9. GIÁN ĐIỆP VỞ KỊCH TẠP KỸ
Bộ đôi này trông giống như nhân vật trong một chương trình tạp kỹ - những kẻ phản diện trong truyện tranh. Một người gầy gò, có vẻ đứng đắn, đeo kính cận và hói đầu. Ông ấy đang lái một chiếc Buick màu xanh biếc luôn phát ra tiếng kêu cạch cạch khi lăn bánh. Khi ông ấy tới điểm hẹn ở Santa Fe, đối tác của ông ấy - thấp bé, tròn trịa và mập mạp - bước ra từ bóng tối gần một nhà thờ và nhảy vào ghế khách. Chiếc xe phóng đi ngay lập tức, lượn đến rìa thị trấn, rồi leo qua những ngọn núi.
Đó là một đêm tháng 9 năm 1945. Sau khi tấp vào rìa đường, hai người ngồi bên trong xe và trò chuyện như những người bạn cũ, cùng ngắm nhìn ánh đèn của thành phố bên dưới. Cuối cùng sa mạc cũng bớt nóng, và họ quay trở lại Santa Fe. Ngay trước khi chia tay, người đàn ông có vẻ đầy đạo đức kia đưa cho người đồng hành một gói giấy tờ. Họ bắt tay nồng nhiệt và mặc dù có hứa hẹn sẽ đến thăm, nhưng họ biết có thể họ sẽ không bao giờ gặp lại nhau.
Sau khi chiếc xe nổ máy, vẫn với những tiếng kêu lạch cạch, người đàn ông to béo lếch thếch đi ra bến xe. Ông ấy có dáng đi vụng về và xoay đầu ngó nghiêng mỗi khi bước đi, quét qua những khuôn mặt xung quanh mình. Bên trong nhà ga, ông ấy ngồi trên một chiếc ghế dài và thử đọc một cuốn sách, Great Expectations (tạm dịch: Những kỳ vọng lớn lao). Nhưng gói giấy tờ kia không bao giờ rời khỏi tay ông ấy và liên tục khiến dòng suy nghĩ của ông ấy bị gián đoạn. Ông ấy cũng liên tục nhìn vào đám đông xung quanh mình, lo lắng bản thân sẽ bị theo dõi. Ông ấy có lý do chính đáng khi là một người dễ nổi nóng. Ông ấy là một điệp viên của Liên Xô, và gói giấy tờ chứa bản thiết kế của một quả bom nguyên tử.
Sau khi đi xe buýt đến Albuquerque, ông ấy đi máy bay đến thành phố Kansas và đến ga xe lửa. Ở đó, ông ấy thấy một bà già và người cháu trai đang loay hoay vác hành lý lên con tàu ông ấy đang đi. Mọi người khác đang lướt qua họ, vì vậy ông ấy dừng lại để xếp túi cho họ và giúp họ ổn định chỗ ngồi. Thật không may, hành động tốt này khiến ông ấy mất cơ hội có được một chỗ ngồi cho mình, và phải ngồi trên chiếc vali suốt chuyến đi đến Chicago.
Cuối cùng, sau nhiều lần trì hoãn và sau nhiều giờ đồng hồ, ông ấy đến được New York - nhưng đã quá muộn để gặp người liên lạc phía Liên Xô. Ông ấy bàng hoàng: buổi gặp dự phòng của họ sẽ không diễn ra trong hai tuần nữa, có nghĩa là thêm hai tuần mang gói tài liệu đi khắp nơi, thêm hai tuần hoang mang. Nhưng ông ấy là một người rất có kỷ luật. Trong 14 ngày, ông ấy không bao giờ để tập giấy tờ rời khỏi tầm mắt của mình, thậm chí còn mang chúng cả khi đi mua hàng tạp hóa. Thật vậy, chỉ có một nơi duy nhất mà ông ấy cảm thấy an toàn trong suốt 2 tuần đó - phòng thí nghiệm hóa học của ông ấy.
Ngay sau khi ông ấy bắt đầu các thí nghiệm, cảm giác căng thẳng liên quan đến hành vi gián điệp giảm bớt một chút. Ông ấy có thể dành hết tâm trí tập trung vào những chiếc bình đun hóa chất và ống nghiệm, hoàn toàn để bản thân hạ thấp cảnh giác. Cuối cùng, hai tuần sau, khi đã hoàn tất công việc chuyển giao bản thiết kế bom nguyên tử, ông ấy lại vùi đầu vào công việc trong phòng thí nghiệm để đẩy vấn đề ra khỏi tâm trí. Một số người uống rượu bia để quên đi những phiền muộn; Harry Gold thì thực hiện những thí nghiệm hóa học.
Ngày nay, Harry Gold được biết đến nhiều nhất với tư cách là một điệp viên và một tên tội phạm. Ông ấy nhận hàng tá tài liệu bí mật từ một nhà vật lý bất hảo trong Dự án Manhattan - Klaus Fuchs gầy gò, nghiêm trang - và giao chúng cho các đặc vụ Liên Xô. Sau đó, khi FBI bắt được Gold, lời khai của ông ấy đã đưa Julius và Ethel Rosenberg vào chiếc ghế điện. Nhưng nếu có ai hỏi Gold rằng ông ấy tự coi mình là gì thì câu trả lời sẽ rất đơn giản: Ông ấy là một nhà hóa học.
Lòng tận tụy với khoa học và một loạt những bất hạnh đã đẩy Gold vào nghề gián điệp. Ông ấy lớn lên trong một khu phố nghèo ở Nam Philadelphia, nơi gia đình ông ấy bị kỳ thị vì là người Do Thái. Các băng nhóm du côn ném gạch vào cửa sổ những gia đình Do Thái, và đánh đập chàng trai Gold nhỏ bé, ham đọc sách trên con đường từ thư viện trở về nhà.
Cha của ông ấy, Samson, một thợ mộc tại một xưởng máy hát đĩa, thậm chí phải đối diện với những tình huống tồi tệ hơn. Những người thợ khác sẽ cướp những chiếc đục của Samson và dùng keo dán các dụng cụ của ông ấy lên cao. Người chủ luôn thể hiện sự ghê tởm với ông ấy, và có lần gầm gừ, "Đồ khốn kiếp, tôi sẽ bắt anh nghỉ việc". Sau đó, hắn yêu cầu mọi người, trừ Samson, rời khỏi dây chuyền lắp ráp và buộc ông ấy phải tự mình chà nhám tất cả số tủ gỗ. Samson phải làm việc với tốc độ điên cuồng tới kiệt sức, và Gold nhớ cha của mình thường trở về nhà với những đầu ngón tay rớm máu. Nhưng chàng trai Gold rất khâm phục cha vì ông ấy không bao giờ phàn nàn và không bỏ cuộc.
Tuy nhiên, Samson bị sa thải vào năm 1931, khiến Gold rơi vào tình thế khó khăn. Trong những năm niên thiếu, Gold làm việc trong một phòng thí nghiệm khoa học tại Công ty Đường Pennsylvania ở địa phương; ông ấy đã bắt đầu bằng công việc rửa ống nhổ và đồ thủy tinh trước khi trở thành trợ lý phòng thí nghiệm chỉ sau 6 tháng. Ông ấy yêu thích công việc và bắt đầu tham gia các lớp học để lấy bằng hóa học. Nhưng khi cha ông ấy mất việc, Gold phải nghỉ học và nhận một vị trí toàn thời gian tại Penn Sugar để giúp họ trang trải qua ngày. Thật không may, cuộc Đại suy thoái tiếp tục trở nên tồi tệ hơn, và khi công ty cho Gold nghỉ việc vào tháng 12 năm 1932, gia đình phải đối mặt với khả năng mất nhà thực sự.
Sau nhiều tháng tuyệt vọng, người bạn Tom Black tìm được cho ông ấy công việc tại một nhà máy sản xuất xà phòng ở New Jersey với mức lương 30 đô la/tuần. Gold vô cùng biết ơn. Nhưng đã có một cái bẫy đợi sẵn ở đó. Black là một người cộng sản nhiệt thành, và ông ấy khăng khăng đưa Gold đi cùng đến các cuộc họp.
Nhà hóa học và điệp viên nguyên tử Harry Gold. (Được sự cho phép của Cục Quản lý Lưu trữ và Hồ sơ Quốc gia Hoa Kỳ.)
