Chương 1 CỬA HÀNG CỦA NHỮNG VỊ THẦN
Mỗi khi mẹ tôi nói chuyện với tôi bà thường bắt đầu câu chuyện như thể là chúng tôi đang ở giữa một cuộc tranh luận.
“Pearl, con phải đi thôi, không còn cách nào khác,” mẹ tôi nói trong cuộc điện thoại tuần trước như vậy. Vài phút sau tôi hiểu ra lí do bà gọi điện. Dì Helen mời cả họ đến dự lễ đính hôn của cậu em họ tôi, Bảo Bảo.
“Cả họ” có nghĩa là nhà Công và nhà Louie. Nhà Công gồm có dì Helen, dượng Henry, Mary, Frank và Bảo Bảo. Còn bây giờ “nhà Louie” tức là mẹ tôi và tôi bởi vì cha tôi đã mất, và em trai tôi Samuel sống ở New Jersey. Chúng tôi được biết đến như “Người trong một họ” lâu lắm rồi, như tôi còn có thể nhớ được, mặc dù gia đình Công không có liên hệ với chúng tôi bằng huyết thống, chỉ là quan hệ thông gia với nhau; người chồng đầu tiên của dì Helen là anh trai của mẹ tôi, người đã chết rất lâu trước khi tôi ra đời.
Còn cậu em họ Bảo Bảo của tôi có tên thật là Roger. Nhưng mọi người quen gọi cậu ta là Bảo Bảo từ lúc cậu còn bé tí, Bảo Bảo có nghĩa là “quý tử”, sau này chúng tôi cũng vẫn gọi nó như thế vì rằng nó là một đứa “mít ướt” cứ gào toáng lên ngay khi dì dượng tôi ra khỏi nhà, nhờ chúng tôi trông chừng nó. Và ngay cả bây giờ khi cậu ta đã 31 tuổi thì chúng tôi vẫn gọi là Bảo Bảo và vẫn phải để mắt quan tâm.
“Bảo Bảo hả? Làm sao mà nó lại đính hôn được nữa?” Tôi hỏi mẹ, “đây chắc là lần đính hôn thứ 3.”
“Lần đính hôn thứ 4.” Mẹ tôi đính chính. “Lần đính hôn trước nó không cưới, tan vỡ ngay sau khi chúng ta gửi đồ mừng, tất nhiên dì Helen không bảo là tiệc đính hôn, bà ấy nói là một tiệc đoàn viên với Mary.” “Mary cũng đến à?” Mary và tôi có một mối quan hệ chị em họ từ lâu rồi. Chị ta lấy Doug Châu, học cùng trường Y với Phil, là người đã giới thiệu chúng tôi với nhau 16 năm về trước.
“Mary cũng tới cùng với chồng con nó. Bay tới đây từ Los Angeles vào tuần tới. Không có thời gian để mua vé giảm giá đặc biệt nữa. Vé không giảm một xu nào nhé, con tưởng tượng được không?”
“Tuần tới á? Tôi nói, cố tìm ra một cớ để chối từ. “Quá trễ để chúng con thay đổi kế hoạch. Chúng con định –”
“Dì Helen nhất định kê con vào số thực khách. Một bữa tiệc linh đình ở nhà hàng Water Dragon đấy – năm bàn nhé. Nếu con không đến thì mất nửa bàn đó.”
Tôi hình dung ra dì Helen, tròn quay và thấp tè, dúm người lại bên một chân bàn. “Còn ai đến nữa ạ?”
“Nhiều lắm, toàn những người quan trọng.” mẹ tôi trả lời, nhấn mạnh từ quan trọng như cách bà nói tới những người mà bà không ưa. “Tất nhiên dì ấy cũng bảo với mọi người là Bảo Bảo sẽ đến với vị hôn thê của nó. Rồi khi mọi người hỏi “Vợ chưa cưới à? Bảo Bảo có vợ chưa cưới à,” thì dì ấy nói. “Ồ tôi quên mất. Định dành cho mọi người một bất ngờ ấy mà. Đừng nói gì với ai nhé.””
Mẹ tôi khịt khịt mũi, “Dì ấy thông báo theo kiểu ấy đấy. Vậy con cũng phải mang đồ mừng đến, cũng là một bất ngờ. Lần trước con tặng cái gì vậy?”
“Cho Bảo Bảo và một cô sinh viên ư? Con không nhớ, có thể là…”
“Sau khi chia tay với cô ta, nó có gửi trả lại con không?”
“Chắc là không. Con cũng không nhớ nữa.” “Con xem! Nhà Công là như vậy đấy. Lần này đừng có mua gì nhiều.”
Cách đây hai hôm, trước khi ăn tối, tôi lại nhận được điện thoại của mẹ.
“Nào bây giờ thì quá trễ để làm một điều gì rồi,” bà nói cứ như là lỗi của tôi không bằng. Và sau đó bà thông báo là dì Du đã chết ở tuổi 97. Tôi ngạc nhiên hết sức, tôi cứ nghĩ bà dì này chết từ lâu rồi.
“Bà có để lại cho con vài thứ đẹp lắm,” mẹ tôi nói. “Cuối tuần này con tới lấy nhé.” Bà dì Du đúng là họ hàng máu mủ của dì Helen, chị em cùng cha khác mẹ với cha của dì Helen hay đại loại như thế. Tuy vậy tôi nhớ là mẹ tôi mới là người luôn chăm sóc bà dì. Mẹ tôi đến dọn dẹp, đổ rác rến cho bà dì mỗi tuần, giúp bà cụ tránh khỏi việc phải đăng kí mua tạp chí mỗi khi bà nhận được tờ bướm quảng cáo in tên của bà bên cạnh dòng chữ “Một triệu đô”. Mẹ tôi làm đơn xin các cơ sở y tế hết lần này đến lần khác để người ta trả cho bà dì tiền thuốc bắc.
Bao nhiêu năm mẹ tôi phàn nàn với tôi là bà đã phải làm những việc ấy cho bà dì chứ không phải dì Helen. “Dì ấy thậm chí chẳng thèm để mắt tới,” mẹ tôi than vãn. Rồi đến một ngày – có thể là khoảng mười năm về trước – tôi cắt đứt chuyện lẩm cẩm này. “Tại sao mẹ không nói với dì Helen về chuyện này rồi chấm dứt kêu ca đi?” Đó là điều mà Phil gợi ý cho tôi nói, một cách hoàn toàn có lí giúp mẹ tôi nhận ra sự rắc rối của bà và nhờ thế bà có thể có được những hành động tích cực.
Nhưng nghe tôi nói thế mẹ tôi nhìn tôi với vẻ mặt trống rỗng không nói nửa lời. Sau đó bà không than phiền gì với tôi nữa. Thực ra bà không nói chuyện gì với tôi suốt 2 tháng trời. Khi chúng tôi làm lành lại với nhau, bà không đả động gì đến bà dì. Tôi đoán vì thế mà tôi nghĩ là bà dì Du chết đã lâu, “Vì sao thế ạ?” Tôi hỏi sau khi nghe tin, cố làm cho giọng nói của mình nghẹn ngào như bị sốc. “Bệnh tim à mẹ?” “Một cái xe buýt,” mẹ tôi đáp.
Ồ rõ rồi, bà cụ Du khỏe mạnh cho đến tận cuối đời. Bà ngồi trên xe buýt, và rồi nó lạng sang bên kia đường để tránh cái mà mẹ tôi gọi là “con quỷ có gắn động cơ” của bọn nhóc điên cuồng chạy vượt qua biển cấm. Bà cụ bị nhồi về phía trước và ngã lăn xuống lối đi. Mẹ tôi chạy ngay tới bệnh viện để chăm bà, tất nhiên là thế rồi. Các bác sĩ không thấy gì bất thường trừ một vài vết trầy và sưng bình thường. Nhưng bà dì nói rằng bà không thể chờ đến lúc bác sĩ tìm ra cái điều mà bà đã biết. Vì thế mà bà đọc cho mẹ tôi ghi di chúc của bà theo đó mẹ tôi được thừa hưởng một cái ghế sofa ngoài 30 năm tuổi, một cái ti vi đen trắng và vài thứ lặt vặt khác. Khuya hôm đó bà chết vì một cú sốc ngoài dự đoán. Dì Helen định đến thăm vào ngày hôm sau nhưng quá trễ. “Bảo Bảo nói là chúng ta cần phải kiện một triệu đô,” mẹ tôi kể lại. “Con có thể tưởng tượng được không? Xem nó nghĩ thế đấy”. Khi mọi người biết là bà Du đã chết nó cũng chẳng khóc lóc gì, chỉ muốn kiếm tiền từ cái chết của bà thôi. Hừm! Thế đấy. Tại sao mẹ lại không bảo là bà có để lại cho hai cái đèn nhỉ? Có thể mẹ quên điều đó.”
