã làm với bộ não của Becky đã chấm dứt cơn bộc phát của nó, thì tại sao một việc làm tương tự lại không thể giúp những người đang gặp vấn đề về thần kinh? Điều đó xứng đáng để thử. Ngoại trừ, thay vì loại bỏ thùy trán, Moniz đề xuất một điều gì đó tinh vi hơn: cắt đứt các kết nối giữa thùy trán và hệ viền.
Ở người, thùy trán đảm nhận nhiệm vụ phản ánh, lập kế hoạch và suy nghĩ lý trí. Hệ viền xử lý cảm xúc ban đầu. Hai vùng não này được kết nối với nhau bằng các tế bào thần kinh có chức năng gửi tín hiệu qua lại. Moniz suy đoán rằng, trong bộ não của những người bị tâm thần, hệ viền đã hoạt động quá mức, khiến chúng vận hành nhanh hơn và gây quá tải cho thùy trán bằng một loạt các tín hiệu.
Lúc đó, lý thuyết của Moniz không hoàn toàn sai - những cảm xúc bị xáo trộn thực sự lấn át bộ não của một số người. Nhưng lý thuyết đó được xây dựng dựa trên một mô hình lỗi thời về bộ não giống như một bảng điện gắn cứng, trong đó các dây kết nối với các bộ phận khác nhau. Đối với Moniz, vấn đề thần kinh xảy ra vì hệ thống dây điện bị lỗi, chập mạch và kết nối kém. Vì vậy, bằng cách cắt bỏ những kết nối tồi tệ đó, ông có thể đưa bộ não trở lại trạng thái cân bằng - chữa khỏi bệnh tâm thần bằng một nhát dao.
Thật không may, Moniz dường như không nhận ra rằng thông tin truyền tải đến não theo cả hai chiều. Cảm xúc có thể lấn át thùy trán, đó là điều không bàn cãi. Tuy nhiên, thùy trán cũng có thể gửi tín hiệu ngược trở lại hệ viền để kiềm chế những cảm xúc ban đầu và giúp chúng ta bình tĩnh. Trên thực tế, mất kiểm soát thùy trán có thể là nguyên nhân đã biến Lucy, con tinh tinh còn lại, trở nên tàn phế sau cuộc phẫu thuật. Không có thông tin phản hồi từ thùy trán khiến nó nổi loạn.
Mặc dù vậy, một lần nữa Moniz lại phớt lờ Lucy, và thay vào đó là tập trung vào câu chuyện rõ ràng, sắc nét về Becky - cáu kỉnh trước đó, rồi trở nên điềm tĩnh. Hơn thế nữa, ông còn tưởng tượng ra hàng triệu người đang phải khổ sở chịu đựng tại những bệnh viện tâm thần trên toàn thế giới và ông ấy cam kết sẽ giúp đỡ họ. Hãy giúp giảm thiểu số lượng các bác sĩ phải tiêu tốn thời gian vào các biểu hiện động kinh và sốc điện. Theo cách nói của ông, ông ấy sẽ "tấn công" vào tận gốc rễ của bệnh tâm thần bên trong não, thông qua một ngành học mới được gọi là phẫu thuật tâm lý. Và nếu điều đó mang lại vinh quang trong quá trình thực hiện, thì ông sẵn sàng đón nhận điều đó.
Đến giữa những năm 1930, Moniz đã ở tuổi 60 và không còn nhiều thời gian để tạo dựng di sản của bản thân. Do đó, ông bỏ qua tất cả các bài kiểm tra an toàn trên động vật và chỉ đạo cuộc phẫu thuật tâm lý đầu tiên của mình - được ông ấy gọi là phẫu thuật thùy não - chỉ 3 tháng sau hội nghị ở London + ..
Bệnh nhân phẫu thuật thùy não đầu tiên của ông ấy là một phụ nữ 63 tuổi, từng đến rồi rời khỏi nhiều khu vực điều trị tâm lý trong nhiều thập kỷ; bà ấy thường xuyên khóc lóc, liên tụtc gặp ảo giác và mắc chứng hoang tưởng về việc bị đầu độc. Moniz hướng dẫn một đồng nghiệp là bác sĩ phẫu thuật thần kinh tạo hai lỗ trên hộp sọ của người phụ nữ với kích thước nhỏ hơn đồng xu một hào. Sau đó, họ luồn một ống tiêm sâu vào trong thùy trán và tiêm một liều nhỏ cồn nguyên chất - về cơ bản là rượu Everclear - phá hủy các tế bào xung quanh bằng cách gây mất nước và tắc nghẽn chúng.
Ngay cả khi có vội vàng đi nữa, nhưng Moniz cũng đã thể hiện một thái độ lãnh đạm gây sốc khi theo dõi các bệnh nhân để đảm bảo rằng những ca phẫu thuật thùy não thực sự hiệu quả. Trong trường hợp đầu tiên này, ông ấy hỏi người phụ nữ một số câu hỏi ngớ ngẩn vài giờ sau khi phẫu thuật ("Cô thích sữa hay nước canh thịt hơn?") và phát hiện ra bà ấy không biết bản thân bao nhiêu tuổi hay đang ở đâu. Ông đưa bà ấy trở lại bệnh viện tâm thần vài ngày sau đó, và bà ấy vẫn tiếp tục khóc. Tuy nhiên, ông đã tuyên bố bà ấy được chữa khỏi vào đầu năm 1936, dựa trên cảm giác rằng mức độ hoang tưởng và ảo giác của bà ấy đã giảm. Đến lúc đó, ông tiếp tục chuyển sang những bệnh nhân khác, và tiêm cồn vào não của 7 bệnh nhân nữa. Ông cũng tuyên bố đạt được kết quả đáng mừng từ những trường hợp đó, dựa trên các phân tích hời hợt tương tự.