Mặc dù Gold có khuynh hướng chính trị cánh tả, tuy nhiên những người cộng sản mà ông gặp vẫn dè chừng ông. Họ tổ chức những cuộc họp kéo dài đến 4 giờ sáng, trong những căn phòng được trang trí bằng hình vẽ những chú chó béo hút xì gà và ngồi trên đống tiền xu. Nhưng Gold không thích những người trong cuộc họp đó. Vài tháng sau, khi Penn Sugar thuê lại Gold, ông ấy bỏ lại Jersey và từ chối tham gia thêm bất kỳ cuộc họp nào nữa.
Tuy nhiên, Black vẫn tiếp tục săn đuổi Gold, cố gắng thuyết phục ông ấy gia nhập Đảng Cộng sản. Cuối cùng, để khiến Black ngưng lải nhải, Gold đã chấp nhận một thỏa hiệp. Black giải thích, Liên Xô cần xây dựng cơ sở công nghiệp và cải thiện mức sống của người dân. Cách tốt nhất để làm điều đó là thông qua khoa học, nhưng các công ty Hoa Kỳ lại tỏ ra keo kiệt trong việc cấp phép công nghệ ở nước ngoài. Để bù đắp cho vấn đề này, Gold có thể đánh cắp một số bí mật thương mại hay không?
Gold ngập ngừng. Penn Sugar đối xử tốt với ông ấy - không nhiều công ty chịu để một người rửa ống nhổ trở thành trợ lý hóa học. Công ty này cũng có các công ty con trong một số ngành công nghiệp hóa chất khác nhau, có nghĩa là ông ấy có thể làm việc trong hầu hết các lĩnh vực mà mình yêu thích. Tuy nhiên, lời thỉnh cầu của Black đã khiến ông ấy cảm động. Gold khao khát được trở thành vị cứu tinh của những người Liên Xô đang co ro, đói khát - những người như chính gia đình của ông. Những lời của Black cũng phù hợp với chủ nghĩa lý tưởng khoa học của ông ấy. Bằng cách giải phóng các bí mật thương mại, Gold tự nhủ, ông ấy sẽ đơn giản là "xung quỹ" dữ liệu và ý tưởng - một việc làm quan trọng đối với tiến bộ khoa học. Các điệp viên Liên Xô cũng vẽ ra bức tranh khoa học như một tình anh em quốc tế, vượt lên trên những thứ vụn vặt như biên giới quốc gia và xung đột chính trị. Các nhà khoa học có nhiệm vụ biến thế giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn, và nếu các công ty Hoa Kỳ quá tham lam trong việc cấp phép công nghệ một cách hợp pháp, thì Gold có nhiệm vụ đánh cắp chúng + ..
Động lực thứ hai thôi thúc Gold trở thành gián điệp mang tính cá nhân hơn: chống lại chủ nghĩa bài Do Thái. Vào thời điểm đó, Liên Xô là quốc gia duy nhất đứng lên chống lại Đức Quốc xã - quốc gia bài xích người Do Thái một cách tàn bạo. Từ cuộc đối đầu này, Gold hình thành ý tưởng rằng Liên Xô là quốc gia duy nhất trên Trái đất nơi người Do Thái thực sự bình đẳng - không chỉ là kẻ thù của Đức Quốc xã, mà còn là bạn của người Do Thái ở khắp mọi nơi. Điều này không hoàn toàn chắc chắn nhưng Gold muốn tin tưởng vào một điều khác biệt. Ông ấy vẫn nhớ như in những đầu ngón tay rớm máu của cha mình và những viên gạch ném vào cửa sổ, và luôn nung nấu để làm một điều gì đó "trên quy mô rộng hơn và hiệu quả hơn nhiều... việc tát vào mặt một kẻ bài xích người Do Thái", ủng hộ cuộc thử nghiệm vĩ đại của Liên Xô là cơ hội để ông đáp trả.
Vì vậy, Gold trở thành gián điệp. Có chút châm biếm, người Liên Xô đặt mật danh cho ông ấy là "Goose" (Ngỗng cái) vì vóc dáng to béo và bước đi lạch bạch, vụng về của ông ấy. Nhưng họ nhanh chóng học được cách tôn trọng kỹ năng của ông. Ông ấy bắt đầu chậm rãi, lật nhanh đống tài liệu tại nơi làm việc và giấu tài liệu ở nhiều vị trí khác nhau. Nhiều tháng trôi qua, ông ấy ngày càng dạn dĩ hơn, thu thập giấy tờ với tần suất ngày càng nhiều. Sau đó, ông ấy dành hàng giờ sau giờ làm việc, thậm chí cả đêm để sao chép từng dòng tài liệu. Từ các công ty con khác nhau của Penn Sugar, ông ấy nghiên cứu về sơn mài, vecni, về dung môi, chất tẩy rửa và cồn. Lúc đầu, ông ấy không có ý định thu thập nhiều thông tin như vậy, nhưng ông ấy luôn tận tụy trong công việc của bản thân, dù điều đó có bất hợp pháp hay không. Nếu cảm thấy muốn bỏ cuộc, ông ấy lại nghĩ đến những người dân Liên Xô nghèo khổ và tự xốc lại tinh thần để ăn cắp được nhiều thông tin hơn. Nhìn chung, ông ấy nhớ lại, "Tôi đã đánh cắp những thông tin một cách khá hoàn hảo".
Lúc đâu, Gold chỉ giao các bản sao lậu cho Tom Black. Cuối cùng, ông ấy bắt đầu tự đến New York để giao chúng, một nhiệm vụ mà ông ấy cảm thấy li kỳ vì được gặp trực tiếp các điệp viên Liên Xô bằng xương bằng thịt. Trên thực tế, sự phấn khích của ông ấy tăng cao đến mức khiến những khía cạnh khác trong cuộc sống của ông ấy cũng tốt hơn. Ngoài thời gian làm việc toàn thời gian, ông ấy còn tham gia các lớp học buổi tối tại Đại học Drexel trong thời gian này, cố gắng lấy được tấm bằng hóa học ở đó. Điểm số của ông ấy cao một cách ấn tượng sau khi bắt đầu làm gián điệp, những điểm B và C đã trở thành những điểm A nổi bật. Tuy nhiên, sau một thời gian, những chuyến đi đến New York khiến ông ấy dần kiệt sức.
Điểm hẹn thường là một chuyến tàu tốc hành đêm, chưa kể hàng giờ lang thang khắp thành phố để cắt đi những cái đuôi nghi ngờ. (Chẳng hạn, ông ấy có thể ngồi xem hết nửa bộ phim trước khi lách ra lối thoát bên hông, hoặc bắt tàu điện ngầm và lao ra khỏi tàu ngay trước khi cửa đóng lại.) Sau đó, ông ấy sẽ đợi ở một nơi vắng vẻ nào đó để gặp người liên lạc của mình, thường dưới trời tuyết hoặc giữa cơn mưa. Các chuyến đi rất tốn kém - ông ấy đã tiêu khoảng hơn 6.000 đô la (110.000 đô la ngày nay) - và khiến sức khỏe của mình bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hầu như không ngủ trong một vài tuần và cân nặng của ông ấy tăng vọt lên 84kg.
Tệ nhất là ông ấy vỡ mộng về thái độ của người Liên Xô với khoa học. Các nhà hóa học nghiên cứu như Gold luôn tìm kiếm những đổi mới trong quy trình hóa học, thủ thuật và điều chỉnh có thể tăng hiệu quả và tỷ lệ sản xuất. Việc tìm ra những đột phá này không hề dễ dàng - những trục trặc và ngõ cụt là không thể tránh khỏi - nhưng hầu hết các nhà khoa học đều chấp nhận đây là cái giá phải trả cho sự tiến bộ. Ngược lại, Liên Xô không có đủ kiên nhẫn để nghiên cứu thăm dò hoặc suy đoán; họ khao khát công nghiệp hóa, và luôn ưu tiên các quy trình ổn định, đáng tin cậy dù cũ kỹ và kém hiệu quả. "Khi nỗ lực để gửi tài liệu thể hiện một hoạt động nghiên cứu chưa được sản xuất ở quy mô hoàn chỉnh", Gold nhớ lại, "tôi bị chỉ trích hoặc trừng phạt rất thô bạo". Sự coi thường tiến bộ khoa học này khiến ông ấy thất vọng, nhưng về bản chất ông ấy vẫn phục tùng, và cấp trên đã đe dọa để buộc ông phải làm theo ý họ.