Mẹ tôi dừng lại một chút, “Bà ấy là người tốt. Có 14 vòng hoa cả thảy.” Rồi bà hạ giọng thầm thì, “Tất nhiên mẹ và dì có giảm giá cho mỗi vòng là 20%”.
Mẹ tôi và dì Helen chung nhau cửa hàng hoa Đinh Hồ trên đường Ross Alley ở Chinatown. Họ bắt đầu hợp tác làm ăn từ 25 năm trước, ngay sau cái chết của cha tôi và sau khi dì bị thôi việc. Tôi đồ rằng một cách nào đó cửa hàng hoa này trở thành giấc mơ có thể xua đuổi tai họa.
Mẹ tôi đã dùng tiền quyên góp của nhà thờ Tin lành Trung Hoa, nơi cha tôi đã làm mục sư ở đó. Còn dì Helen thì dùng tiền bà để dành khi còn làm việc ở một cửa hàng hoa khác, nơi bà đã học được cách buôn bán. Đó cũng là nơi đã cho bà nghỉ việc, bởi vì bà quá “thẳng thắn” như bà đã tiết lộ lí do, mặc dù mẹ tôi ngờ rằng đó là vì dì Helen luôn xúi khách của bà mua những bó hoa rẻ nhất để tiết kiệm tiền.
“Đôi khi anh thấy tiếc rằng anh đã làm rể một gia đình Trung Hoa,” Phil nói thế khi anh biết rằng chúng tôi phải đi San Francisco một chuyến đi hàng năm chục dặm từ nhà chúng tôi ở San Jose, một quãng đường tệ hại vì nạn kẹt xe cuối tuần vì các trận bóng đá. Mặc dù anh thật sự quý mến mẹ tôi trong suốt hơn 15 năm chúng tôi chung sống, anh vẫn rất khó chịu với những đòi hỏi của bà. Những ngày cuối tuần với đại gia đình hoàn toàn không phải là điều mà anh ưa thích trong những ngày nghỉ làm ở bệnh viện.
“Em có chắc là chúng ta phải đi không?” Anh hỏi một cách hờ hững. Anh đang bận chơi một chương trình phần mềm mới mà anh vừa cài đặt nó vào máy tính. Anh nhấn vào một phím “Úi chà!” anh kêu lên với màn hình, vỗ tay. Phil đã 43 tuổi, và mới mái tóc ngả màu muối tiêu anh thường gây cho hầu hết mọi người ấn tượng là một người kín đáo và đúng mực. Tuy vậy lúc này anh có cái vẻ bận rộn thuần túy của một chú nhóc đang chơi trò bắn tàu.
Tôi giả vờ rằng tôi cũng bận rộn lắm, đang theo đuổi một chương trình cần sự giúp đỡ. Ba tháng trước đây tôi trở thành một chuyên viên giúp những đứa trẻ gặp khó khăn về nói năng trong một trường quận. Trong khi rất phấn khởi về công việc này tôi cũng thầm lo sợ rằng tôi sẽ mất đi những cơ hội tốt hơn. Chính mẹ tôi đã cấy những ý nghĩ này vào đầu tôi. Ngay sau khi nghe tôi thông báo là tôi đã vượt qua hai ứng viên khác để được chọn vào vị trí này, mẹ tôi kêu lên, “Hai người à? Chỉ có hai người muốn làm việc này thôi ư?”
Giờ thì Phil ngẩng lên khỏi máy vi tính quan tâm nhìn tôi. Tôi biết anh nghĩ gì về “tình trạng bệnh tật” của tôi, như là chúng tôi vẫn gọi, căn bệnh xơ cứng lan tỏa, một căn bệnh không làm tôi suy nhược nhưng rất dễ làm tôi mệt mỏi. “Sẽ là một kỳ nghỉ căng thẳng đấy,” anh nói. “Hơn nữa anh nghĩ em không chịu đựng nổi cậu em họ Bảo Bảo của em đâu. Đấy là chưa kể đến việc Mary nữa. Chúa ôi thật là kinh khủng.”
“Hừm!”
“Vậy em có thể bỏ qua chuyện này không?”
“Hừm!...”
Anh thở dài. Thế là kết thúc cuộc thảo luận. Qua bao nhiêu năm chung sống, chúng tôi đã học được cách dẹp sang một bên chủ đề về gia đình tôi và nhiệm vụ của tôi. Nó đã từng là địa hạt gây nên những cuộc cãi cọ giữa vợ chồng tôi. Khi chúng tôi mới cưới, Phil vẫn thường nói rằng tôi bị chi phối bởi một lòng tận tụy mù quáng cho sự sợ hãi và tội lỗi. Tôi đã cho là anh ích kỉ, rằng những chuyện mà người ta làm trong đời đôi khi chẳng có liên quan gì đến sự vui thú hoặc hài lòng cả. Sau đó thì anh lại nói là cái lí do duy nhất mà chúng tôi phải đi là tôi bị kích thích bởi ý nghĩ là tôi không có sự lựa chọn nào cả và rằng tôi đang làm chính điều đó với anh. Sau đó thì đứa con đầu lòng của chúng tôi, Tessa, ra đời và năm sau thì tôi lại bị bệnh. Nội dung các cuộc cãi cọ của chúng tôi thay đổi. Chúng tôi không còn hăng hái đấu nhau về những sự khác nhau có tính chất triết học có khả năng lựa chọn của cá nhân nữa, có lẽ là bởi vì Phil lúc này có ý thức về bổn phận với đứa trẻ, cũng như là đối với tôi, hay ít nhất thì cũng là đối vơi “tình trạng bệnh tật của tôi”. Vì thế mà vấn đề những lựa chọn cá nhân trở nên lắt léo hơn, là một gánh nặng phải giữ, cho đến khi nó tự trôi qua cũng như những chuyện như là hút thuốc lá, ăn thịt bê và đeo đồ sứ vậy.
Dạo này chúng tôi có vẻ hay cãi cọ về những chuyện nhỏ hơn và cụ thể hơn, ví dụ tôi có nên cho phép Tessa xem thêm nửa tiếng truyền hình nữa không, nói chung các cuộc tranh luận đi không ra ngoài thái độ khác nhau của chúng tôi đối với vấn đề nguyên tắc và cuối cùng chúng tôi hầu như luôn đồng ý với nhau – có lẽ là quá sẵn lòng nữa bởi vì chúng tôi biết rõ hậu quả của phần lớn các cuộc tranh luận.
Và cuộc sống trở nên dễ chịu hơn, dễ chịu như chúng tôi có thể cố gắng làm như thế mặc dầu đôi khi nó làm tôi buồn chán. Thực tế thỉnh thoảng tôi ước rằng, chúng tôi lại trở về những ngày xưa khi Phil tranh luận còn tôi có thể bảo vệ ý kiến của mình và thuyết phục ít nhất với bản thân tôi rằng tôi đúng. Chứ không như bây giờ, ví dụ ngày hôm nay – tôi cũng không chắc là tại sao tôi phải thực hiện những bổn phận này với gia đình. Trong khi tôi chẳng bao giờ thừa nhận điều đó với Phil, tôi trở nên căm ghét những bổn phận. Tôi không muốn gặp gia đình Công; đặc biệt là Mary và mỗi khi tôi ở bên mẹ, tôi có cảm tưởng như là tôi mất toàn bộ thời gian để tránh vấp phải mìn.
Vì thế chính cái cảm giác có lỗi với Phil và giận dữ với chính mình đã khiến tôi làm điều này: tôi đợi cho đến ngày hôm sau mới nói với Phil rằng chúng tôi phải ở lại qua đêm – để dự đám tang của bà dì Du.