Mặc dù vậy, về góc độ cá nhân, Moniz lo sợ rằng cồn đang phá hủy nhiều tế bào não hơn so với mong muốn. Ông ấy quyết định thay đổi mọi thứ, và thay vì tiếp tục tiêm cồn, ông ấy bắt đầu mổ xẻ. Kỹ thuật mới được cải tiến với nhiều hy vọng này sử dụng một thanh mỏng trượt sâu vào trong thùy trán. Tại thời điểm này, một vòng dây bật ra khỏi thanh mỏng này, và bằng cách xoay chiếc vòng này, ông ấy có thể "lấy ra từ lõi" một số mô. Việc mổ xẻ dường như có tác dụng với bệnh nhân đầu tiên, vì vậy Moniz nhanh chóng sắp xếp thêm hơn chục trường hợp nữa. Ông ấy tuyên bố một trong những bệnh nhân này đã khỏi bệnh tâm thần chỉ sau 11 ngày, khoảng thời gian quá ngắn đến mức thậm chí không đủ để hồi phục sau ca phẫu thuật não, chứ chưa nói đến đánh giá sự thành công của nó. Đối với ông ấy, vấn đề thực sự duy nhất xảy ra khi một người phụ nữ rên rỉ trong khi người trợ lý đang lấy mô từ não cô ấy - có thể bởi vì, như Moniz sớm nhận ra, vòng dây đã bị đứt và chôn vùi bên trong não.
Đến năm 1936, Moniz có đủ tài liệu để xuất bản một cuốn sách về phẫu thuật thùy não. Trong đó, ông ấy tuyên bố rằng 1/3 số bệnh nhân đã được chữa khỏi, 1/3 đã giảm đáng kể các triệu chứng và 1/3 đã cải thiện hơn trước. Vì sự thiếu hiệu quả trong điều trị bệnh tâm thần khi đó nên đây sẽ là những kết quả đáng kinh ngạc nếu đúng là như vậy.
Dù đúng hay không, mọi người vẫn muốn tin Moniz - họ hy vọng có thể chữa khỏi bệnh. Điều đó lại càng đúng hơn ở Hoa Kỳ, nơi có vô số bệnh viện tâm thần tồi tệ trải khắp đất nước. Cuốn sách của Moniz nhanh chóng đến tay của Walter Freeman, một nhà thần kinh học thích tán gẫu và là người có gian hàng bên cạnh Moniz tại hội nghị ở London. Giống như Moniz, Freeman muốn giúp những người mất trí - và thậm chí còn liều lĩnh hơn về mặt đạo đức.
Freeman gọi mình là Henry Ford của ngành phẫu thuật tâm lý - người đã đưa phẫu thuật thùy não đến với mọi người.
Năm 1936, Freeman đảm nhiệm hai vị trí công tác tại Washington, D.C., một tại Đại học George Washington và một tại một bệnh viện tâm thần gần đó. Ông ấy yêu thích công việc ở Đại học George Washington, ở đây ông ấy được mọi người biết đến là một giáo viên vô cùng thú vị và có thể thu xếp lớp học ngay cả vào các sáng thứ Bảy. Với cặp kính cận, lông mày rậm, bộ ria mép và chòm râu dê đã lỗi thời, ông trông giống Groucho Marx, và tỏ ra không kém phần thú vị trong các bài giảng. Ông ấy có thể vẽ trên bảng đen bằng cả hai tay tốt như nhau và sẽ khiến sinh viên trầm trồ khi phác thảo đồng thời hai phần khác nhau của não bộ. Hơn thế nữa, ông còn lùng sục các bệnh viện địa phương để tìm những bệnh nhân thần kinh thú vị và dẫn họ đến trước mặt các sinh viên. Ví dụ, một bà già mắc chứng sa sút trí tuệ về cơ bản giống trẻ sơ sinh đến mức phản xạ bú sữa cũng xuất hiện trở lại. Freeman chứng minh điều này bằng cách cho người này bú một cái chai, sau đó là cái nõ tẩu của ông, một cách thèm thuồng. ("Đó là một hình ảnh mà họ sẽ khó có thể sớm quên đi", ông ấy khoe trong một bức thư.) Những sinh viên của ông ấy, chủ yếu là nam, yêu thích các tiết học đến nỗi họ thường dẫn bạn gái đi cùng. Nó thú vị hơn và rẻ hơn so với những bộ phim.
Trái ngược với việc giảng dạy, công việc thứ hai của Freeman tại bệnh viện tâm thần khiến ông ấy chán nản. Mọi người ở đó dường như đều khổ sở, từ bệnh nhân cho đến quản lý, và sự lãng phí tiềm năng của con người khiến ông ấy ghê tởm. Vì vậy, khi Egas Moniz xuất bản cuốn sách về phẫu thuật thùy não, trình bày chi tiết tất cả những gì được cho là phương pháp chữa trị, Freeman vô cùng phấn khích. Ông ấy nhớ lại, "một viễn cảnh tương lai mở ra" trong tâm trí ông ấy, một điều gì đó giống như một cuộc cải đạo tôn giáo. Freeman cũng là một người mạnh dạn, và phương pháp phẫu thuật tâm lý mới táo bạo này đã lôi cuốn cảm giác phiêu lưu của ông ấy. Ông ấy nhanh chóng tuyển một cộng tác viên tại Đại học George Washington, bác sĩ giải phẫu thần kinh James Watts, và trở nên bận rộn.
Cuốn sách của Moniz ra mắt vào tháng 6 năm 1936 và đến tháng 9, Freeman và Watts đã có những bệnh nhân đầu tiên trên bàn mổ. Giờ đây, với tư cách là một nhà thần kinh học chứ không phải một nhà giải phẫu thần kinh, Freeman không được phép trực tiếp thực hiện phẫu thuật. Nhưng ông ấy quá nóng lòng đến mức không thể chỉ ngồi yên và quan sát: khi Watts mở hộp sọ ra, Freeman thường đảm nhiệm các công việc tiếp theo. (Công bằng mà nói, Freeman là một chuyên gia đẳng cấp thế giới về giải phẫu não, kiến thức của ông ấy vượt xa so với Watts.) Lúc đầu, cặp đôi này chỉ đơn giản là sao chép phương pháp của Moniz khi sử dụng một vòng dây để tách mô não. Cuối cùng, họ đã thay đổi cách phẫu thuật, loại bỏ vòng dây và cắt mô bằng thứ trông giống như một con dao phết bơ khổng lồ - một lưỡi dao dài với một bên bị cùn. Họ trượt lưỡi dao vào các lỗ có kích thước bằng đồng xu trên hộp sọ và xoay nó theo các góc khác nhau nhằm cắt đứt các kết nối giữa thùy trán và các trung tâm cảm xúc. Bởi vì đang sử dụng các công cụ mới và một kỹ thuật mới nên họ đặt tên mới cho quy trình này, phẫu thuật thùy não.