Chán nản và ngày càng mệt mỏi, Gold ngày càng chán ghét những chuyến đi đến New York. Ông ấy nhớ lại: "Đó là một công việc buồn tẻ, đơn điệu", và việc phải lừa dối gia đình khiến lương tâm ông ấy day dứt: "Mỗi lần đi thực hiện một nhiệm vụ... có lẽ tôi đã nói dối ít nhất 5 hoặc 6 người". (Cảm nhận được những lời nói dối này, mẹ của Gold đã nghĩ con trai mình là một kẻ phóng đãng, theo đuổi những cô gái tại Bờ Đông. Sự thật thì ngược lại: quay cuồng giữa công việc, trường học và gián điệp, ông ấy không có thời gian để hẹn hò với ai, việc mà sau này ông vô cùng hối hận.) Để duy trì sự tỉnh táo, Gold học cách không nghĩ đến khoa học trong các chuyến đi về phía bắc, sau đó khi trở lại Philadelphia, ông lại dành trọn tâm trí cho cuộc sống của một nhà hóa học. Nhưng mỗi năm lại bận rộn hơn một chút, và Gold gần như suy sụp.
Tuy nhiên, dù có cảm thấy mệt mỏi thế nào, Gold vẫn luôn dành thời gian cho công việc trong phòng thí nghiệm, ngay cả khi điều đó có nghĩa là làm việc 20 giờ một ngày. Một dự án nghiên cứu yêu thích liên quan đến sự khuếch tán nhiệt, một cách sử dụng sự chênh lệch nhiệt độ để tách hỗn hợp; đặc biệt, ông ấy muốn tách carbon dioxide từ khí thải để làm đá khô. Ông ấy tự nhận mình là một nhà hóa học có phương pháp trong phòng thí nghiệm - không phải là một "thiên tài chớp nhoáng", mà là một biên tập viên, người chỉnh sửa mọi sai sót trong một cuốn sách bằng quá trình lọc bỏ tẻ nhạt để cho ra đời một cuốn sách hay nhất có thể". Một buổi chiều nọ, ông ấy đánh rơi cái giá với 22 chiếc ống nghiệm và chứng kiến công sức lao động của cả tuần lễ nằm tung tóe dưới sàn nhà. "Tôi không ngồi xuống và khóc; tôi cũng không đi chơi hay say xỉn", ông ấy nhớ lại. Thay vào đó, ông làm việc liên tục trong 2 ngày 2 đêm để làm lại mọi thứ.
Gold đang dần từ bỏ hoạt động gián điệp thì vào năm 1938, Liên Xô đã tặng ông một bất ngờ. Ông ấy luôn khao khát hoàn thành bằng cấp của mình, và người quản lý của ông ấy đột nhiên đề nghị trả học phí cho ông ấy tại Đại học Xavier ở Cincinnati. Đây không phải là một động thái tốt đẹp: Liên Xô đang muốn có một điệp viên tại một nhà máy hàng không gần đó, và Gold sẽ là người đó. Ông ấy không quan tâm. Ông trân quý từng phút giây của đời sống đại học, dành nhiều giờ trong phòng thí nghiệm và cổ vũ cuồng nhiệt cho các đội bóng rổ và bóng đá của Musketeer. Ông ấy ở đó cho đến năm 1940, và sau đó gọi thời gian đi học là những năm hạnh phúc nhất trong cuộc đời.
Cuộc phiêu lưu kết thúc khi Gold trở về Philadelphia, nơi ông ấy tiếp tục hoạt động gián điệp. Không rõ tại sao ông ấy lại làm như vậy. Có lẽ Gold cảm thấy mắc nợ người Liên Xô vì tiền học bổng. Hoặc có lẽ ông ấy thích sự đồng hành và ý thức về mục đích của hoạt động gián điệp. (Thật vậy, Liên Xô đã khai thác sự cô đơn của Gold bằng cách ghép ông ấy với những người quản lý hoạt động cũng là các nhà khoa học. Trong những màn thể hiện tình bạn thân thiết không có thật, họ vỗ vai ông ấy và thở dài, Thật tệ là chúng ta phải tự vấy bẩn mình bằng công việc gián điệp. Đáng lẽ chúng ta nên làm việc trong phòng thí nghiệm - điều khiến chúng ta hạnh phúc.) Hơn nữa, các sự kiện thế giới buộc ông ấy phải tiếp tục công việc này. Sau khi Đức Quốc xã tấn công Liên Xô vào năm 1941, Liên Xô rất cần sự trợ giúp quốc phòng, bao gồm cả chuyên môn kỹ thuật. Gold căm thù Đệ tam Đế chế giết người và tiếp tục cam chịu công việc làm gián điệp để giúp Liên Xô tồn tại.
Do đó, Gold chuyển từ gián điệp công nghiệp sang gián điệp quân sự. Ông ấy bắt đầu nhận tài liệu và thậm chí cả mẫu chất nổ từ các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm quốc phòng và trao đổi với họ để thu thập báo cáo. Quản lý các đặc vụ như thế này là một công việc tế nhị, đòi hỏi cả hiểu biết kỹ thuật và tâm lý. Nhưng Gold đã xuất sắc hoàn thành nhiệm vụ. Ông ấy được người Liên Xô gọi là "vận động viên có kỷ luật": một điệp viên tuyệt vời, đáng tin cậy. Vì vậy, khi điệp viên khoa học hàng đầu trong hàng ngũ Liên xô - một nhà vật lý người Anh gốc Đức tên là Klaus Fuchs - chuyển từ Anh đến New York vào cuối năm 1943 để tham gia Dự án Manhattan, Gold là lựa chọn hiển nhiên để làm việc cùng ông ấy.
Vào ngày 5 tháng 2 năm 1944, ngay trước 4 giờ chiều, hai người đàn ông gặp nhau tại một bãi đất trống gần một sân chơi ở phía đông Manhattan. Một người gầy và ăn mặc chỉnh tề, với áo tuýt và đeo kính. Ông ấy mang theo một cuốn sách bìa màu xanh lá và một quả bóng tennis bất chấp cái lạnh của mùa đông.
Nhìn thấy quả bóng và cuốn sách, một người đàn ông thấp bé, khuôn mặt chảy xệ - đeo một đôi găng tay da lộn và cầm một đôi găng tay khác - bước sang một bên và hỏi đường đến Khu phố Tàu.
"Khu phố Tàu đóng cửa lúc 5 giờ", người đàn ông gầy gò trả lời, hoàn thành câu tín hiệu nhận dạng. Và cùng tín hiệu đó, nhà vật lý Klaus Fuchs và nhà hóa học Harry Gold bắt đầu bước đi.
Gold tự giới thiệu mình là "Raymond" và đã bắt một chiếc taxi sau khi đi bộ một đoạn ngắn. Qua một vài dãy nhà, Gold dừng xe lại và hối hả đưa Fuchs lên tàu điện ngầm để cắt đuôi bất cứ ai có thể đang theo sau họ. Tuyến đường quanh co này cuối cùng kết thúc tại một nhà hàng bít tết trên Đại lộ 3. Gold tự hào về những hành động lẩn tránh này, nhưng Fuchs - một người cộng sản cứng rắn đến từ Đức, một người đã chiến đấu với những tên côn đồ của Đức Quốc xã trên đường phố ở đó - coi họ là những tay mơ. Ông ấy cũng mắng Gold vì thói quen liên tục xoay đầu khi họ vừa đi vừa tìm kiếm những chiếc đuôi bám theo. Điều đó chỉ thu hút sự chú ý, ông ấy nói.
Với một giọng điệu chỉ đạo, Fuchs vào việc ngay. Ông ta giải thích rằng mình đang làm việc cho Dự án Manhattan, nhằm chế tạo một loại vũ khí có sức mạnh chưa từng có - một quả bom nguyên tử.
Nhà vật lý và điệp viên Klaus Fuchs của Dự án Manhattan. (Được sự cho phép của Cục Quản lý Lưu trữ và Hồ sơ Quốc gia Hoa Kỳ.)