Cho những ngày cuối tuần kinh khủng, Phil và tôi quyết định đi đến thành phố sớm hơn để ổn định mọi chuyện, có thể dẫn bọn trẻ đi sở thú. Ngày hôm trước chúng tôi có cuộc tranh luận lịch sự với mẹ tôi về việc chúng tôi sẽ ngủ ở đâu.
“Mẹ thật chu đáo,” Phil nói một cách ôn hòa với mẹ tôi qua điện thoại, “nhưng chúng con đã đăng kí khách sạn rồi.” Tôi cầm một ống nghe khác, cảm thấy sung sướng rằng anh đã gọi điện thoại và đưa ra lí do.
“Khách sạn nào?” Mẹ tôi hỏi. “Ở TraveLodge,” Phil nói dối, thực ra chúng tôi đăng kí ở Hyatt.
“Ôi, tốn tiền lắm!” mẹ tôi kết luận. “Tại sao lại phí tiền như vậy? Các con có thể ở nhà mẹ mà, có nhiều phòng trống lắm”.
Phil đã từ chối một cách duyên dáng, “Ồ không, không. Có nhiều rắc rối lắm. Thật thế.”
“Rắc rối cho ai?” mẹ tôi hỏi.
*
Còn bây giờ thì Phil đang sắp đặt cho bọn con gái vào trong căn phòng trước đây dành cho em trai tôi. Đó là nơi mà chúng thường ở lại mỗi khi Phil và tôi đi dự một hội nghị về y học, thực tế là thỉnh thoảng chúng tôi nói đó là một hội nghị y học nhưng sau đó chúng tôi trở về nhà làm những công việc nhà mà chúng tôi không có khả năng hoàn thành khi có bọn trẻ xung quanh.
Phil quyết định rằng Tessa lên tám tuổi sẽ ngủ ở giường cá nhân, Cleo ba tuổi sẽ ngủ trong cũi. “Đến lượt con ngủ giường cơ,” Cleo kêu lên, “Ha-bu bảo thế.”
“Nhưng Cleo,” Tessa diễn giải, “em thích ngủ ở cũi mà.” “Ha-bu”, Cleo gọi mẹ tôi đến cứu nó.
Phil và tôi thì ở trong phòng cũ của tôi vẫn còn đầy những đồ đạc cũ kĩ. Tôi đã không ở đây từ ngày tôi lấy chồng. Trừ một điều là tất cả đều sạch sẽ, căn phòng vẫn y hệt như lúc tôi vẫn còn là một đứa trẻ, cái giường đôi với cái khung và bộ chân nặng nề, một cái bàn trang điểm với một cái kính tròn và những đường nét chạm trổ có cẩn hạt trai. Thật là buồn cười, tôi đã ghét cái bàn này biết bao, bây giờ thì trông nó rất đẹp với nghệ thuật trang trí của nó. Tôi tự hỏi không biết mẹ có chịu sang tên cho tôi không.
Tôi nhận thấy bà đặt đôi dép lê cũ kiểu Trung Quốc của tôi ở dưới gầm giường, một loại dép có một quai xỏ ngón chân cái; chẳng có gì vứt đi cả, đề phòng trường hợp là nó còn cần đến có thể là sau 20 năm nữa. Tessa và Cleo chắc là đã lục lọi cái tủ này, đã moi móc tất cả những thứ đồ đạc linh tinh trong những cái hộp này. Rải rác quanh những đôi dép lê là những con búp bê bằng vải, một cái mũ miện dát đá và một cái hộp bằng plastic đựng đồ trang sức với dòng chữ “Những kho báu bí mật của tôi” trên nắp hộp. Trên cánh cửa vẫn còn treo tấm ảnh lố bịch nhại theo kiểu một ngôi sao Hollywood tôi chụp hồi lớp 6, viết tên tôi P-E-A-R-L trong một cái vòng đeo cổ bằng plastic.
“Ồ,” Phil nói giọng ấm ớ, “thế mà ở đây lại còn khá hơn ở đằng TraveLodge đấy.” Tôi đập vào chân anh. Còn chồng tôi thì vỗ vào những chiếc khăn tắm không đồng bộ dành cho khách trải trên giường. Những chiếc khăn này là quà Giáng sinh của nhà Công khi nhà tôi rời Chinatown đến quận Richmount, như vậy có nghĩa là nó đã ra ngoài 30 năm rồi.
Còn bây giờ thì Tessa và Cleo ùa vào phòng chúng tôi, la lên rằng chúng đã sẵn sàng đi sở thú rồi. Phil sẽ đưa chúng đi, trong khi tôi đến tiệm hoa Đinh Hồ giúp một tay, nhưng mẹ tôi đã nói với giọng cộc lốc rằng dì Helen đã rời khỏi cửa hàng từ sáng sớm để chuẩn bị cho bữa tiệc - thay cho một sự thật là có quá nhiều việc phải làm ở cửa hàng hoa vì ngày mai là đám ma của bà dì Du. Sau đó mẹ nhắc nhở tôi rằng bà dì luôn tự hào về tôi – trong gia đình chúng tôi thì chữ “tự hào” có một cái nghĩa gần với từ “yêu”. Mẹ tôi gợi ý là tôi cũng nên đến viếng sớm với một vòng hoa đẹp.
“Em sẽ về nhà lúc 5 giờ rưỡi.” Tôi nói với Phil. “Con muốn xem voi châu Phi,” Tessa vừa nói vừa nhún nhẩy trên giường chúng tôi. Sau đó thì nó đếm những ngón tay. “Rồi gấu túi và những động vật có xương sống loài ăn kiến này và cả cá voi lưng gù nữa.” Tôi luôn luôn ngạc nhiên không hiểu là nó lượm lặt được ở đâu cái danh sách những con vật này – từ Phil chăng? Hay từ tôi? Hay từ tivi?
“Con phải nói, “Xin vui lòng” nghe chưa,” Phil nhắc con gái, “và ba không nghĩ là có cá voi trong sở thú”.
Tôi quay về phía Cleo. Đôi khi tôi lo lắng rằng con bé sẽ trở nên thụ động, nhút nhát dưới cái bóng của cô chị lớn quá tự tin.
“Con muốn xem gì?” Tôi âu yếm hỏi bé. Nó nhìn xuống chân, tìm một câu trả lời. “Dingbats,” cuối cùng nó nói.
Khi tôi quay lại đường Ross Alley, mọi vật chung quanh tôi lập tức trở nên yên tĩnh. Không còn cái nắng quái chiều hôm và những âm thanh rộn rã ở hai bên đường với những người mua kẻ bán tấp nập vào chiều thứ Bảy ở Chinatown nữa. Các âm thanh hai bên đường nhỏ đi, nhanh chóng tan xa, những tia nắng nhạt dần gần như là màu xanh hư ảo.
Phía bên tay phải vẫn là tiệm hớt tóc ngày xưa của A Phúc, người mà tôi nhận thấy vẫn dùng tông đơ điện để cạo tóc mai cho khách hàng. Dọc theo hai bên đường vẫn là những gia đình, những cửa hiệu buôn bán, kể cả một chỗ lưu giữ những kí ức về tổ tiên ở Trung Quốc với một khoản thù lao. Xa hơn một chút nữa là tiệm của một thầy bói. Một cái biển viết tay treo trên cửa sổ có hàng chữ “Những con số may mắn nhất, những lời khuyên tốt nhất”, có một cái biển khác treo trên cánh cửa cho biết thầy bói đang có khách.
Khi tôi đi qua nhà, cánh cửa đẩy màu vàng bật mở. Bất thình lình một cô gái trẻ hiện ra, tay cô miết lên cửa kính. Cô nhìn tôi chằm chằm với một vẻ mặt buồn bã. Tôi vẫy tay với cô nhưng cô không vẫy trả. Cô bé nhìn tôi như thể tôi không thuộc về nơi này.
Và bây giờ thì tôi đang ở Công ty thương mại Tam Phúc, cách cửa hàng hoa của mẹ tôi vài nhà. Hàng dãy kệ đặt bùa may mắn, tượng bằng gỗ hoặc bằng sứ của các vị thần may mắn, hàng trăm bức tượng. Tôi đã gọi đây là cửa hàng của các vị thần từ khi tôi bắt đầu có kí ức. Nó cũng bán những thứ người ta dùng trong một đám tang theo nghi thức Phật giáo – giấy tiền vàng bạc, đồ trang sức hàng mã, nhang đèn và những thứ khác.