Freeman và Watts thực hiện phẫu thuật một bệnh nhân mỗi tuần trong suốt 4 tháng cuối năm 1936, và kết quả đã khích lệ họ. Khoảng một nửa số bệnh nhân đã có những biểu hiện đủ bình tĩnh để trở về nhà với gia đình, và bộ đôi này coi đây là một sự cải thiện đáng kể so với việc sống trong một bệnh viện tâm thần. Hơn nữa, những người ở lại bệnh viện tâm thần cũng ngoan ngoãn hơn nhiều. Như Freeman nói sau đó rằng, trong một bối cảnh có phần khác biệt, "Mức độ ồn ào của bệnh viện đã giảm xuống, 'những sự cố' ít xảy ra hơn, sự hợp tác được cải thiện và khu vực này trở nên tươi sáng hơn khi những tấm rèm và chậu hoa không còn nguy cơ được sử dụng làm vũ khí".
Chắc chắn họ cũng thất bại. Khi di chuyển dao xung quanh, Freeman đôi khi cắt vào mạch máu, và một trong những bệnh nhân đầu tiên đã chết vì xuất huyết. Tình trạng của bệnh nhân không phải lúc nào cũng được cải thiện. Vào đêm Giáng sinh năm 1936, một bệnh nhân nghiện rượu loạng choạng bước ra khỏi giường, kéo chiếc mũ che băng phẫu thuật và đi lang thang ra khỏi cửa trước của bệnh viện. Sau hồi lâu tìm kiếm, Freeman và Watts tìm thấy ông ấy đang ăn mừng kỳ nghỉ tại một quán rượu địa phương, và say xỉn đến mức gần như không thể đi lại. Do sự cố bất ngờ này, Freeman đã không kịp có mặt lúc cậu con trai của ông chào đời. Nhưng Freeman không bao giờ để những thất bại như thế ảnh hưởng đến bản thân. Trong nhiều trường hợp, ông ấy lên lịch ngay cuộc phẫu thuật thùy não khác cho bệnh nhân, vì rõ ràng ông ấy đã không tách đủ lượng mô trong lần đầu tiên.
Để xứng đáng với sự tin tưởng, Freeman theo dõi các bệnh nhân một cách nghiêm túc hơn nhiều so với Moniz, và ông ấy đủ trung thực (ít nhất là lúc đầu) để thừa nhận những hạn chế của phẫu thuật thùy não. Nhìn chung, Freeman cho rằng cuộc phẫu thuật chẳng có tác dụng gì đối với những người bị tâm thần phân liệt, những người nghiện rượu và những người phạm tội biến thái. (Trên thực tế, đôi khi, sự biến thái trở nên trầm trọng hơn vì bệnh nhân mất hết cảm giác xấu hổ sau khi phẫu thuật. Freeman từng châm biếm rằng, nếu phẫu thuật thùy não cho một kẻ hay đi nhìn trộm, thay vì nhòm ngó qua cửa sổ, hắn ta sẽ xông vào từ cửa trước.) Phẫu thuật thùy não được chứng minh có hiệu quả hơn nhiều đối với những người bị trầm cảm nặng và các chứng rối loạn cảm xúc khác vì nó giúp hạn chế sự chán nản và cải thiện tâm trạng. Một phần vì lý do này mà hầu hết các bệnh nhân phẫu thuật thùy não ban đầu đều là phụ nữ, những người bị (hoặc ít nhất được chẩn đoán) trầm cảm và rối loạn cảm xúc với tỷ lệ cao hơn nam giới.
Freeman cũng thẳng thắn về những phản ứng phụ của phẫu thuật thùy não. Không một bệnh nhân nào của ông ấy trở thành người thực vật và giảm bớt chứng chảy nước dãi; đó là khuôn mẫu của Hollywood. Nhưng nhiều người phải học lại các kỹ năng cơ bản như sử dụng các vật dụng để ăn và đi vệ sinh. Rắc rối hơn, Freeman thừa nhận rằng nhiều bệnh nhân đã mất đi sự "nhiệt huyết". Tức là, tính cách của họ bị thui chột, và họ mất hết sự chủ động, được đề nghị làm gì đó, họ sẽ nhún vai và thực hiện theo nhưng không mấy nhiệt tình. Và nếu không được thúc giục làm điều gì đó, họ sẽ chỉ ngồi hàng giờ và nhìn chằm chằm. Mất kiểm soát thùy trán cũng kích thích sự thèm ăn của họ. Bệnh nhân sẽ ăn rất nhiều và ăn bất cứ thứ gì được bày ra trước mặt, sau đó nôn mửa và bắt đầu ăn lại ngay. Một số khác có nhu cầu tình dục tăng đột biến và sẽ đòi quan hệ tình dục từ vợ/chồng lên đến 6 lần một ngày trong tuần sau khi phẫu thuật. (Một tác giả nhận xét, "Con dao... khiến Hamlet trở nên ngu ngốc chứ không phải Romeo".) Điều đáng lo ngại nhất là sự thiếu ý thức về bản thân và phép lịch sự xã hội. Một người đàn ông bắt đầu vỗ tay sau bài giảng đạo ở nhà thờ, huýt sáo và hò hét như thể ông ấy vừa xem một màn tạp kỹ. Nhiều bệnh nhân khác không còn tắm rửa và ăn mặc gọn gàng. Như Freeman từng nói (ông ấy có tài ăn nói), các bệnh nhân của ông ấy thể hiện "các đức tính của Hướng đạo sinh theo cách ngược lại": thiếu sạch sẽ, lịch sự, vâng lời, tôn kính,...
Một thất bại nổi tiếng nhất của Freeman xảy ra vào năm 1941. Joseph Kennedy, người đứng đầu của gia tộc chính trị, nói chuyện với Freeman về việc phẫu thuật thùy não cho con gái của ông ấy là Rosemary, người dễ bị thay đổi tâm trạng và bộc phát cơn tức giận. Phẫu thuật thùy não khiến Rosemary 23 tuổi ban đầu không thể nói hoặc đi lại, và mất hết sinh lực. Mặc dù là người yêu cầu phẫu thuật, nhưng Kennedy rất tức giận với Freeman. Ông ấy cảm thấy bàng hoàng và xấu hổ, và quyết định nhốt con gái mình vào một nơi tách biệt trong suốt quãng đời còn lại + ..