Gold chưa bao giờ nghe đến thuật ngữ này, và là một nhà hóa học, ông ấy chỉ nắm được quá trình phân hạch hạt nhân một cách mơ hồ. Nhưng một khía cạnh của cuộc trò chuyện chắc hẳn đã khuấy động trái tim ông ấy. Một lần nữa, người Liên Xô coi hầu hết các nghiên cứu thăm dò đều mang tính lý thuyết. Nhưng sự phân hạch nguyên tử là một ngoại lệ: mặc dù không ai biết liệu một quả bom hạt nhân có hoạt động hay không, nhưng khả năng này rất quan trọng nên không thể bỏ qua. Do đó, Gold sẽ xử lý các nghiên cứu tiên tiến nhất.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên này, nhiều cuộc gặp gỡ khác đã tiếp tục diễn ra trong vài tháng sau đó - ở Brooklyn, Queens, Bronx, tại các rạp chiếu phim, quán bar, viện bảo tàng. Fuchs thường xuyên đưa cho Gold một phong bì dày khi họ chia tay. Khi tâm trí bị sự tò mò thiêu đốt, Gold chui vào một cửa hàng thuốc và nhanh chóng nhìn vào bên trong chiếc phong bì - một vi phạm an ninh vô cùng nghiêm trọng. Bên trong là những trang chứa đầy các sơ đồ và các phép tính toán học được viết bằng những dòng chữ nhỏ, gọn gàng. Tất cả các nghiên cứu về một quả bom tối mật.
Đôi khi hai nhà khoa học trò chuyện trong những lần gặp mặt của họ, dù mỗi người có suy nghĩ khác nhau về các cuộc trò chuyện. Fuchs nhắc lại sự chuyên nghiệp - trao đổi ngắn gọn và kỷ luật nghiêm ngặt. Gold gợi lại một tình bạn mới chớm nở. Giữa những cuộc trao đổi gián điệp, họ thảo luận về mối quan tâm chung của họ đối với cờ vua và âm nhạc cổ điển, và họ phát triển một câu chuyện quan trọng (những gì người Liên Xô gọi là "huyền thoại") để giải thích cách họ gặp nhau tại một buổi giao hưởng ở Carnegie Hall. Fuchs thậm chí còn úp mở về em gái của mình ở Cambridge, Massachusetts, người đang gặp rắc rối trong hôn nhân. Gold lần lượt kể cho Fuchs nghe về hai đứa con sinh đôi của ông và vợ ông, một phụ nữ tóc đỏ từng làm người mẫu cho cửa hàng bách hóa Gimbels. Đây hoàn toàn là sự bịa đặt - chân dung tưởng tượng về một người đàn ông cô đơn - nhưng Gold lại để bản thân suy nghĩ như vậy về người bạn của mình.
Gold cũng cố gắng gây ấn tượng với Fuchs bằng kiến thức khoa học của mình. Chuyện đó không được như ý. Trong một cuộc gặp mặt, Fuchs thừa nhận rằng nhóm của ông đang gặp khó khăn trong việc tìm ra cách làm giàu uranium, bước đầu tiên trong việc chế tạo lõi bom. Gold đã đóng góp ý kiến và đề nghị họ thử khuếch tán nhiệt, quy trình mà ông đã mày mò trong quá trình làm việc. Fuchs đã bác bỏ ý kiến này vì cho rằng nó nghiệp dư, điều này khiến Gold rất buồn. (Fuchs không biết rằng Dự án Manhattan trên thực tế mới mở một nhà máy khuếch tán nhiệt; nếu không có nó, sẽ không có bom uranium trong Thế chiến thứ hai.)
Vào tháng 7 năm 1944, bộ đôi đã lên lịch cho cuộc gặp thứ tám, gần Bảo tàng Brooklyn. Fuchs không xuất hiện. Điều này khiến Gold lo lắng vì Fuchs luôn là người chuẩn chỉ. Nhưng họ có một cuộc gặp mặt dự phòng được lên lịch vài ngày sau gần Công viên Trung tâm, vì vậy ông đã rời đi.
Fuchs cũng bỏ lỡ cuộc gặp đó. Suy nghĩ về những kẻ tấn công lóe lên trong đầu Gold, và ông quay trở lại Philadelphia với tâm trạng bối rối. Gold không biết Fuchs sống ở đâu hoặc làm cách nào để liên lạc với ông ta. Một điệp viên vô giá - và người bạn tốt của ông - đã "vắng mặt không phép" một cách đột ngột.
Ông không cần phải lo lắng. Fuchs vẫn ổn - thực tế là ổn hơn trước rất nhiều. Ông ta vừa nhận được lời mời đến "chốn thiêng" trong của Dự án Manhattan, phòng thí nghiệm vũ khí tại Los Alamos.
Fuchs rời đi đột ngột đến nỗi ngay cả người Liên Xô cũng không biết ông ta đang ở đâu. Thông qua một kế hoạch tổ chức bí ẩn nhưng có thể xảy ra, cuối cùng sếp của Gold ở New York đã lần ra địa chỉ cuối cùng được biết đến của người điệp viên này, gần Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ. Anh ta chuyển thông tin này cho Gold, người đã mua bản sao cũ cuốn tiểu thuyết của Thomas Mann, Joseph the Provider, viết nguệch ngoạc tên và địa chỉ của Fuchs bên trong, đồng thời đến thăm tòa nhà bằng đá nâu bốn tầng với lý do muốn trả lại cuốn sách này. Ông thấy cửa không khóa và tự đi vào, nhưng cặp vợ chồng người Scandinavia sở hữu nơi này đã đối chất ông ấy. Gold vẫn giữ bình tĩnh và giải thích về cuốn sách. Điều này khiến cặp đôi dịu bớt, nhưng họ nói với ông ấy rằng Fuchs đã chuyển ra ngoài và không để lại địa chỉ về sau.
Quá tuyệt vọng, phía Liên Xô đã đánh một canh bạc lớn và đưa Gold đến Cambridge vài tuần sau đó để thăm Kristel, em gái của Fuchs. Gold đến cùng một cuốn sách để tặng cho cô ấy và kẹo cho các con của cô - cháu gái và cháu trai của Fuchs. Ông ấy giả làm một người bạn cũ đến thăm thị trấn. Than ôi, Kristel không biết anh trai cô ở đâu. Nhưng Gold vẫn kiên trì, và sau nhiều chuyến đi nữa, cuối cùng ông cũng thấy Fuchs khi ông ta đang ngồi trong phòng khách của Kristel vào một buổi chiều tháng 1. Ông ấy chắc hẳn đã thở phào nhẹ nhõm - 7 tháng trôi qua kể từ lần cuối cùng họ gặp nhau. Tuy nhiên, sự phấn khích nhanh chóng qua đi. Khi Gold gõ cửa, Kristel mở cửa và nhanh chóng đuổi ông đi, nói với ông rằng Fuchs không muốn gặp ông lúc này. Ông nên trở lại sau hai ngày nữa. Gold bối rối và đau đớn bước đi - ông ấy đã đi một chuyến tàu dài và tốn kém để đến gặp người bạn của mình nhưng lại không thể gặp.
Tuy nhiên, Gold làm theo lời em gái Fuchs và quay trở lại sau hai ngày, thậm chí còn mang thêm kẹo cho cháu gái và cháu trai Fuchs. Lần này Fuchs bước ra ngoài để đi dạo với Gold. Lúc này, Fuchs xin lỗi vì đã đuổi Gold đi; chồng của Kristel ở nhà, ông ấy giải thích, và cuộc gặp gỡ có vẻ đáng ngờ. Sau đó, cả hai quay trở lại ngôi nhà trống của Kristel để ăn trưa, tại đây Fuchs quay lại thái độ cũ và khiển trách Gold về việc gây nguy hiểm cho Kristel khi xuất hiện ở nhà cô ấy thường xuyên. Do đó, họ sẽ phải hẹn gặp ở Santa Fe kể từ thời điểm đó.
Gold kêu than. Điều đó có nghĩa là các chuyến đi thậm chí còn dài hơn, tốn kém hơn. Không có bất cứ nơi nào khác hay sao? Fuchs nói không - ông ấy là người quan trọng nên không thể thường xuyên đi xa. Fuchs sau đó đưa ra bản đồ về Santa Fe và lịch trình xe buýt. Gặp nhau ở đây vào ngày 2 tháng 6, ông ấy nói.