“Chào Pearl!” Ông chủ Hồng vẫy tay mời tôi vào. Lần đầu tiên gặp ông, tôi cứ tưởng tên ông là Tam Phúc, giống như tên cửa hiệu. Sau này tôi biết rằng Tam Phúc có nghĩa là “ba lần được chúc phúc” trong tiếng Quan thoại cổ, theo mẹ tôi – hoặc là những khách hàng Hồng Kông – thì tam phúc lại có nghĩa như đùa, giống như nói “ba người loong toong”. “Mẹ đã bảo ông ta phải đổi tên đi,” mẹ có lần bảo, “sẽ may mắn hơn”. Nhưng ông ta nói ông ta buôn may bán đắt lắm rồi.”
“Này Pearl,” ông chủ Hồng nói khi tôi bước vào cửa hàng. “Tôi có mấy món cho mẹ cô ở đây, cho đám ma ngày mai ấy mà. Cô mang về cho bả được không?” “Dạ được.” Và ông đưa cho tôi một gói giấy. Tôi nghĩ rằng đám ma của bà dì sẽ theo nghi thức Phật giáo. Mặc dù bà đã gia nhập giáo hội Tin lành Trung Hoa một vài năm, nhưng cả bà lẫn mẹ tôi đều thôi không đi nhà thờ ngay sau khi ba tôi mất. Dù sao, tôi cũng không nghĩ là bà từ bỏ niềm tin của bà, một tín ngưỡng mà chưa hẳn đã thuộc Phật giáo, chỉ là những nghi thức mê tín liên quan đến những vị thần phước thiện và việc tránh những việc xấu. Mỗi khi đến căn hộ của bà, tôi thường chơi đồ hàng với bàn thờ ở nhà bà, một đền thờ đỏ thu nhỏ đựng một bức tranh lồng khung một vị thần Trung Hoa. Trước ảnh thờ là một bình đựng tro giả bằng đồng thau cắm đầy chân nhang, một bên đặt những trái cam cúng với những gói thuốc lá, một chai rượu uytxki loại nhỏ như trên máy bay, hiệu Johnie Walker nhãn đỏ. Nó thu nhỏ một quang cảnh Trung Hoa như trong một nhà trẻ vào ngày Giáng sinh.
Giờ thì tôi bước vào cửa hàng hoa. Nó nằm ở tầng trệt một tòa nhà xây bằng gạch cao ba tầng. Cửa hiệu có kích thước bằng một gara chứa một chiếc xe, trông vừa buồn tẻ, vừa quen thuộc. Phía trước là một cái cửa viền đỏ được chăng lưới chống trộm. Trên cửa sổ có một tấm biển “Cửa hàng hoa Đinh Hồ” bằng tiếng Anh và tiếng Hoa. Nhưng cái biển này khuất khỏi tầm nhìn – bởi vì ngôi nhà hơi thụt vào một chút – cửa hàng trông lúc nào cũng tối tăm âm u, như là nó đang đóng cửa vào lúc này. Vì thế mà cái địa điểm kinh doanh của mẹ tôi và dì Helen không phải là điểm kinh doanh tấp nập, tuy họ đã cố gắng để mọi việc đâu vào đấy theo một cung cách rất đặc biệt. Sau rất nhiều năm họ hầu như đã chẳng làm gì để theo kịp thời đại hay là làm cho cửa hàng trở nên hấp dẫn hơn. Tôi mở cửa, những cái chuông ngân lên, ngay lập tức tôi ngửi thấy mùi hoa dành dành, một cái mùi luôn làm tôi liên tưởng đến các đám ma. Trong phòng tối mờ mờ, chỉ có một ngọn đèn huỳnh quang gắn ở bên trên máy tính tiền – chỗ mà mẹ tôi đang đứng trên một cái ghế đẩu thấp nhỏ để mẹ tôi có thể nhìn qua quầy, một cái kính lão mua ở hiệu đồ cũ gắn trên mũi bà.
Bà đang nói chuyện điện thoại liến thoắng bằng tiếng Tàu và sốt ruột vẫy tay mời tôi vào đợi bà. Tóc bà búi thành một búi cao cuộn trong một tấm lưới, không một sợi tóc vương ra ngoài. Bây giờ cái lưới tóc đã được làm sao cho trông nó dày hơn với một món tóc giả - cái đuôi ngựa – như bà vẫn thường gọi, bà chỉ dùng đến trong những dịp long trọng.
Bây giờ tôi có thể nói căn cứ vào cái giọng rít lên và nhấn mạnh những âm gió “vuh-vuh-vuh” rằng bà đang tranh luận bằng tiếng Thượng Hải chứ không chỉ là tiếng Quan thoại đơn giản. Có chuyện nghiêm trọng đây. Chắc là nó có liên quan đến người cung cấp hoa, căn cứ vào cách bà bấm vào chiếc máy tính bỏ túi sau đó đọc to những con số trên máy tính bằng một giọng gay gắt như thể điều đó có ghi trong bộ luật hình sự. Bà ấn vào nút “No sale” trên máy tính tiền và khi ngăn kéo của nó mở bà lôi ra một tờ giấy biên nhận xếp tư, vẫy cho nó mở ra với một cử động của cổ tay sau đó lại đọc to con số lên “Vuh! Vuh! Vuh!” bà cự lại. Máy tính tiền chỉ dùng để cất những thứ linh tinh hay như mẹ tôi gọi là những đồ tầm tầm. Máy đã bị hỏng, lần đầu tiên khi mẹ tôi và dì Helen mua ở hiệu về lắp đặt họ đã sớm nhận ra là bất cứ khi nào tính tiền nó cũng cộng thêm con số 9 vào còn những chức năng khắc thì chẳng xài được. Dù vậy họ vẫn quyết định giữ lại cái máy đó, “để đánh lừa bọn chúng” như mẹ tôi đã giải thích như thế. Nếu họ bị cướp, mà điều này chưa từng xảy ra, thì tên cướp chỉ lấy được 4 đô và một vài xu lẻ, toàn bộ số tiền này để trong ngăn kéo. Còn tiền bán hàng thì được giấu ở bên dưới quầy, trong một chiếc ấm trà với cái vòi đã hai lần bị mẻ và phải gắn lại, một cái ấm sứt vòi đặt trên một cái mâm. Tôi đoán rằng đó là một mẹo lừa vì chẳng có kẻ nào lại muốn ăn cướp ở một cửa hiệu chỉ có trà nguội thôi.
Một lần tôi nói với mẹ tôi và dì Helen rằng một tên cướp sẽ không khi nào tin là một cửa hiệu mà chỉ có vỏn vẹn 4 đô la trong két. Tôi nghĩ rằng họ cũng nên đặt vào đấy 20 đô để cho nó có tính thuyết phục. Nhưng mẹ tôi cho 20 đô là quá nhiều để cho một tên cướp. Còn dì Helen thì nói rằng dì sẽ phát bệnh vì mất một món tiền như thế, vậy thì cái mẹo của tôi có ích gì?
Có lúc tôi đã nghĩ đến việc đưa cho họ 20 đô để chứng minh quan điểm của mình. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, quan điểm gì mới được chứ? Và bây giờ khi nhìn quanh gian hàng một lần nữa tôi nhận ra rằng có thể họ đúng. Ai mà thèm vào ăn cướp ở một nơi mà tiền kiếm được không nhiều hơn tiền vé xe đò? Không, chỗ này chỉ nên phòng chống trộm theo cách của nó.
Sàn nhà ở đây cũng vẫn có cái màu xám đơn điệu 25 năm về trước, nay mới được sửa sang đánh bóng lại. Quầy hàng được phủ cùng một loại khăn giấy, những khung tre trắng và xanh lá cây ở hai bên rừng cây ở phía trên. Ngay cả cái máy điện thoại mẹ tôi đang dùng để nói chuyện cũng là một cái máy màu đen cổ lỗ sĩ với số quay tròn, dây bằng sợi tổng hợp không thể cuộn lại và kéo ra được. Trong suốt những năm qua, bức tường màu trắng đã ngả màu vàng xỉn, lồi lõm, bây giờ lại bị nứt nẻ từ cuộc động đất năm 89. Vì thế mà chốn này nom cũ kĩ, hoang tàn và ẩm thấp. “Hảo hảo”, tôi nghe mẹ tôi nói. Bà dường như đã đạt được một thỏa thuận nào đó với người cung cấp hoa, cuối cùng bà đặt ống nghe xuống. Mặc dù đã không gặp nhau từ lễ Giáng sinh gần một tháng trước đây, chúng tôi cũng không ôm hôn như tôi và Phil vẫn làm khi chúng tôi gặp cha mẹ hoặc bạn bè anh. Thay vì thế mẹ tôi bước ra khỏi quầy lẩm bẩm: “Con có thể tưởng tượng được không? Tay này tính lừa dối mẹ! Đòi mẹ trả thêm tiền chuyên chở.” Bà chỉ vào một cái hộp đựng những dây nhợ, giấy bóng kính trong và giấy gói hoa, “đâu có phải lỗi tại mẹ nếu hắn quên đến tuần trước”.