Trong bối cảnh những bệnh nhân "được chữa khỏi" cũng vẫn phải chịu đựng những phản ứng phụ nghiêm trọng, phẫu thuật thùy não đã trở thành mục tiêu của một số lời chỉ trích gay gắt. Một bác sĩ tuyên bố, "Đây không phải là một cuộc phẫu thuật mà là một cuộc cắt xén". Một người khác cho rằng, "bác sĩ giải phẫu tâm lý thực sự đang đạp lên vùng nguy hiểm khi cho rằng một bệnh nhân không có tâm hồn sẽ hạnh phúc hơn một bệnh nhân yếu đuối". Nhiều bác sĩ cũng đặt ra câu hỏi liệu những người bị rối loạn hoặc mất trí có thực sự chấp nhận một cuộc phẫu thuật thử nghiệm có tính chất quan trọng như vậy hay không. Một trong những người con trai riêng của Freeman từng nói: "Nói về một ca phẫu thuật thùy não thành công cũng giống như nói về một tai nạn ô tô thành công vậy".
Freeman không chấp nhận để yên cho những lời chỉ trích như vậy. Ông ấy yêu thích việc tranh cãi và háo hức đáp trả những người chỉ trích mình, những người mà ông ấy coi là ủy mị chỉ biết khăng khăng bấu víu vào đạo đức thay vì thực sự giúp đỡ mọi người. Ông ấy cũng có quan điểm của mình. Ngay cả những người chỉ trích ông ấy cũng phải thừa nhận rằng - điều này nghe có vẻ lạ lùng so với ngày nay - nhiều người được hưởng lợi từ phẫu thuật thùy não. Cần nhắc lại rằng, có rất ít phương pháp điều trị bệnh tâm thần khi đó, và phẫu thuật thùy não ít nhất đã giúp cải thiện tình trạng của những bệnh nhân bị rối loạn nghiêm trọng nhất. Thay vì cắn bất cứ ai đến gần, hoặc đập đầu vào tường cho đến khi ngất đi trong vũng máu, giờ đây họ có thể làm những việc đơn giản giống con người như dùng bữa với người khác hoặc ra ngoài đi dạo. Theo đánh giá của Freeman, nếu quy trình này "cho phép bệnh nhân ngủ trên giường thay vì dưới gầm giường, thì nó rất xứng đáng". Không có phương pháp điều trị triệt để nhưng phẫu thuật tâm lý đã đưa họ trở về trạng thái gần nhất với sự bình thường. Vì lý do này, một số nhà thần kinh học lỗi lạc đã bảo vệ Freeman, và công trình của ông ấy nhận được sự ủng hộ cần thiết để xuất hiện trên các ấn phẩm như The New England Journal of Medicine.
Tóm lại, giống như một phương pháp điều trị cuối cùng được dùng đến, phẫu thuật thùy não có thể đã có một vị thế quan trọng trong nền y học vào giữa thế kỷ trước. Giá như Walter Freeman đủ khiêm tốn để có thể chấp nhận những hạn chế như vậy.
Vào giữa những năm 1940, Freeman bắt đầu nghi ngờ về phẫu thuật thùy não trán. Việc mở hộp sọ là xâm phạm quá mức vào bên trong và làm trầm trọng thêm những tác động của một quy trình vốn đã gây suy nhược. Hơn nữa, các ca phẫu thuật thùy não tiêu chuẩn sẽ không bao giờ thực sự làm giảm vấn đề của các bệnh viện tâm thần. Thực tế, có hàng trăm nghìn bệnh nhân tâm thần ở Hoa Kỳ, và ông ấy chỉ có thể phẫu thuật một ca mỗi tuần. Ngay cả khi ông ấy dạy phẫu thuật cho người khác, họ vẫn cần phải có bác sĩ gây mê và bác sĩ giải phẫu thần kinh bên cạnh trong quá trình phẫu thuật. Rất ít các bệnh viện tâm thần có thể chi trả cho những chi phí này, vì vậy vào năm 1945, Freeman bắt đầu tìm kiếm một phương pháp phẫu thuật rẻ hơn và dễ dàng hơn. Ông ấy nhanh chóng nhận ra một góc độ tấn công mới, theo đúng nghĩa đen.
Thay vì khoan lỗ xuyên qua đỉnh hộp sọ, Freeman đã nghiên cứu rất kỹ những cách thức tiếp cận thùy trán qua hốc mắt. Xương hốc mắt phía sau mắt tương đối mỏng, ông nhận thấy một thanh mảnh, dài khoảng 20cm, có thể trượt qua mắt, xuyên qua hốc mắt và chạm tới vùng phía sau não. Sau đó, bằng cách ngoáy chiếc thanh xung quanh, ông có thể cắt đứt những kết nối giữa hệ viền và thùy trán từ bên dưới. Dựa trên điểm tiếp cận Freeman gọi quy trình này là phẫu thuật thùy não xuyên hốc mắt.
Những chiếc dùi được Walter Freeman sử dụng trong quá trình phẫu thuật thùy não xuyên hốc mắt. Chúng được mô phỏng theo một vật dụng phá băng mà ông ấy tìm thấy trong nhà bếp. (Nguồn từ Wellcome Trust.)
Tất cả những gì ông ấy cần là một công cụ phù hợp. Ông ấy có một số tử thi và bắt đầu thử nghiệm bằng cách dùng những chiếc kim chọc vào cột sống, nhưng chúng quá mềm nên không thể xuyên qua xương hốc mắt. Cuối cùng, ông ấy tìm thấy công cụ hoàn hảo trong nhà bếp khi tình cờ mở một ngăn kéo và phát hiện ra một vật dụng phá băng - dài, sắc và chắc chắn. Một vài thử nghiệm trên tử thi đã khẳng định linh cảm của ông ấy là đúng. Có được dụng cụ phù hợp, ông ấy bắt đầu tìm kiếm bệnh nhân.
Tuy nhiên, ông ấy bí mật làm điều này vì cộng sự của ông ấy, James Watts, không tán đồng quy trình mới này. Là một bác sĩ phẫu thuật, Watts đòi hỏi sự chính xác. Ông ấy muốn thấy tận mắt phần não bị cắt, thay vì phải mò mẫm thọc dùi vào. Thật khó cho Freeman khi ông ấy và Watts làm việc chung một văn phòng ở D.C., và việc phẫu thuật bí mật trở nên khó xử. Nhưng Freeman bắt đầu lén đưa các bệnh nhân lên tầng trên phía phòng của ông ấy và bí mật thực hiện các ca phẫu thuật thùy não xuyên hốc mắt.