Ngay trước khi họ chia tay, Fuchs đã đưa cho Gold một phong bì được niêm phong mà ông ấy nói là "cực kỳ quan trọng". Ông ấy không hề đùa đâu: bên trong là những bản phác thảo ban đầu về một quả bom plutonium. Về phần mình, Gold đã trao cho Fuchs một "món quà Giáng sinh" từ Liên Xô. Đó là một chiếc ví mỏng với một chiếc phong bì bên trong chứa đầy những tờ 5,10 và 20 đô la - tổng là 1.500 đô la (tương đương 20.000 đô la ngày nay). Món quà khiến Fuchs ghê tởm. Như Gold nhớ lại, "Fuchs đã giữ chiếc phong bì chứa 1.500 đô la như thể đó là một thứ ô uế". Tôi không làm gián điệp vì tiền, ông ấy phỉ nhổ. Cử chỉ này khiến Gold thích thú: giống bản thân ông, Fuchs không bị thúc đẩy bởi lợi ích vật chất. Ông ấy đã thuyết phục Fuchs cầm chiếc ví, nhưng trả lại số tiền cho Liên Xô.
Không lâu trước chuyến đi đến New Mexico, Gold đã gặp vị sếp người Liên Xô của mình, "John", tại một quán bar. Để tránh bị theo dõi, John ra lệnh cho Gold thực hiện một hành trình vòng vèo đến Tây Nam bằng xe lửa và xe buýt, với các điểm dừng ở California, Denver và El Paso. Tuy nhiên, lần đầu tiên, Gold đã đứng lên bảo vệ ý kiến của chính mình. Ông ấy đã vay 500 đô la tại Penn Sugar để phục vụ chuyến đi và không thể có thêm thời gian nghỉ ngơi. Ông muốn đến thẳng chỗ hẹn.
Tuy nhiên, nếu Gold thắng cuộc tranh cãi đó, ông ấy sẽ sớm thua trong lần thứ hai - lần quan trọng hơn vào ngày hôm đó. Sau khi trao đổi xong chi tiết cuộc gặp với Fuchs, John nói với Gold một điều đáng ngạc nhiên: Liên Xô có một điệp viên thứ hai bên trong Los Alamos, một thợ máy. Điệp viên này sẽ xuất hiện ở Albuquerque khi Gold đến thăm, vì vậy ông ấy sẽ thực hiện một chuyến đi phụ đến đó để lấy thêm giấy tờ.
Trong bất kỳ công việc bình thường nào, đây sẽ là một yêu cầu hợp lý. Trong hoạt động gián điệp, đó là một điều tối kị, một rủi ro bảo mật rất lớn. Gold biết điều này và, ra vẻ ta đây quan trọng, ông ấy quyết định đứng lên một lần nữa: "Tôi... đứng lên một cách tức giận và gần như thẳng thừng từ chối", ông ấy nhớ lại.
Lần này, John đã chặn lời ông ấy. "Tôi đã hướng dẫn những kẻ ngu ngốc như các anh qua từng bước một!" Ông ta gầm gừ. "Các anh không nhận ra nhiệm vụ này quan trọng như thế nào đối với Albuquerque".
Khi tràng chửi rủa tiếp tục, Gold đã lùi bước và tỏ ra quy phục như thường lệ. Cuối cùng, John đưa cho ông ấy một tờ giấy mỏng có ghi địa chỉ ở Albuquerque và một cái tên, Greenglass. Sau đó, ông ta tiếp tục đưa cho Gold một nửa mặt trên của chiếc hộp Jell-O, đã được cắt thành hình lưỡi cưa. Anh sẽ biết đó là Greenglass, ông ta nói, vì anh ta sẽ có một nửa ăn khớp với cái này.
Chiếc xe của Gold đã đến Santa Fe vào thứ Bảy, ngày 2 tháng 6, lúc 2 giờ 30 phút chiều. Với 90 phút rảnh rỗi, ông lấy một tấm bản đồ từ một bảo tàng địa phương và lang thang dọc theo con sông gần đó. Con sông trông thật thảm hại, ông ấy nghĩ, nó còn nhỏ hơn hầu hết những con lạch ở quê nhà của ông ấy.
Fuchs lái chiếc Buick màu xanh lam lấp lánh của mình đến muộn. Họ lái xe đến một con đường vắng và đi bộ một đoạn ngắn. Fuchs thảo luận về quả bom plutonium, nhưng ông ta quả quyết với Gold rằng, chiến tranh sẽ kết thúc trước khi quả bom được hoàn thiện để sử dụng chống lại quân Nhật. Đó là một nhận định sai lầm. Sau đó, ông ta đưa cho Gold một gói đồ và họ chia tay. Nói chung, một cuộc gặp tốt đẹp.
Cuộc gặp thứ hai rất khác biệt. Gold bắt xe buýt đến Albuquerque, đến nơi vào khoảng 8 giờ tối, và đi thẳng đến địa chỉ trên tờ giấy, 209 High Street. Ông cảm thấy lo lắng khi cầm tài liệu từ Fuchs và muốn rời khỏi thị trấn này càng sớm càng tốt. Nhưng David Greenglass không có ở nhà; vợ chồng ông ta đã đi xem phim.
Chán nản, Gold lên đường đi tìm khách sạn nghỉ ngơi nhưng đến đâu cũng bị từ chối. Albuquerque được bao quanh bởi các căn cứ quân sự và không bao giờ có chỗ trống vào các ngày thứ Bảy. Một viên cảnh sát cuối cùng chỉ đường cho Gold đến một nhà trọ, nơi ông xin được ngủ tại một chiếc giường nhỏ khốn khổ ở hành lang. Tiếng xe cảnh sát hú còi khiến ông ấy gần như thức trắng đêm.
Tái tạo tín hiệu nhận dạng Jell-O được sử dụng bời Harry Gold và David Greenglass. (Được sự cho phép của Cục Quản lý Lưu trữ và Hồ sơ Quốc gia Hoa Kỳ.)
Sáng hôm sau, Gold lê bước lên cầu thang số nhà 209 High Street và gõ cửa. Khi cánh cửa mở ra, ông gần như ngã ngửa xuống bậc thang vì sốc. Người đàn ông mở cửa mặc chiếc quần quân đội. Gold không hề biết rằng quân đội Hoa Kỳ đã bị lôi kéo vào việc này.
Tự trấn an bản thân, Gold hỏi ông ta có phải là Greenglass không. Greenglass gật đầu. Sau đó Gold nói ra tín hiệu nhận dạng, "Julius bảo tôi đến".
"Ồ", Greenglass nói và lấy chiếc hộp Jell-O từ trong ví của vợ mình. Gold chìa ra nửa của mình, và các mảnh khớp với nhau. Nóng lòng muốn rời đi, Gold hỏi Greenglass xem ông ta có sẵn tài liệu nào chưa. Greenglass nói chưa, rằng ông ta chưa làm được điều đó. Gold hãy trở lại vào chiều hôm đó.
Với vẻ mặt cáu kỉnh, Gold đi tìm ít đồ ăn sáng và chờ đợi. Khi quay trở lại, ông ấy và Greenglass đi dạo dưới ánh nắng chói chang và thực hiện nhiệm vụ. Gói đồ này bao gồm các sơ đồ thấu kính có khả năng cháy nổ cao, một trong những khía cạnh quan trọng nhất của bom plutonium. Sau đó, Gold trao cho Greenglass 500 đô la - tương đương với 16 tháng tiền thuê căn hộ, một tài sản nhỏ cho một người thợ máy. Giống như Fuchs, Greenglass tỏ ra khó chịu trước lời đề nghị - nhưng vì một lý do ngược lại. Anh không thể trả cao hơn sao?, ông ta hỏi. Gold, cảm thấy thật kinh tởm, lẩm bẩm rằng ông sẽ chuyển yêu cầu này cho cấp trên.
Gold bắt một chuyến tàu ra khỏi thành phố vào buổi tối hôm đó, và trải qua hai ngày tiếp theo để đi về phía đông, vui mừng vì đã xong việc. Nhưng chuyến đi phụ của ông ấy đến Albuquerque có vẻ khá tốn kém. Chuyện xảy ra sau đó liên quan đến chị gái David Greenglass ở New York tên là Ethel, người này kết hôn với một người đàn ông tên là Julius Rosenberg.
Gold và Fuchs chỉ là hai trong rất nhiều nhà khoa học để chính trị ảnh hưởng đến đạo đức nghề nghiệp (...). Người thực sự "phạm tội" lớn nhất trong vấn đề này đó chính là nhà sinh vật học Trofim Lysenko.