“Thêm bao nhiều tiền?” tôi hỏi. “Ba đô,” bà kêu lên. Tôi không bao giờ hết ngạc nhiên bởi sự tiêu hao xúc cảm của mẹ tôi vì một vài đồng đô la. “Tại sao mẹ không quên chuyện đó đi, có ba đô thôi mà.”
“Mẹ không chỉ quan tâm đến tiền!” bà cáu. “Hắn đã lừa mẹ. Điều đó là không được. Tháng trước hắn cũng có cộng thêm một khoản nữa.” Tôi có thể nói là bà định lao vào chuyện kể cho tôi nghe cuộc đấu khẩu tháng trước, thì hai phụ nữ ăn mặc lịch sự, tóc vàng ngó vào.
“Cửa hàng có mở không ạ? Có ai nói được tiếng Anh không?” một người hỏi bằng giọng Texas nặng trịch. Khuôn mặt của mẹ tôi bỗng tươi lên và bà gật đầu vẫy tay mời họ vào. “Mời vào, mời vào,” bà gọi.
“Ồ không dám làm phiền các bà.” Một người nói. “Các bà có thể bảo cho tôi biết cửa hàng bánh kẹo ở đâu không?”
Trước khi tôi có thể trả lời thì mặt mẹ tôi đã xụ xuống, bà lắc đầu nói, “Không hiểu, không biết nói tiếng Anh”.
“Tại sao mẹ lại nói thế?” tôi hỏi sau khi hai phụ nữ đã rút lui. “Con không biết là mẹ lại ghét những người khách du lịch như vậy.”
“Không phải là khách du lịch,” mẹ tôi nói, “mà là bà bán bánh kẹo ấy. Một lần bà ta chơi xấu mẹ. Vậy thì tại sao mẹ phải dẫn khách đến cho bà ta.”
“Trời ơi, buôn với bán ở đây!” Tôi cố gắng tránh cho câu chuyện không đến chỗ bùng nổ về bà bán kẹo bánh ở dưới phố.
“Khiếp chưa?” Bà nói, chỉ vào những sáng kiến của bà quanh cửa hàng, “mẹ bận quá, bận đến chết đi được với bao nhiêu là việc, con xem chỉ trong sáng nay mà mẹ đã làm được ngần này việc.”
Tôi nhìn quanh, ở đây không có những lẵng hoa hay bó hoa kiểu dáng hiện đại. Mẹ tôi mở cửa kính một tủ lạnh trước vẫn dùng để chứa những lon soda và bia.
“Con thấy không?” Bà nói, chỉ vào một cái ngăn với những bó hoa nhỏ kết bằng hoa cẩm chướng sắp đặt rất khéo với các màu trắng, hồng và đỏ. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi sẽ đính những bó hoa này tối nay.
“Còn đây,” bà tiếp tục. Ngăn thứ hai đầy những lọ thủy tinh màu sữa mỗi cái cắm một nụ hoa hồng thêm một ít hoa baby nho nhỏ, đó là một loại hoa người ta thường tặng cho những người nằm viện, những người chuẩn bị cho một cuộc giải phẫu mà bạn không biết là họ sẽ nằm viện trong bao lâu. Ba tôi đã nhận được rất nhiều những lọ như thế này trước khi ông chết. “Rất thông dụng,” mẹ tôi nói, “cái này nữa, mẹ cũng tự làm đấy.”
Ngăn dưới cùng chứa khoảng nửa tá những bình xịt bàn nhỏ. “Cho tối nay đấy, dành cho sau bữa ăn tối”, mẹ tôi giải thích, có lẽ bởi vì điều đó không gây ấn tượng mạnh cho tôi, bà lại thêm, “cho người phụ trách quản lí ở Wells Fargo.”
Bà dẫn tôi đi xem những sản phẩm bà tự làm lấy để phía trong. Dọc theo những bức tường là những vòng hoa tang lớn có khung, “Thế nào?” mẹ tôi hỏi, chờ ý kiến của tôi. Với tôi những vòng hoa này bao giờ cũng gợi nên một nỗi buồn gớm guốc giống như những phao cứu sinh đẹp đẽ được quăng xuống quá trễ.
“Đẹp lắm!” tôi nói.
Giờ thì bà khoe với tôi niềm vui và tự hào thực sự của bà. Ngay trước cửa hàng, cái chỗ duy nhất có ánh nắng chiếu vào một vài giờ một ngày là “sự mặc cả lâu dài” như bà gọi những chậu cảnh: những cây cao su, cỏ chân gà và những cây tắc cảnh, những chậu này được trang hoàng với những dải băng màu đỏ chúc mừng một công việc làm ăn nào đó trong ngày khai trương.
Bao giờ bà cũng tự hào về những băng giấy đỏ này. Bà không viết những câu chúc mừng chung chung như là “Chúc may mắn” hay là “Thịnh vượng và trường thọ.” Tất cả những lời chúc tụng viết chữ Tàu bằng nhũ vàng này đều là cảm hứng sáng tạo riêng của bà, là suy nghĩ của bà về sự sống và cái chết, may mắn và hi vọng như “Cuộc đời tốt đẹp nhất đang chờ đứa con đầu lòng của bạn”, “Hạnh phúc nhân đôi cho đám cưới, của cải nhân ba cho gia đình”, “Tiền bạc tỏa mùi thơm trong căn nhà mới của bạn”, “Sức khỏe mau trở lại, đừng để hi vọng sớm ra đi.”
Mẹ tôi nói rằng những câu chúc này là lí do tại sao tiệm hoa Đình Hồ buôn may bán đắt trong những năm qua. Với câu buôn may bán đắt tôi cho rằng bà muốn nói bà giữ được khách trong suốt 25 năm qua. Chỉ có điều bây giờ càng ngày càng ít những cô dâu e lệ, những chú rể choáng váng vì hạnh phúc và càng ngày nhiều hơn những người ốm, những người già và những người chết.
Mẹ tôi cười ranh mãnh rồi nắm lấy khuỷu tay tôi.
“Bây giờ thì mẹ sẽ cho con xem cái vòng hoa mà mẹ đã làm cho con”.
Tôi giật mình rồi nhận ra bà đang nói gì. Bà mở cửa đi về phía sau cửa hàng. Nó tối như hũ nút, tôi chẳng nhận thấy gì trừ mùi hoa tang. Mẹ tôi giật một sợi dây bật điện, cuối cùng căn phòng sáng lên nhờ bóng điện tròn đưa qua đưa lại trên sợi dây treo ở cửa. Bây giờ tôi có thể nhìn căn phòng đẹp kinh khủng như thế nào, hàng dãy những vòng hoa ánh lên dưới ánh đèn là hoa dành dành trắng và cúc vàng, băng giấy màu đỏ chạy ngang qua khung, trông thật giống cách phục sức của một tiên đồng.
Tôi hơi bất ngờ vì lao động nặng nhọc đã bỏ ra cho những vật biểu trưng này. Tôi hình dung đôi tay bé nhỏ của mẹ tôi với làn da mỏng như giấy, mạnh mẽ tước những chiếc lá, chiếc gai, gắn chúng vào những sợi dây thép và xếp lên đó những bông hoa, bông nào bông nấy phải được đặt đúng vị trí.
“Cái này,” mẹ tôi chỉ vào vòng hoa đặt giữa hàng thứ nhất, trông nó cũng giống như những vòng hoa khác. “Nó là của con. Mẹ đã viết lên đây những ước nguyện của mẹ.”
“Nó viết cái gì ạ?”