Quy trình này diễn ra như sau. Để "gây mê", Freeman sử dụng một máy sốc điện có kích thước bằng hộp xì gà và gắn dây dẫn vào hộp sọ của bệnh nhân. Sau một vài cú sốc điện, bệnh nhân sẽ bất tỉnh. (Hầu như tất cả các bệnh viện tâm thần đều có máy sốc điện, vì vậy Freeman tự tin rằng họ có thể gây mê bệnh nhân theo cách này.) Khi bệnh nhân mất cảm giác, Freeman sẽ kẹp ngược một bên mí mắt của bệnh nhân lên, để lộ ra mô hồng ẩm bên dưới. Sau đó, ông luồn chiếc dùi qua hốc mắt. Đối với các ca phẫu thuật sau này, Freeman sử dụng một chiếc dùi đặt làm riêng mà ông ấy khoe khoang rằng "thực sự có thể tách một cánh cửa khỏi bản lề của nó mà không bị gãy hoặc uốn cong". Nhưng đối với một số ca phẫu thuật thùy não đầu tiên trong văn phòng, Freeman sử dụng chiếc dùi đáng tin cậy trong nhà bếp của mình. Ông ấy sẽ quỳ một bên gối xuống để tạo lực bẩy, sau đó nhẹ nhàng đưa đầu dùi vào ống lệ. Khi cảm nhận được sức cản của xương đằng sau nó, ông ấy lấy một chiếc búa và bắt đầu đục lỗ cho đến khi nghe thấy tiếng rắc. Khi đầu mũi dùi đi vào não, ông ấy sẽ xoay tay cầm sang hai bên ở các góc khác nhau để hoàn thành quá trình phẫu thuật thùy não. Sau đó, nó được chuyển sang hốc mắt còn lại. Ca phẫu thuật hiếm khi kéo dài quá 20 phút, và bệnh nhân thường về nhà trong vòng 1 giờ. Vài ngày sau, mắt bệnh nhân thâm quầng. Ngoài ra, nếu mọi thứ diễn ra suôn sẻ, bệnh nhân sẽ hầu như không cảm thấy khó chịu hoặc đau đớn.
Tất nhiên, mọi thứ không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Những cú sốc điện đôi khi gây ra những cơn co giật dữ dội, và sau một vài ca phẫu thuật bị gãy chân tay, Freeman phải thuyết phục thư ký của mình giúp giữ chặt bệnh nhân. Phẫu thuật thùy não tiềm tàng những mối nguy hiểm riêng, bao gồm cả nhiễm trùng. Freeman luôn gạt đi những gì mà ông ấy gọi là "tất cả những thứ vi trùng vớ vẩn đó", và thường phẫu thuật mà không đeo găng tay hoặc khẩu trang. Có một lần, một thanh thép dài khoảng 5cm đã bị gãy bên trong não của bệnh nhân, khiến người bệnh phải được đưa đi cấp cứu + ..
Với tất cả hỗn loạn đang diễn ra ở tầng trên, James Watts, cộng sự của Freeman, sớm hiểu chuyện đang xảy ra - mặc dù mỗi người đều có những cách diễn giải về tình huống này. Freeman tuyên bố rằng ông ấy là người trung thực và cởi mở, và đã mời Watts đến để chứng kiến ca phẫu thuật thùy não xuyên hốc mắt thứ 10. Watts khẳng định ông ấy vô tình bước vào phòng Freeman và bắt quả tang Freeman đang thực hiện ca phẫu thuật. Ông ấy cũng khẳng định Freeman không biết xấu hổ như mọi khi và chỉ nhún vai khi bị bắt quả tang. Sau đó, Freeman yêu cầu Watts cầm lấy chiếc dùi trong khi mình chụp một vài bức ảnh.
Bất chấp điều đó, Watts vô cùng phẫn nộ và yêu cầu Freeman ngừng thử nghiệm phẫu thuật não tại văn phòng của họ. Dù yêu cầu đó hợp lý đến mức nào, Freeman đã nổi giận và họ tranh cãi nảy lửa. Watts sẽ tiếp tục đấu tranh cho việc sử dụng giải phẫu tâm lý như một giải pháp cuối cùng đối với những trường hợp không còn hy vọng trong thập kỷ sau đó. Nhưng ông ấy từ chối xác nhận ca phẫu thuật thùy não cho Jiffy Lube của Freeman, và cả hai đã có những tranh cãi khiến Watts phải chuyển khỏi văn phòng.
Từng là người hòa nhã nhưng Freeman vẫn không thể làm việc cùng Watts. Trong thực tế, điều đó đã được chứng minh là một sự may mắn. Giờ đây, khi có thể tự do phẫu thuật công khai, ông ấy liền bắt tay vào kế hoạch tổng thể của mình: trở thành Johnny Appleseed của ngành phẫu thuật tâm lý, và phổ biến phẫu thuật thùy não trên khắp cả nước.
Freeman luôn yêu thích những chuyến đi dài vào mùa hè - nhảy lên một chiếc xe hơi và băng qua các con đường của nước Mỹ. Sau khi hoàn thiện phương pháp phẫu thuật thùy não xuyên hốc mắt, ông ấy quyết định kết hợp chuyến du ngoạn hằng năm với công việc. Cuộc hôn nhân của ông ấy gần như tan vỡ vào thời điểm đó, một phần do thói quen tham công tiếc việc. (Ông ấy thường xuyên về nhà sau khi trời tối, ngồi ăn tối buồn bã một mình trong nhà bếp, sau đó uống vài viên barbiturate để đi ngủ - chỉ để có thể thức dậy lúc 4 giờ sáng hôm sau và bắt đầu làm việc trở lại.) Gần như không gì có thể giữ ông ấy ở nhà nên vào mùa hè năm 1946, Freeman bắt đầu di chuyển từ bệnh viện tâm thần này sang bệnh viện tâm thần khác để đào tạo các bác sĩ về phẫu thuật thùy não. Giờ đây, không có bằng chứng nào chứng minh tin đồn rằng Freeman đã gọi chiếc xe mà ông ấy sử dụng trong những chuyến đi này là lobotomobile (xe phẫu thuật) - nhưng có lẽ ông ấy không phải là người nghĩ ra cái tên đó + .. Ông ấy thích những trò đùa nghịch ngợm, và gọi những chuyến đi này trong những lá thư của mình là "những chuyến thám hiểm săn đầu người".