Lysenko sinh ra trong một gia đình nông dân ở vùng đất thuộc Ukraine ngày nay vào năm 1898, và không biết chữ cho đến năm 13 tuổi. Sau Cách mạng Nga, ông ấy trúng tuyển vào một số trường nông nghiệp, nơi ông ấy bắt đầu mày mò các phương pháp trồng đậu mới trong suốt mùa đông dài khắc nghiệt của Liên Xô. Mặc dù các thí nghiệm của ông ấy được xây dựng kém hiệu quả (và có thể ông ấy đã làm giả kết quả của mình), nhưng ý tưởng của ông ấy đã giúp bản thân nhận được nhiều lời khen từ một tờ báo nhà nước vào năm 1927. Với xuất thân nghèo khó - mọi người gọi ông ấy là "nhà khoa học chân đất" - cũng khiến ông trở nên nổi tiếng trong Đảng Cộng sản. Các lãnh đạo sau đó đã để ông phụ trách lĩnh vực nông nghiệp của Liên Xô vào giữa những năm 1930, nâng ông lên vị trí hàng đầu trong hệ thống thứ bậc khoa học của Liên Xô.
Vấn đề duy nhất là Lysenko có những ý tưởng khoa học sai lầm. Đặc biệt là ông ấy ghét di truyền học. Di truyền học trong thời đại đó nhấn mạnh vào những đặc điểm cố định: thực vật và động vật có những đặc điểm ổn định, được mã hóa dưới dạng gen mà chúng truyền lại cho thế hệ sau đó. Mặc dù là một nhà sinh vật học trên danh nghĩa, nhưng Lysenko lên án những ý tưởng như vậy là phản động - một phần vì kẻ thù lớn nhất của Liên Xô, Đức Quốc xã, đã ủng hộ một dạng di truyền biến thái khi quảng bá một chủng tộc đứng đầu. Nhưng khi chiến đấu với những kẻ cuồng tín cánh hữu, Lysenko cũng phản khoa học như Đức Quốc xã. Trên thực tế, ông ấy đi xa đến mức phủ nhận rằng gen thực sự tồn tại. Thay vào đó, ông ấy đề cao ý tưởng cho rằng môi trường có tác dụng định hình thực vật và động vật. Ông ấy tuyên bố rằng, hãy đặt các sinh vật vào môi trường thích hợp và cho chúng tiếp xúc với các kích thích phù hợp, và bạn có thể tái tạo chúng ở một mức độ gần như vô hạn. Môi trường là yếu tố bản chất.
Để đạt được mục tiêu này, Lysenko bắt đầu các chương trình "chỉ dạy" các loại cây trồng của Liên Xô nảy mầm vào các thời điểm khác nhau trong năm bằng cách ngâm chúng trong nước đóng băng, bên cạnh một số thủ thuật khác. Điều quan trọng là ông ấy tuyên bố rằng, các thế hệ cây trồng trong tương lai sẽ ghi nhớ những dấu hiệu môi trường này và ngay cả khi không được chăm sóc, chúng sẽ thừa hưởng những đặc điểm có lợi. về mặt khoa học, điều này hoàn toàn vô lý - giống như việc cắt đuôi một con mèo và mong nó sinh ra những chú mèo con cụt đuôi. Những thủ thuật này cũng không mang lại kết quả trên mọi loại cây trồng. Không nản lòng, Lysenko sớm khoe kế hoạch trồng chanh ở Siberia. Quan trọng hơn, ông ấy hứa sẽ đẩy mạnh sản xuất cây trồng trên toàn quốc và biến vùng đất trống của Nga thành những trang trại rộng lớn.
Những tuyên bố như vậy chính là những gì mà các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn nghe. Vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930, Joseph Stalin đã thiết lập một kế hoạch thảm khốc nhằm "hiện đại hóa" nền nông nghiệp Liên Xô, buộc hàng triệu người phải tham gia vào các trang trại tập thể do nhà nước quản lý. Mất mùa và đói kém trên diện rộng đã xảy ra. Tuy nhiên, Stalin từ chối thay đổi hướng đi, và một phần trông chờ vào những ý tưởng mới cấp tiến của Lysenko để khắc phục thảm họa. Ví dụ, Lysenko buộc nông dân phải gieo hạt giống gần nhau một cách kỳ cục, vì theo "quy luật về sự sống của các loài" của ông ấy, các cây thuộc cùng một "lớp" không bao giờ cạnh tranh với nhau. Ông ấy cũng cấm sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu nông nghiệp.
Rõ ràng Stalin là người phải chịu trách nhiệm về nạn đói, bắt đầu từ trước thời kỳ Lysenko làm một ông hoàng trong ngành nông nghiệp có nguồn gốc cơ bản từ các yếu tố chính trị. Số người chết vì nạn đói lên đến đỉnh điểm vào khoảng năm 1932-1933, nhưng 4 năm sau, sau khi diện tích đất canh tác theo phương pháp của Lysenko tăng gấp 163 lần, sản lượng lương thực thực sự thấp hơn trước. Lúa mì, lúa mạch đen, khoai tây, củ cải đường - hầu hết mọi thứ được trồng theo phương pháp của ông ấy đều chết.
Các đồng minh của Liên Xô cũng bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Lysenko. Đảng Cộng sản Trung Quốc áp dụng các phương pháp của ông ấy vào cuối những năm 1950 và phải trải qua những nạn đói thậm chí còn tồi tệ hơn. Ít nhất 30 triệu người chết vì nạn đói.
Vì có được sự ủng hộ của Stalin, những thất bại của Lysenko không thể làm lu mờ vị trí ngôi sao của ông ấy tại Liên Xô. Chân dung của ông ấy được treo trong các viện khoa học, và mỗi khi ông ấy phát biểu, tiếng kèn đồng nổi lên và một dàn hợp xướng hát một bài hát được viết để vinh danh ông ấy + ..
Bên ngoài Liên Xô, mọi người hát một giai điệu khác - một trong những lời chỉ trích gay gắt. Một nhà sinh vật học người Anh than thở rằng, Lysenko "hoàn toàn không biết gì về các nguyên tắc cơ bản của di truyền học và sinh lý học thực vật... Nói chuyện với Lysenko giống như đang cố gắng giải thích phép tính vi phân cho một người không biết bảng cửu chương". Về phần mình, Lysenko lại tố cáo các nhà khoa học phương Tây là đế quốc tư sản. Ông ấy đặc biệt phản đối phương pháp nghiên cứu ruồi giấm tại Hoa Kỳ, một phương pháp chính yếu của ngành di truyền học hiện đại. Ông ấy gọi những nhà di truyền học như vậy là "những kẻ yêu loài ruồi và ghét loài người", thiếu hiểu biết đến mức không thể thấy rằng, nghiên cứu cơ bản hầu như luôn đi trước những đột phá thực tế.
Không thể làm gì để ngăn chặn những lời chỉ trích từ các nước bên ngoài về mình, Lysenko cố gắng loại bỏ tất cả những bất đồng trong Liên Xô. Ông buộc các nhà khoa học Nga phải từ bỏ di truyền học, và những người từ chối chắc chắn sẽ bị bắt bởi những viên cảnh sát mật. Những người may mắn đơn giản là bị sa thải khỏi chức vụ đang nắm giữ và chịu một cuộc sống nghèo túng. Hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng ngàn người khác đã bị vây bắt và bị tống vào nhà tù hoặc bệnh viện tâm thần. Một số bị kết án tử hình vì là kẻ thù của đất nước và bị bỏ đói trong phòng giam của họ. Trước những năm 1930, Liên Xô được cho là cộng đồng di truyền học tài năng nhất trên thế giới. Lysenko đã phá hủy điều đó.
Quyền lực của Lysenko bắt đầu suy yếu sau khi Stalin qua đời năm 1953. Đến năm 1964, ông ấy bị phế truất khỏi vị trí độc tài của nền sinh học Liên Xô và qua đời vào năm 1976. Bức chân dung của ông ấy tiếp tục được treo trong một số viện trong suốt những năm Gorbachev cầm quyền, nhưng đến những năm 1990, người dân Nga cuối cùng đã có thể xóa bỏ nỗi kinh hoàng và xấu hổ của chủ nghĩa Lysenko.
Năm 2017, bốn nhà khoa học ở Nga đã viết một bài báo trên tạp chí để báo động về sự trỗi dậy của thuyết Lysenko. Một số cuốn sách và bài báo ca ngợi di sản của ông ấy đã xuất hiện gần đây, được củng cố bởi cái mà họ gọi là "một liên minh kỳ quặc của những người cực hữu Nga, những người theo chủ nghĩa Stalin".