Ngón tay mẹ đi xuống dưới dải băng đỏ khi bà đọc dòng chữ Tàu mà tôi không hiểu. Sau đó bà dịch sang tiếng Anh. “Vĩnh biệt bà, hãy yên nghỉ trên thiên đường. Cháu gái yêu quý của bà, Pearl Louie Brandt và chồng.”
“Ôi con suýt quên mất.” Tôi đưa cho mẹ tôi gói giấy từ cửa hiệu Tam Phúc. “Ông Hồng đưa cho mẹ cái này.”
Mẹ tôi gỡ sợi dây, mở cái hộp giấy ra. Bên trong là một mớ tiền âm phủ, những đồng tiền mà bà dì có thể dùng hối lộ để đi qua cổng thiên đường của người Hoa. “Con không biết là mẹ tin vào những thứ này đấy,” tôi nói.
“Tin hay không không biết,” mẹ tôi bực mình nói, “đây là sự tôn trọng tín ngưỡng.” Rồi mẹ tôi hạ giọng dịu dàng. “Mẹ gửi cho bà 100 triệu đô. Phải, bà là một người tốt.”
*
“Nào chúng ta đi,” tôi nói, hít một hơi dài khi chúng tôi leo lên cầu thang đi vào phòng đãi tiệc.
“Pearl! Phil! Hai em đây rồi,” cô chị họ Mary kêu lên. Tôi đã không gặp chị hai năm qua từ khi chị và Doug chuyển đến Los Angeles. Chúng tôi đợi Mary đi ngang qua đám người dự tiệc. Cô nhào về phía chúng tôi, tặng tôi một cái hôn, sau đó xoa xoa vào má tôi và cười dưới lớp phấn hồng dày cộp trên mặt.
“Em trông tuyệt lắm!” Cô bảo tôi, rồi quay sang nhìn Phil, “Thật thế, cả hai em… trông tình cảm lắm.”
Mary chắc là 41 tuổi, lớn hơn tôi 6 tháng. Chị ta trang điểm rất đậm, đeo cả lông mi giả nữa, tóc được chải thành từng lọn xịt keo cứng ngắc. Một khăn choàng lông cáo màu bạc vắt vẻo trên vai chị. Khi sửa lại nó lần thứ ba, chị ta cười nói, “Doug tặng chị cái này trong ngày Giáng sinh đấy. Ôi chán chết!” Tôi tự hỏi tại sao lại chán. Bây giờ chúng tôi đã ở trong nhà hàng. Nhưng Mary là như vậy, người con lớn nhất trong hai gia đình và một vẻ ngoài hào nhoáng của sự thành đạt bao giờ cũng là điều tối quan trọng đối với chị. “Jennifer, Michael”, chị gọi, bật bật ngón tay. “Lại đây nào, lại đây chào dì, dượng đi.” Chị ta đẩy hai thiếu niên về một bên và bóp cánh tay chúng. “Nào, các con nói gì?” Hai đứa nhìn chúng tôi với vẻ mặt bí xị, mỗi đứa lí nhí câu gì đó trong miệng rồi khẽ gật đầu với chúng tôi.
Jennifer tròn múp míp trong khi đôi mắt đen của nó lại ti hí với cái nhìn khó đăm đăm. Nó cột một món tóc trên đỉnh đầu bằng một dải băng, mớ tóc còn lại đổ xuống lưng. Trông nó có vẻ gò bó, còn khuôn mặt của Michael thì có hình tam giác nhọn với cái cằm đầy mụn trứng cá. Chúng chẳng còn vẻ dễ thương hồi còn thơ bé. Tôi tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với Tessa và Cleo nếu chúng cũng như thế này vào cái tuổi ấy. “Em xem chúng thế đấy.” Mary nói vẻ có lỗi, “Jennifer đã có áo nylon và giày cao gót Giáng sinh vừa rồi. Nó tự hào lắm, không còn là con gái bé bỏng của mẹ nữa rồi.”
“Ôi mẹ!” Jennifer vùng vằng, rồi giằng ra khỏi cái nắm tay của mẹ chạy biến vào đám đông. Michael cũng đi theo nó. “Xem kìa, Michael cao gần bằng Doug phải không?” Mary hỏi tự hào ngắm nhìn cậu ấm khi nó bỏ đi. “Nó ở trong đội tuyển của trường, ông huấn luyện viên bảo nó là chân chạy xuất sắc nhất đấy. Chị không biết là nó thừa hưởng chiều cao ở đâu cũng như là khả năng thể thao của nó – chắc chắn là không phải từ chị rồi. Mỗi khi thử chạy bộ thì chị sẽ chạy về với cái chân cà nhắc.” Mary vừa cười vừa nói. Rồi khi nhận ra rằng chỉ có chị cười nói nãy giờ, chị bèn tắt ngay nụ cười trên môi và nhìn vào đám đông.
“Kìa bố mẹ chồng chị đến. Chị phải đến chào họ một tiếng”.
Phil xiết chặt tay tôi, dù rằng tôi chẳng nói gì, anh biết là tôi đang sôi lên. “Bỏ chuyện đó đi,” anh nói.
“Em sẽ cố,” tôi đáp, “nếu chị ta muốn thế. Chị ta bao giờ cũng vậy mà.”
Khi tôi và Phil làm đám cưới, thì Mary và Doug là những người quan trọng bởi vì họ làm mối cho chúng tôi. Họ là những người đầu tiên chúng tôi thổ lộ cho biết là tôi đang mang bầu Tessa. Khoảng 7 năm về trước Mary đã đẩy tôi đến lớp học thể dục nhịp điệu, lúc tôi than phiền là tôi thường cảm thấy mệt. Sau đó khi tôi cảm thấy có một cảm giác mỏi lạ lùng ở chân phải thì Phil khuyên tôi đến gặp Doug lúc đó đang làm bác sĩ chỉnh hình ở một trung tâm y khoa thể thao.
Vài tháng sau, Doug bảo tôi rằng vấn đề của tôi dường như có chuyện gì khang khác, lúc đó tôi kinh hoàng nghĩ rằng anh ta bảo tôi bị ung thư xương. Doug trấn an tôi rằng anh chỉ muốn nói là anh không đủ chuyên môn để đưa ra kết luận. Sau đó anh giới thiệu tôi với người bạn cũ từ ngày còn ở trường Đại học, một bác sĩ thần kinh giỏi nhất ở trung tâm Y khoa San Francisco. Sau một năm xét nghiệm, và sau khi tôi đã tự thuyết phục được mình rằng sự mỏi mệt của tôi là do việc hút thuốc, còn cái chân là di chứng để lại sau lần mang thai – thì ông bác sĩ bảo là tôi mắc chứng xơ cứng lan tỏa. Mary khóc òa lên khi nghe tin đó, rồi cố gắng trấn an tôi, làm cho tôi cảm thấy còn tồi tệ hơn. Một lát sau, chị lảm nhảm nói về một món ăn nào đấy mà chị ta chỉ tình cờ tìm ra công thức nấu ăn tuyệt vời của nó, cho đến khi tôi phải bảo chị im đi. Rồi sau đó nữa thì chị làm một màn lâm li trong khi nói với tôi rằng bạn của Doug đã làm chị an tâm rằng bệnh của tôi “thực sự không có gì đáng ngại” cứ như thể chị ta nói chuyện về thời tiết, rằng cuộc sống của tôi sẽ không có gì thay đổi và rằng ở tuổi 70 tôi vẫn có thể tham gia câu lạc bộ chơi golf và vẫn chơi giỏi ra trò mặc dù tôi phải cẩn thận tránh những căng thẳng cả về mặt tinh thần lẫn thể xác.
“Thật thế mà, mọi chuyện đều bình thường,” chị nói với một sự vui vẻ gượng gạo “trừ một chuyện là Phil sẽ dễ chịu với em hơn. Có chuyện gì không ổn đâu nào?”
“Em không chơi golf,” đó là tất cả những gì tôi có thể nói.