Bình thường, ông ấy thức dậy lúc bình minh tại một khu cắm trại nào đó và lái xe 3 hoặc 4 giờ đồng hồ đến một bệnh viện tâm thần ở vùng nông thôn. Sau khi đi một vòng quanh khu vực này, Freeman có thể thực hiện một bài thuyết giảng + ., sau đó ăn trưa. Tiếp đó là thời gian cho buổi trình diễn - và đó thực sự là một buổi trình diễn.
Các bệnh viện sẽ bố trí khoảng 6 bệnh nhân hoặc hơn, và Freeman sẽ đi tới từng giường và lần lượt thực hiện từng ca phẫu thuật. Nhớ lại những ngày từng dùng cả hai tay viết trên bảng đen, ông ấy đã nghĩ ra một phương thức để phẫu thuật thùy não thuận cả hai tay, trong đó mỗi tay sẽ cầm một chiếc dùi. Freeman tuyên bố rằng những ca phẫu thuật như vậy giúp tiết kiệm thời gian, và có lẽ đúng là như vậy, nhưng đồng thời ông ấy cũng đang khoe khoang trước các đám đông bác sĩ và phóng viên đang đứng xung quanh theo dõi mình. Ông ấy thậm chí còn ngước lên giữa chừng, cười toe toét như Groucho, và ve vẩy chiếc dùi như cặp lông mày tinh nghịch. Một nhân chứng kể lại: "Tôi tưởng mình đang xem một màn xiếc vậy... Ông ấy quá vui mừng, quá phấn khởi, và quá thành thục". Ông ấy cũng thích làm cho mọi người bất tỉnh. Một bác sĩ già - người từng là bác sĩ trong Thế chiến thứ nhất làm việc tại một số chiến trường khốc liệt nhất trong lịch sử - đã chết ngất khi Freeman xiên chiếc dùi xuyên qua hốc mắt bệnh nhân. Freeman cũng từng giảng dạy tại các trường trung học, và thường chiếu một đoạn phim về một ca phẫu thuật thùy não khiến một nửa số sinh viên cảm thấy choáng váng. Sau đó, ông ấy nói đùa rằng, bản thân khiến nhiều thanh thiếu niên ngất ngây hơn Frank Sinatra.
Trong khi đám đông quan sát, bác sĩ Walter Freeman thực hiện phẫu thuật thùy não "bằng chiếc dùi" xuyên qua hốc mắt của bệnh nhân vào năm 1949. Hãy chú ý đến cánh tay, đầu và khuôn mặt không được sử dụng đồ bảo hộ của ông ấy. (Nguồn từ MOHAI, Seattle Post-Intelligencer Collection, 1986.5.25616.)
Giống như mọi khi, đã có những rủi ro xảy ra. Nhiễm trùng ngày càng nhiều, và ông ấy thường xuyên cắt vào các mạch máu và phải cầm máu lại. Ông ấy cũng thích chụp ảnh những bệnh nhân đang trong quá trình phẫu thuật để làm tư liệu, trong đó chiếc dùi phải ở đúng vị trí của nó. Nhưng trong một ca phẫu thuật ở Iowa, ngay khi Freeman buông chiếc dùi ra, trọng lực đã khiến nó đâm sâu xuống trung não của bệnh nhân này. Người đàn ông này chết ngay tức khắc.
Dù tình trạng tử vong thi thoảng vẫn xảy ra nhưng các giám đốc bệnh viện tâm thần vẫn mở cửa chào đón Freeman. Nhiều người thực sự muốn giúp đỡ những bệnh nhân, nhưng thật khó để không hoài nghi về động cơ của một số người khi họ cũng thẳng thắn chia sẻ về về số tiền mà họ tiết kiệm được mỗi khi bệnh nhân được về nhà. Một người tính toán rằng, nếu phẫu thuật thùy não phổ biến trên toàn quốc thì các bệnh viện tâm thần có thể giảm đi 10% số bệnh nhân và tiết kiệm cho những người đóng thuế ở Hoa Kỳ 1 triệu đô la mỗi ngày.
Các chuyến đi phẫu thuật giúp Freeman được nhiều người biết đến hơn - nhờ sự đưa tin của báo chí đi cùng với họ. Một phóng viên đã gọi phẫu thuật thùy não là "phẫu thuật tâm hồn". Vì vậy, những lá thư từ các bệnh nhân bắt đầu đổ về văn phòng của ông ấy ở Washington. Hầu hết đến từ những người khốn khổ và bất hạnh, họ coi phẫu thuật thùy não là giải pháp cuối cùng để có được một cuộc sống bình thường. Những yêu cầu kỳ lạ hơn cũng xuất hiện. Một người đàn ông hỏi rằng liệu phẫu thuật thùy não có thể chữa khỏi bệnh hen suyễn hay không. Một người khác đề nghị Freeman phẫu thuật thùy não cho con chó săn của mình để giúp nó bớt hoảng sợ hơn khi ra đường.
Trong suốt thời gian quảng bá rầm rộ này, Freeman không ngừng làm việc. Ông ấy từng phẫu thuật hơn 20 trường hợp chỉ trong một ngày; và bàn tay thường bị đau khi về đêm. Sau đó, ông ấy sẽ tạm biệt bệnh viện tâm thần đó, ăn tối ở đâu đó trên đường, và uống vài viên thuốc an thần ở điểm đến tiếp theo để ngủ ngon. Việc gãy xương cẳng tay vào một mùa hè nọ gần như không làm giảm đi tốc độ của ông ấy. Thậm chí sau khi bị đột quỵ nhẹ vào năm 1950, ông ấy đã nỗ lực gấp đôi vào năm 1951 và đi được 17.600km vào mùa hè năm đó - đó là thời điểm trước khi hoàn thành hệ thống xa lộ liên tiểu bang và những khu vực mở rộng bằng phẳng xung quanh. Ông ấy đã phẫu thuật cho tổng cộng 3.500 người trong nhiều năm, và khoe rằng bản thân đã "để lại một chuỗi những cặp mắt thâm quầng trên suốt quãng đường từ Washington [D.C.] đến Seattle".