Có vài lý do dẫn đến sự hồi sinh này. Đầu tiên, lĩnh vực di truyền biểu sinh mới xuất hiện gần thời điểm đó khiến những ý tưởng giống như ý tưởng của Lysenko thời thượng trở lại. Nhưng lời giải thích thực sự đối lập với các giá trị phương Tây. Bốn nhà khoa học Nga giải thích rằng, các môn đệ sau này của Lysenko "cáo buộc khoa học di truyền phục vụ lợi ích của chủ nghĩa đế quốc của Mỹ và hành động chống lại lợi ích của Nga".
Một mặt, sự hồi phục trở lại này gây sốc với nhiều người. Di truyền gần như chắc chắn sẽ không bị cấm ở Nga một lần nữa và sự ủng hộ dành cho Lysenko nhìn chung vẫn là một phong trào ngoài lề. Nhưng những ý tưởng ngoài lề có thể gây ra những hậu quả nguy hiểm, và chủ nghĩa Lysenko mới xuyên tạc lịch sử Nga và che đậy những thiệt hại to lớn mà ông ấy đã gây ra khi bịt miệng và giết chết các đồng nghiệp - chưa nói đến hàng nghìn nông dân chịu đựng cảnh mùa màng thất bát vì học thuyết của ông ấy.
Điều đó nói lên rằng, đã xuất hiện những kẻ thân cận đáng ngại liên quan đến sự hồi sinh của Lysenko. Ngay cả ở thế giới phương Tây, hệ tư tưởng vẫn luôn làm suy yếu niềm tin khoa học của mọi người. Gần 40% người Mỹ tin rằng Chúa đã tạo ra con người trong hình dạng hiện tại của họ, không có quá trình tiến hóa; gần 60% đảng viên Cộng hòa cho rằng sự thay đổi nhiệt độ toàn cầu có nguyên nhân không phải của con người. Lý thuyết "phiến đá trắng" về bản chất con người - nghe có vẻ kinh khủng giống như chủ nghĩa Lysenko.
Trước công lao đạt được, những người cùng thời với Lysenko là Harry Gold và Klaus Fuchs cuối cùng cũng tỉnh táo và nhận ra những quái vật đội lốt nhà khoa học là mối đe dọa không chỉ đối với khoa học mà còn với cả nhân loại. Tuy nhiên, nhận thức về thực tại đó đã xuất hiện rất muộn. Như Fuchs từng nói, "Một số người trưởng thành ở tuổi 15, một số người ở tuổi 38. Mọi thứ sẽ đau đớn hơn nhiều khi ở tuổi 38". Trong khi đó, Fuchs và Gold tiếp tục đánh cắp Dự án Manhattan, và làm mọi cách để giao cho Joseph Stalin một quả bom nguyên tử.
Fuchs và Gold lại gặp nhau ở Santa Fe vào tháng 9 năm 1945, trong cuộc gặp được mô tả ở đầu chuông. Thế chiến thứ hai đã kết thúc nhưng Chiến tranh Lạnh lại bắt đầu.
Trước sự ngạc nhiên của Gold, Fuchs tiết lộ vào đêm đó rằng ông ta và các nhà khoa học người Anh khác tại Los Alamos sẽ sớm trở lại Anh. (Fuchs bào chữa cho việc đến Santa Fe thực tế là để lấy rượu cho một bữa tiệc đi chơi xa dành cho người Anh; do đó, tiếng kêu leng keng trong chiếc Buick chính là: Một cái hòm đầy chai.) Theo lời kể của Gold, họ đã nói qua về việc ông ấy sẽ đến thăm Fuchs ở Anh vào một ngày nào đó, vì ông ấy luôn yêu Wordsworth và Shakespeare và muốn nhìn thấy quê hương của họ. Fuchs đồng ý rằng tất cả những người này đều vĩ đại. Sau đó ông ấy đưa cho Gold một gói dữ liệu về các vụ ném bom ở Hiroshima và Nagasaki.
Đây cũng là chuyến đi mà Gold đã mất liên lạc ở New York, khiến ông ấy phải mất 2 tuần để mang giấy tờ đi khắp nơi. Hai tuần ấy làm ông ấy kiệt sức, tốn kém thêm chi phí và thêm phần căng thẳng cho các chuyến đi đến New Mexico. Ông ấy cho rằng bản thân đã vượt qua hoạt động gián điệp.
Tuy nhiên, hoạt động gián điệp không ngừng đeo bám ông ấy. Năm 1946, Penn Sugar lại sa thải Gold. Ông ấy nộp đơn xin KGB tài trợ để mở một phòng thí nghiệm khuếch tán nhiệt, và khi cơ quan này từ chối ông ấy, Gold chuyển đến New York để tìm kiếm công việc với một nhà hóa học - đồng thời là điệp viên cộng sản - tên là Abe Brothman. Đó là một sai lầm lớn. FBI đã để mắt đến Brothman và những người sử dụng Gold yêu cầu ông ấy tránh xa người đàn ông này. Nhưng Gold hoặc quên lời cảnh báo của họ hoặc phớt lờ nó và chấp nhận một công việc. (Khi John phát hiện ra Gold đang làm việc cho Brothman, ông ta đã hét vào mặt Gold ngay nơi công cộng, "Đồ ngốc! Anh đã phá tan 11 năm chuẩn bị!") Chắc chắn rồi, Brothman sớm phải đối mặt với FBI và khiến Gold liên lụy vào tội gián điệp. Hai người được triệu tập để làm chứng trước bồi thẩm đoàn vào tháng 7 năm 1947.
Brothman tỏ ra mệt mỏi với những yêu cầu của Liên Xô giống như Gold, và ông ấy bắt đầu đe dọa trong các cuộc nói chuyện riêng tư rằng sẽ thú nhận vai trò của mình trong bộ máy gián điệp của Liên Xô và khiến những người khác phải xuống mồ chôn cùng ông ấy. Nhưng ông ấy đã bình tĩnh trở lại khi ngồi trên chiếc ghế nhân chứng và phủ nhận mọi thứ. 9 ngày sau, đến lượt Gold làm chứng. Đêm trước, Gold ghé qua căn hộ của Brothman, và họ lái xe đi một vòng. Gold muốn thảo luận về lời khai của ông ấy, để đảm bảo nó không mâu thuẫn với lời khai Brothman, nhưng mỗi khi ông gợi ra chủ đề này, Brothman lại bắt đầu ngợi ca cái chết của chủ nghĩa tư bản. Cuối cùng thì Gold cũng bỏ cuộc, cả hai dừng lại và ăn dưa hấu lúc 4 giờ sáng.
Gold không cần phải lo lắng: ông ấy đã chứng minh từng chút một khi nói dối một cách khéo léo như Brothman. Đứng trước tòa, ông ấy tự cho mình là một nhà hóa học vụng về, lơ đãng, một người quá ngây thơ thậm chí không biết chính trị là gì. Mặc dù không tin cả hai người đàn ông này, nhưng FBI không thể chọc thủng bất kỳ lỗ hổng thực sự nào trong câu chuyện của họ và cả hai đều được thả tự do.
Tuy nhiên, nhờ có Brothman, FBI đã có một hồ sơ về Gold. Tệ hơn nữa, các đặc vụ ở Anh đang để mắt tới một điệp viên có nhiều tài liệu buộc tội ông ấy hơn nhiều - không ai khác chính là Klaus Fuchs.
Brothman trả tiền cho Gold một cách thất thường, một điều hiếm khi xảy ra. ("Khi không có tiền, tôi là một đối tác", Gold nói về thời gian ở đó. "Khi có tiền, tôi trở thành một nhân viên".) Gold cũng nhớ gia đình trong khi ở New York, đặc biệt là sau khi mẹ ông ấy qua đời vì xuất huyết não vào tháng 9 năm 1947. Vì vậy, vào giữa năm 1948, Gold rời khỏi công ty của Brothman, chuyển về nhà và nhận công việc tại Khoa tim mạch thuộc Bệnh viện Đa khoa Philadelphia. Ông ấy không chỉ làm tốt công việc nghiên cứu hóa học chất rắn - nghiên cứu nồng độ chất điện giải trong máu và cách kali ảnh hưởng đến chức năng cơ - mà còn giúp cứu sống mọi người. Ông ấy thậm chí gặp được tình yêu của đời mình tại bệnh viện, một nhà hóa sinh tên là Mary Lanning. "Tôi chưa bao giờ hạnh phúc hơn thế", ông ấy nói.