“Chị sẽ dạy em,” chị nói một cách vui vẻ. Tất nhiên, Mary chỉ cố làm ra vẻ tốt bụng thôi. Tôi phải thừa nhận rằng cũng có lỗi của tôi một phần trong cái chiều hướng tình cảm bị xấu đi của chúng tôi. Tôi chưa bao giờ nói thẳng với chị rằng cái kiểu thương cảm của chị ta đã làm tôi buồn bực như thế nào. Vì thế tất nhiên chị ta không biết rằng tôi không cần ai an ủi hết. Tôi không cần chăm chút bằng một món ăn nào hết. Lòng tốt là một sự đền bù. Lòng tốt là một cái gì nhắc nhở là đời tôi đã thay đổi. Rằng một người nghĩ là tôi buộc phải chấp nhận tất cả những điều này phải trở nên mạnh mẽ hoặc can đảm hơn hoặc thanh thản nhẹ nhàng hơn. Tôi không muốn những điều ấy. Ngược lại, tôi muốn sống với cùng những mối quan tâm như hầu hết mọi người – lo lắng về chuyện học hành của các con tôi, chứ không phải băn khoăn là tôi có ở bên cạnh chúng khi chúng tốt nghiệp không, vui mừng rằng tôi đã sút vài kí lô mà không phải lo sợ rằng các cơ đang bị teo. Tôi muốn một điều đã trở nên không thể được. Tôi muốn quên.
Tôi rất bực mình vì nỗi Doug và người bạn chén chú chén anh với anh ta đã nói về tình trạng bệnh tật của tôi với Mary. Nếu họ đã nói với chị ta điều đó thì họ cũng ắt nói với chị ta điều này, rằng đây là một căn bệnh không thể tiên liệu được. Tôi sẽ giảm đau trong vòng 10 năm, 20 năm, 30 năm hoặc 40 năm. Hoặc có thể là bệnh bất thình lình tiến triển nhanh vào ngày mai, và ngày càng nhanh hơn, nhanh hơn nữa và cuối cùng là tôi phải ngồi trên xe lăn hoặc là một điều gì còn tệ hơn nữa.
Tôi biết Mary nhận ra điều đó, bởi vì tôi thường bắt gặp chị liếc trộm tôi khi chúng tôi đi ngang qua một người tật nguyền. Một lần chị cười một cách gượng gạo khi chị tìm đường vào một bãi đậu xe hóa ra lại là của người tàn tật. “Ôi!” chị ta nói lùi xa thật xa. “Chúng ta không cần điều này.”
Đầu tiên tôi và Phil đã thề là sẽ sống một cuộc đời bình thường bên nhau suốt đời trong khả năng của chúng tôi, “Bình thường như có thể được” – giống như một lời ca vô nghĩa. Nếu tôi bất thình lình bị trượt té vì một món đồ chơi trên sàn, tôi sẽ phải mất 10 phút xin lỗi Tessa vì đã rầy la nó, sau đó thì phải mất thêm một tiếng đồng hồ nữa để tự hỏi xem một người “bình thường” có thể bị té vì một chuyện như vậy không. Một lần khi chúng tôi đi nghỉ mát ở một bãi biển với mục đích là quên tất cả những chuyện này đi thì trái lại trong tôi chỉ tràn ngập những ý tưởng đen tối. Tôi nhìn những con sóng chạy nhanh ra khỏi bờ, - hỏi Phil rằng không biết liệu đến một ngày nào đó tôi có trở nên bất lực như ngọn rong biển, hay như những con còng trên bãi này không.
Trong khi đó thì Phil đang đọc một cuốn sách giáo khoa cũ của anh, cố tìm một lời giải cho căn bệnh của tôi. Sau đó thì anh cảm thấy thất vọng vì những kiến thức y học của anh không đưa ra được một hiểu biết rõ ràng hơn về một căn bệnh chỉ được miêu tả là “chưa tìm được nguyên nhân”, “biến chuyển rất phức tạp”, “không thể dự đoán được” và “không có biện pháp điều trị đặc biệt”. Anh đã đi dự những hội nghị khoa học về rối loạn thần kinh. Một lần anh cũng đưa tôi đến sinh hoạt với một tổ chức giúp đỡ những người bị bệnh xơ cứng lan tỏa, nhưng chúng tôi quay về ngay khi nhìn thấy những người ngồi trên xe lăn. Anh thực hiện cái gì mà anh gọi là “những kiểm tra an toàn hàng tuần”, kiểm tra phản ứng của tôi, cũng như thăm dò sức căng của bắp chân. Chúng tôi thậm chí còn dọn đến một ngôi nhà có hồ bơi, để tôi có thể luyện tập cơ bắp hằng ngày. Chúng tôi đã không nói toạc ra rằng ngôi nhà thì không có lầu, chỉ có một vài bậc thềm, lối đi thì rất rộng phòng một ngày nào đó có thể nới ra cho một chiếc xe lăn đi qua, nếu cần thiết.
Chúng tôi nói chuyện theo quy ước riêng, như thể chúng tôi thuộc về một giáo phái bí mật, để tìm kiếm một phương pháp chữa trị, hoặc là những triệu chứng mà chúng tôi quan sát được, một lối thoát cho những lo lắng triền miên.
Thực ra chúng tôi học được cách không nói về tương lai, cả những khả năng tồi tệ nhất đến những hi vọng mơ hồ. Chúng tôi không lục tìm trong quá khứ về một loại virút hay mẫu gien di truyền nào gây nên bệnh cho tôi. Chúng tôi chỉ quan tâm đến ngày hôm nay, những chiến công nho nhỏ trong cuộc sống bừa bộn, những chuyện bực mình lặt vặt – tập cho Tessa thói quen vệ sinh cá nhân, phát hiện ra sai sót trong biên lai tính tiền, tìm ra nguyên nhân tại sao xe hơi của chúng tôi lại kêu xình xịch một cách yếu ớt khi chúng tôi vào số 3. Những chuyện như vậy trở thành vấn đề thông thường của chúng tôi, những thứ mà chúng tôi có thể tách ra và kiểm soát được, một cuộc sống có những bước chuyển khôn lường.
Vì thế tôi không thể đổ lỗi cho Phil khi anh làm bộ như mọi chuyện vẫn bình thường. Tôi cần điều đó hơn anh. Bây giờ tôi không thể nói với anh điều mà tôi thật sự cảm thấy, nó là cái gì. Tất cả những gì mà tôi biết là tôi thức dậy mỗi buổi sáng trong nỗi kinh hoàng sợ rằng có một điều gì đó xảy ra trong giấc ngủ. Đây là những ngày tôi bị ám ảnh rằng nếu như tôi chỉ bị mất một nút áo thì tôi nghĩ rằng cuộc đời của tôi sẽ không thể bình thường được cho đến khi tôi tìm thấy nó. Đây là những ngày tôi nghĩ Phil là người không biết điều nhất trên đời, chỉ bởi vì anh quên mua một món trong danh sách hàng đi chợ. Đây là những ngày tôi sắp xếp ngăn kéo đồ lót của mình theo màu, như thể nó có thể mang đến một sự thay đổi nào đó. Đây là những ngày tồi tệ.
Trong những ngày sung sướng tôi nhớ rằng tôi là một người may mắn, may mắn theo tiêu chuẩn mới. Trong vòng bảy năm qua, tôi chỉ có một cơn bộc phát ghê gớm, điều này giờ đây có nghĩa là tôi dễ dàng mất quân bình, đặc biệt là khi tôi bực tức hay vội vã. Nhưng tôi vẫn đi được. Tôi vẫn mang rác đi đổ. Thỉnh thoảng tôi vẫn có thể quên bệnh tật trong một vài giờ, hoặc có thể là trong cả một ngày. Tất nhiên, cái điều tệ hại nhất là tôi còn có thể nhớ lại – thường là bằng những cách không ngờ nhất – rằng tôi đang sống trên một mảnh đất bị nguyền rủa gọi là sự thú tội.
Sự thăng bằng mong manh ấy bao giờ cũng bị đe dọa vuột ra khỏi mức của nó mỗi khi tôi gặp mẹ. Bởi vì đó là lúc tôi phải đối diện với một điều khó khăn nhất: tôi mắc một căn bệnh khủng khiếp và tôi còn chưa nói cho bà biết.