Tuy nhiên, các "cuộc thám hiểm săn đầu người" giúp Freeman trở nên nổi tiếng nhưng chưa bao giờ giúp ông trở nên giàu có. Ông ấy tự bỏ tiền túi để chi trả cho việc đi lại, tính phí chỉ 20 đô la trên mỗi bệnh nhân (tương đương 220 đô la hiện nay) ở hầu hết các bệnh viện tâm thần và thường làm việc miễn phí. Ngoài ra, ông ấy còn quyết tâm tìm đến những vùng nông thôn nghèo khó để giúp đỡ những người thực sự bị bỏ rơi, trong đó có các cộng đồng người da đen ở miền Nam, những người nghèo nhất trong số những người nghèo khổ. Từ lâu, ông ấy đã đấu tranh - thậm chí còn lao vào ẩu đả - cho quyền của các bác sĩ là người da đen được tham gia các nhóm y tế chuyên nghiệp. Trong một sự trùng hợp đáng sợ, ông ấy cũng cố gắng thuyết phục một số bác sĩ có tư tưởng tiến bộ ở Tuskegee, Alabama cho phép ông ấy thực hiện một loạt các ca phẫu thuật thùy não tại một bệnh viện dành cho cựu chiến binh ở đó, vì không có bác sĩ thần kinh là người da đen nào sống gần đó và không có bác sĩ thần kinh là người da trắng nào trông nom bệnh nhân. Nghiên cứu về bệnh giang mai tại Tuskegee đang được tiến hành vào thời điểm đó, và nếu Freeman đạt được mong muốn của mình, hai trong số những phương pháp điều trị y học bị chỉ trích nhiều nhất của thế kỷ XX sẽ gặp gỡ nhau ở thị trấn đen đủi này. Ông ấy cảm thấy thất vọng khi một nhóm cựu binh quốc gia đã cấm những ca phẫu thuật thùy não và phá hỏng kế hoạch của ông ấy.
Mặc dù hảo tâm với người nghèo nhưng Freeman lại tận thu từ những người có khả năng chi trả cho phẫu thuật. Ông ấy từng lấy phí 2.500 đô la (tương đương 27.000 đô la hiện nay) cho một ca phẫu thuật thùy não ở Chicago. Trong một sự cố khác, ông ấy cắt vào một mạch máu khi đang phẫu thuật trước trước khán giả ở Berkeley và thấy bệnh nhân bắt đầu chảy máu. "Chúng ta gặp rắc rối rồi!" ông ấy hô lên, và thực tế đúng là vậy. Áp lực sọ não bắt đầu tăng lên một cách nguy hiểm và việc kiểm tra nhanh hệ thống thần kinh (dùng một chiếc chìa khóa cạo dọc gan bàn chân của bệnh nhân để kiểm tra phản xạ cong lại của ngón chân) cho thấy cô ấy đột ngột bị liệt nửa người bên phải. Nhưng thay vì tập trung vào bệnh nhân, Freeman đứng dậy và rời khỏi phòng phẫu thuật để tìm chồng cô ấy trong phòng chờ. Ông ấy yêu cầu 1.000 đô la để khắc phục sự cố mà ông ấy vừa gây ra. Khi có thêm 1.000 đô la, Freeman quay trở lại phòng phẫu thuật, lôi từ trong túi ra một thứ trông giống như cái bơm xe đạp và bắt đầu bom dung dịch muối vào lỗ trên hốc mắt. Một lúc sau, một khối màu đỏ thẫm đông kết bắt đầu rỉ ra. Freeman bom vào và xả ra nhiều lần, và trò chuyện trong suốt thời gian đó một cách vui vẻ như trước trong khi khán giả há hốc miệng vì kinh ngạc. Cuối cùng, chất cặn màu đỏ thẫm chảy ra mỏng dần, sau đó chuyển sang màu hồng, rồi trong suốt. Freeman đã tiêm một lượng vitamin K để kích thích quá trình kết rắn. Đến lần chạm cuối cùng, chiếc chìa khóa được miết vào gan bàn chân của bệnh nhân thêm vài lần nữa cho đến khi - thật tuyệt vời - ngón chân của cô ấy động đậy. Nhìn chung, không còn tình trạng nguy kịch.
Đáng ngại hệt như những sự cố này, sự vi phạm thực sự về mặt khoa học của Freeman trong giai đoạn này liên quan đến sự thay đổi thái độ. Các bác sĩ giải phẫu thần kinh như James Watts đã hạn chế phẫu thuật thùy não đối với các bệnh đáng lo ngại nhất và chỉ coi đó là biện pháp cuối cùng + .. Ban đầu, Freeman cũng có quan điểm như vậy. Nhưng sau nhiều năm với sự nổi tiếng ngày càng tăng, ông ấy bắt đầu quảng bá phương pháp phẫu thuật này như một biện pháp phòng bệnh. Tức là, ông ấy bắt đầu thúc đẩy việc phẫu thuật sớm ở những bệnh nhân tâm thần chỉ mới tiếp nhận điều trị trong vài tháng. Thậm chí vào thời điểm đó, các bác sĩ biết rằng những người như vậy thường tự khỏi sau một hoặc hai năm; và tiên lượng không quá nặng. Nhưng Freeman gạt những con số ấy sang một bên và cho rằng phẫu thuật tâm lý an toàn hơn là chờ đợi. Tại sao không giải quyết vấn đề ngay từ trong trứng nước và đưa mọi người về nhà càng sớm càng tốt? Ông ấy thậm chí còn bắt đầu phẫu thuật cho trẻ em, có bé mới 4 tuổi. Phẫu thuật được coi là giải pháp cuối cùng giờ đây đã trở thành tuyến phòng vệ đầu tiên.
Nhờ sự đào tạo không mệt mỏi của Freeman đối với các bác sĩ, số lượng ca phẫu thuật thùy não được thực hiện hằng năm ở Hoa Kỳ đã tăng gấp 10 lần từ năm 1946 đến năm 1949, từ 500 lên 5.000. Sau đó, một thông báo bất ngờ vào mùa thu năm 1949 đã đẩy quy trình này thậm chí lên một tầm cao hơn.