Trong một năm rưỡi tiếp theo, Gold đã cầu hôn Lanning hai lần. Cô từ chối cả hai - nhưng không phải vì cô không yêu ông ấy. Đúng hơn, cô ấy cảm thấy ông ấy đang che giấu điều gì đó về quá khứ của mình, một điều gì đó to lớn. Ví dụ, khi vô tình đề cập đến việc đến thăm Santa Fe một lần trong quá khứ, ông ấy đã che giấu dấu vết của mình bằng cách nói rằng Penn Sugar đã cử ông ấy xuống để kiểm tra một nhà máy Coca-Cola ở đó - rất rõ ràng. Lanning biết ông ấy đang cố che giấu điều gì đó, nhưng Gold chỉ đơn giản là không thể tiết lộ sự thật để cô bớt suy nghĩ về mình. Cuối cùng thì mối quan hệ của hai người cũng đổ vỡ vì ông ấy sợ nếu họ cưới nhau, ông sẽ hủy hoại cuộc đời cô khi mình bị bại lộ.
Ông ấy đã đúng khi lo lắng về điều đó. Vào tháng 9 năm 1949, 4 năm sau cuộc gặp cuối cùng với Fuchs, một đêm thứ Bảy, Gold mở cửa nhà riêng và thấy một người đàn ông có chất giọng rất nặng đang đứng đó. Không biết người đàn ông đó là ai, Gold định đóng cửa lại. Trước khi Gold có thể làm điều đó, người đàn ông - một điệp viên Liên Xô - đã đọc một cụm từ mật mã, khiến Gold phải dừng lại. Ông ấy nghe tin đồn về việc các điệp viên bất hợp tác bị theo dõi và bị sát hại, và dù muốn hạ gục người đàn ông này ngay lập tức, nhưng ông ấy cảm thấy điều kiện hiện tại vẫn còn an toàn - cho ông ấy và gia đình - trong một khoảng thời gian nào đó. Sau một số trao đổi trong nhà bếp, Gold đồng ý đến gặp một điệp viên ở New York hai tuần sau đó. Họ đã gặp nhau trong một trận mưa như trút nước. Trước sự ngỡ ngàng của Gold, điệp viên nọ yêu cầu chuyển Gold sang Đông Âu. Người đàn ông từ chối giải thích lý do về quyết định này.
Mọi thứ trở nên rõ ràng trong vài tháng sau đó. Ngày 2 tháng 2 năm 1950, Klaus Fuchs bị bắt tại Anh và đã tự thú. Hoa Kỳ vẫn quay cuồng với thông tin Liên Xô đã cho nổ một quả bom hạt nhân vào tháng 8 trước đó, và vụ bắt giữ một điệp viên nguyên tử đã gây xôn xao trên toàn thế giới. 7 ngày sau, trong một bài phát biểu ở Wheeling, Tây Virginia, Thượng nghị sĩ bang Wisconsin, Joseph McCarthy, đã đưa ra một mảnh giấy, mà theo ông ấy, liệt kê 205 cộng sản đã xâm nhập Bộ Ngoại giao. Vụ bắt giữ Fuchs cũng thuyết phục Harry Truman - người trước đó từng công bố kế hoạch chỉ nghiên cứu tính khả thi của một quả bom nhiệt hạch - đã cam kết thực hiện quy trình chế tạo một quả bom.
Một phần lời khai của Fuchs đã khiến công chúng đặc biệt lo lắng: rằng ông ta biết một người liên lạc người Mỹ được gọi là "Raymond". Thành thật mà nói, Liên Xô có lẽ nên thanh loại Gold vào thời điểm này, nhưng vì một số lý do mà họ đã do dự. Trên thực tế, Gold gần như đã làm mọi công việc cho họ. Sau khi Fuchs thú nhận, Gold hoảng sợ và tính đến chuyện tự sát bằng thuốc ngủ. Tom Black, người bạn cũ của ông ấy, người đầu tiên đã đẩy ông ấy vào hoạt động gián điệp, đã phải ngăn cản ông ấy thực hiện ý định đó.
Trong khi đó, FBI bắt đầu cái mà một đặc vụ gọi là "nhiệm vụ tìm kiếm quái vật cuồng nộ" để tìm ra Raymond. Cơ quan này điều tra 1.500 nghi phạm, với hàng chục đặc vụ làm việc toàn thời gian và hơn 60 người làm việc bán thời gian cho vụ án. Dựa trên chuyên môn của Raymond về hóa học, họ yêu cầu thông tin về 75.000 giấy phép vật liệu dễ cháy được cấp ở New York vào năm 1945. Họ thậm chí còn cử các đặc vụ đến các trạm xe buýt trên khắp New Mexico để hỏi xem có ai còn nhớ một người đàn ông khàn khàn cầm một chiếc phong bì 5 năm trước đó hay không.
FBI cuối cùng đã gặp may khi các đặc vụ đột nhập (bất hợp pháp) vào phòng thí nghiệm của Abe Brothman ở New York và tìm thấy một số giấy tờ mà Gold đã viết về sự khuếch tán nhiệt. Điều này khiến họ phấn khích vì Fuchs đã nghiên cứu về sự khuếch tán khí cho Dự án Manhattan. Trên thực tế, hai quy trình này có rất ít điểm chung, nhưng không ai ở FBI nắm được điều đó. (Đôi khi may mắn quan trọng hơn trí óc.) Họ đã mở hồ sơ vụ án cũ của Gold và sử dụng thông tin này cùng các manh mối khác để liên kết ông ấy với Raymond.
Vào ngày 15 tháng 5, hai đặc vụ ở Philadelphia tìm đến Gold tại phòng thí nghiệm của ông ấy vào khoảng 5 giờ chiều, và ông ấy đồng ý đi cùng họ vào trung tâm thành phố để trả lời một số câu hỏi. Họ giữ ông ấy ở đó cho đến 11 giờ. Gold không hé răng tiết lộ thông tin, tuy nhiên sau đó ông ấy quay trở lại phòng thí nghiệm để hoàn thành các thí nghiệm của mình - và rõ ràng, đây chính là để tự trấn an bản thân.
Cảm thấy không còn lựa chọn nào khác, Gold phải tình nguyện chịu thêm nhiều giờ thẩm vấn vào cuối tuần đó. Khi các đặc vụ hỏi ông ấy có đến New Mexico trong thời kỳ chiến tranh hay không, ông ấy phủ nhận việc từng ở phía tây Mississippi. Khi họ đặt một bức ảnh của Fuchs trước mặt ông ấy, ông ấy gật đầu và nói, "Đó là điệp viên người Anh". Nhưng ông ấy tuyên bố chỉ nhận ra Fuchs nhờ thông tin từ các tạp chí. Sau nhiều áp lực hơn nữa, cuối cùng ông ấy đồng ý "giải quyết vấn đề" bằng cách để FBI khám xét nhà mình - nhưng phải đến thứ Hai, khi anh trai và cha ông vắng nhà. Các đặc vụ không hài lòng với điều này; điều này sẽ cho Gold thời gian để loại bỏ tất cả các bằng chứng buộc tội. Tuy nhiên, do không có lệnh khám xét của tòa án nên họ đồng ý trì hoãn.
Tuy nhiên, đáng kinh ngạc là Gold không tẩy sạch bất kỳ thứ gì. Thay vào đó, ông ấy đi đến phòng thí nghiệm. Ông ấy đã đang thực hiện một số thử nghiệm phát hiện kali trong cơ thể, và không chấp nhận việc bỏ dở quá trình nghiên cứu này. Sau đó, ông dùng bữa tối cuối cùng với anh trai và cha mình vào tối Chủ nhật - "để cứu vãn thêm vài giờ quý giá" của cuộc đời bình thường, như ông ấy nói.
Đến 5 giờ sáng thứ Hai, cuộc loại bỏ dấu vết mới bắt đầu. Lục tung căn phòng của mình, Gold tìm thấy những tấm vé tàu cũ, thư từ các điệp viên Liên Xô, bản thảo báo cáo các cuộc phỏng vấn,... Ông ấy cố gắng xả một số vật dụng xuống nhà vệ sinh, và chôn những thứ khác vào thùng rác trong hầm.
Ông ấy vừa xong việc thì hai