Trở lại thời điểm năm 1939, một bệnh nhân tâm thần đã xông vào văn phòng của Egas Moniz ở Bồ Đào Nha và bắn ông ấy năm phát. Moniz vẫn sống sót, nhưng vì bệnh gút và tuổi cao nên ông ấy gần như rút khỏi công việc nghiên cứu và đồng ý để Freeman và những người khác phổ biến về phương pháp phẫu thuật tâm lý. Tuy nhiên, Moniz vẫn không ngừng cố gắng để đạt lấy danh vọng cho bản thân, và vào cuối những năm 1940, một lần nữa ông ấy lại bắt đầu đề nghị các đồng nghiệp (bao gồm cả Freeman) đề cử mình cho giải Nobel. Ông ấy đã nhận được 9 đề cử chỉ trong năm 1949, và vào mùa thu năm đó, cuối cùng ông ấy đã giành chiến thắng. Qua đó, ông ấy trở nên nổi bật hơn có lẽ là so với bất kỳ thế hệ Moniz nào trước đó trong lịch sử.
Tuy nhiên, khi nhìn lại, giải Nobel một phần nào đó giống như sự đồng thuận cuối cùng dành cho phẫu thuật tâm lý. Những lời chỉ trích không quá nhiều đến mức trở nên căng thẳng. Foes vẫn tiếp tục chỉ trích các "cuộc thám hiểm săn đầu người" của Freeman, nhưng không có lựa chọn điều trị nào tốt hơn để thay thế, vì vậy những chỉ trích này không bao giờ có được sức ảnh hưởng. Mặc dù chưa hoàn thiện nhưng Freeman đang cố gắng giải quyết một vấn đề thực sự, và mọi người sẽ luôn chọn một giải pháp dù là tồi tệ vẫn hơn là không có giải pháp nào. Tuy nhiên không phải vậy, những gì thực sự khiến phẫu thuật tâm lý không tiếp tục được sử dụng hoàn toàn không phải là đạo đức mà là C17H19ClN2S, một hợp chất có tên là chlorpromazine.
Các bác sĩ ở Pháp lần đầu tiên sử dụng chlorpromazine để điều trị tình trạng sốc, và đến năm 1950, họ đã kê nó cho các bệnh nhân trong bệnh viện tâm thần và đạt được những kết quả kỳ diệu. Những người bị nhốt trong xà lim hàng chục năm, lẩm bẩm những câu vô nghĩa, đột nhiên có thể ngồi dậy và trò chuyện. Khi cố gắng tìm ra một từ nào đó tương tự, một số bác sĩ đã gọi chlorpromazine là "phẫu thuật thùy não hóa học", nhưng trên thực tế, loại thuốc này vượt trội hơn nhiều. Nó là loại thuốc chống loạn thần thực sự đầu tiên: một hợp chất không chỉ giúp con người bớt đau đớn (như thuốc an thần) mà thực sự còn làm giảm các triệu chứng của họ. Nói tóm lại, nó biến mọi người từ những tù nhân trở lại thành những bệnh nhân thực sự, và gần như không có loại thuốc nào trong lịch sử có tác động xã hội lớn đến vậy. 50 triệu người đã dùng chlorpromazine trong 10 năm đầu tiên khi nó có mặt trên thị trường, và các thuốc chống loạn thần khác như lithium cũng nhanh chóng xuất hiện theo sau. Walter Freeman từng mơ về những bệnh viện tâm thần vắng bóng người trên toàn thế giới nhờ vào phương pháp phẫu thuật thùy não xuyên hốc mắt; và chlorpromazine thực sự đã làm được điều đó. Chẳng bao lâu sau, một trong những đặc trưng khét tiếng nhất của xã hội phương Tây - các nhà thương điên gây ám ảnh mọi thành phố - đều biến mất.
Ban đầu, Freeman ca ngợi về chlorpromazine và thậm chí còn kê đơn cho bệnh nhân. Tuy nhiên, thật đáng xấu hổ, ngay khi loại thuốc này bắt đầu cạnh tranh với phẫu thuật thùy não, ông ấy liền phản đối và chỉ trích nó. Chắc chắn là, chlorpromazine không hoàn hảo. Như Freeman đã chỉ ra nhiều lần, loại thuốc này không giải quyết được gốc rễ của bệnh tâm thần (tức là chức năng của não) mà chỉ làm giảm các triệu chứng. Thật vậy, nhiều người vẫn nghe thấy giọng nói hoặc bị ảo giác trong khi dùng thuốc; những giọng nói chỉ là không làm phiền họ nữa. Hơn nữa, thuốc có những tác dụng phụ đáng kể như: tăng cân, vàng da, mờ mắt, da tím tái và rối loạn rung lắc giống như bệnh Parkinson.
Điều đáng buồn hơn cả là chlorpromazine không chuẩn bị cho mọi người một cuộc sống sau khi thoát khỏi tình trạng mất trí. Khi tỉnh táo trở lại, bệnh nhân thường không biết đó là năm nào. Điều cuối cùng mà một người đàn ông nhớ được là xông vào chiến hào của kẻ thù trong Thế chiến thứ nhất, một sự kiện đã diễn ra hàng thập kỷ trước đó; sau đó chớp mắt sực tỉnh, ông đã trở nên già nua. Và khi rời khỏi các bệnh viện tâm thần để đến thế giới thực, mọi người thấy rằng vợ/chồng của họ đã tái hôn, những kỹ năng của họ đã lỗi thời, và xã hội đã tiến bộ rất nhiều. Thậm chí ngày nay, chúng ta vẫn đang phải khắc phục những hạn chế của những loại thuốc này. Một phần vì những loại thuốc như vậy mà nơi ở của người tâm thần đã không còn phù hợp, và nhiều người từng ở trong các bệnh viện tâm thần, dù tốt hơn hay tồi tệ hơn, giờ đây bị nhốt trong các nhà tù hoặc phải tự xoay xở ngoài đường phố.
Tuy nhiên, sau khi cân nhắc tổng thể, thuốc chống loạn thần có tác dụng nhiều hơn là gây hại, cứu được hàng triệu người mà nếu không có thuốc có thể đã mất mạng. Ngoài tác động xã hội, những loại thuốc này còn thay đổi hiểu biết của chúng ta về cách thức hoạt động của não bộ. Trở lại thời điểm Moniz và các nhà khoa học khác coi bộ não như một bảng điện tổng, việc cắt đứt các "dây" bị lỗi bằng cách phẫu thuật thùy não dường như là hợp lý. Sự ra đời của thuốc chống loạn thần đã làm thay đổi suy nghĩ của chúng ta. Chlorpromazine