Tôi cũng muốn nói với mẹ tôi. Một vài lần tôi đã có kế hoạch hẳn hoi. Khi bệnh tôi mới được chuẩn đoán, tôi nói “Mẹ à, mẹ cũng biết là con có vấn đề rắc rối chút xíu ở chân, như con đã nói cho mẹ biết đấy. Vâng, ơn Chúa, nó không phải là bệnh ung thư nhưng…”
Lập tức là bà kể cho tôi nghe về một khách hàng của bà vừa mới chết vì bệnh ung thư, rằng ông ta phải đau đớn ra sao và trong đám ma của ông có bao nhiêu vòng hoa. “Rất lâu trước đó, mẹ nhìn thấy một vết trên mặt ông ta” bà kể. “Mẹ bảo ông ấy đi khám bác sĩ đi. Chẳng có vấn đề gì, ông ấy nói, dấu vết của tuổi tác ấy mà – chẳng thể làm gì được với nó hết!” Rồi bà nghiêm khắc cảnh cáo tôi. “Đó là lí do tại sao con phải cẩn thận.”
Sau khi sinh Cleo, không muốn có thêm rắc rối về phần tôi hay bà, tôi lại bắt đầu nói về chuyện này. Nhưng mẹ đã ngắt lời tôi, lần này thì than vãn là ba tôi đã không sống được đến lúc này để nhìn con cháu khôn lớn. Sau đó bà sa vào màn độc thoại không có lời kết về việc cha tôi đã phải chịu những đau khổ mà ông không đáng phải chịu.
Ba tôi chết vì bệnh ung thư bao tử khi tôi 14 tuổi. Bao năm qua mẹ tôi vẫn không thôi tự hỏi về nguyên nhân của nó, cứ như là bà vẫn kịp sửa lại cái tai họa này nếu như bà tìm được nguyên nhân lúc bệnh mới phát.
“Ông ấy là người tốt như thế,” mẹ tôi ngậm ngùi. “Cớ làm sao mà ông ấy lại chết thảm như vậy”. Thỉnh thoảng bà cũng cho đó là ý của Chúa để lí giải nguyên do của mọi việc, nhiều khi bà có một ý khác. Bà nói rằng đó là tại vì cha tôi là mục sư. “Ông ấy lắng nghe mọi vấn đề rắc rối của người khác”, bà nói. “Ông ấy vận vào mình cho đến khi chúng làm ông ấy phát bệnh. Ôi giời. Ứng hài phải tìm cho ông ấy một công việc khác.
Ứng hài là điều mà mẹ tôi luôn nói khi bà ngụ ý lí ra tôi phải. Ứng hài là mẹ tôi phải thay đổi bàn tay của số phận, mẹ tôi lẽ ra phải ngăn ngừa được tai họa. Với tôi, Ứng hài có nghĩa là mẹ tôi sống cả một đời với những nuối tiếc không bao giờ nguôi với thời gian.
Những tiếc nuối này càng lớn hơn khi bà tìm thấy nhiều lí do hơn trong cái chết của cha tôi. Một lần bà nói lên quan điểm của bà về những nguyên nhân do môi trường chung quanh – rằng người thợ điện đang bị bệnh vào cái lúc ông ta mắc lại dây điện trong bếp nhà tôi. “Ông ta đã truyền bệnh thẳng ngay vào mái nhà của chúng ta,” bà tuyên bố.
“Đúng như thế. Mẹ mới phát hiện ra là người thợ điện này cũng chết vì ung thư. Ứng hài đã bắt đi một người khác”.
Cũng chính là do sự mê tín này mà tôi đã đi đến chỗ nghĩ về cái thuyết 9 điềm gở của bà. Bà nói rằng một lần bà đã nghe nói là một người sẽ phải chết nếu trước đó có tám điều xấu xảy ra. Nếu bạn không nhận ra trước tám điều đó và ngăn chặn lại thì cái điều thứ 9 sẽ là đòn chung cuộc. Sau đó bà đã đi tìm tám điều xấu đã xảy ra và cớ sao bà không đủ khôn ngoan để phát hiện ra chúng đúng lúc.
Cho đến hôm nay chuyện này đã làm tôi phát điên lên – cứ phải nghe mãi những giả thuyết khác nhau của bà; về tôn giáo, về thuốc men, và những điều dị đoan nổi cộm lên trong tín ngưỡng của bà. Bà chẳng đặt mảy may lòng tin nào vào logic của người khác, đối với bà logic là cái cớ láu cá về những thảm kịch, nhầm lẫn và tai họa. Theo như mẹ tôi thì chẳng có điều gì là bất ngờ cả. Bà thích quan điểm Freud của người Trung Hoa hoặc là một cái gì còn tệ hơn nữa. Mọi thứ đều có lí do. Mọi thứ đều có thể ngăn chặn được. Ví dụ lần cuối cùng tôi ở nhà bà, tôi cụng đầu vào khung ảnh của cha tôi và làm bể khung kính. Mẹ tôi nhặt những mảnh kính lên, rên rỉ. “Sao mà chuyện này lại xảy ra cơ chứ?” Đầu tiên tôi cho đó là câu hỏi khoa trương ngớ ngẩn, nhưng sau đó bà lại nói với tôi, “Con có biết tại sao không?” Tôi đáp, “Dào ơi, đó là một việc không may mà. Cùi chỏ của con va phải nó.” Và tất nhiên câu hỏi của bà làm tôi phải suy nghĩ căng thẳng, phải chăng đó là dấu hiệu bệnh tình của tôi trầm trọng hơn.
“Tại sao lại là ảnh cha con chứ?” bà lẩm bẩm một mình.
Vì thế mà tôi không bao giờ nói với mẹ tôi về vấn đề của mình. Trước hết tôi không muốn nghe cái lí thuyết của bà về bệnh tật của tôi, nguyên nhân của nó, rằng tại sao bà lại không làm điều này điều kia để ngăn chặn lại. Tôi không muốn bà nhắc nhở tôi về điều đó.
Bây giờ thì bao nhiêu thời gian đã trôi qua rồi, cái sự thật là tôi vẫn chưa hé miệng với bà về căn bệnh làm cho nó sẽ mười lần nghiêm trọng hơn. Tôi sẽ luôn luôn bị đay nghiến mỗi khi tôi gặp bà, hay mỗi khi nghe bà nói.
Mary biết điều này và đó là lí do tại sao tôi lại tức điên lên – đó không phải vì chị ta đã xía vào chuyện bệnh tật của tôi. Tôi phát điên lên bởi vì chị ta đã nói với dì Helen về bệnh tật của tôi.
“Chị phải nói với bà” chị ta giải thích với tôi một cách suồng sã. “Bà bao giờ cũng nhắc nhở chị bảo Pearl về thăm mẹ nó thường xuyên hơn, chỉ một giờ lái xe thôi. Nói với Pearl là nó nên mời mẹ nó đến sống chung với nó, mẹ nó sẽ đỡ cô đơn hơn. Cuối cùng chị phải nói với bà là không thể bảo em những điều này. Rồi bà hỏi là tại sao.” Mary nhún vai nói tiếp. “Em biết tính mẹ chị. Chị không thể nói dối bà. Tất nhiên là chị đã buộc bà phải hứa là sẽ không nói điều này với mẹ em, rằng em sẽ tự nói ra.”
“Em có thể lái xe,” tôi bảo Mary, “và đấy không phải lí do tại sao em không mời mẹ em đến sống với chúng em?” Sau đó tôi lườm chị ta. “Tại sao chị lại làm như thế?”
“Bà ấy sẽ không nói gì đâu”. Mary nói, “chị đã bắt mẹ chị hứa rồi.” Sau đó chị ta nói thêm hơi có vẻ thách thức. “Dù sao thì em cũng phải nói với mẹ em từ lâu rồi mới phải.”
Mary và tôi đã không cãi cọ nhau về điều này, nhưng quan hệ của chúng tôi lạnh nhạt dần từ đó. Chị ta chắc chắn là phải biết được cái điều tệ hại nhất mà chị ta có thể sẽ gây ra cho tôi. Chị ta đã một lần làm thế chín năm về trước, khi tôi thổ lộ với chị rằng tôi đang mang thai. Tôi bị sảy thai trong lần có bầu đầu tiên và mẹ tôi cứ lải nhải mãi về chuyện nào là tôi uống bao nhiêu cà phê, rồi sao mà tôi lại chạy bộ như thế, rồi đáng lí Phil phải quan tâm nhiều hơn đến việc ăn uống của tôi. Vì thế khi tôi có thai lần thứ hai tôi quyết định để cho chắc ăn đến tháng thứ 4, thứ 5 mới nói cho mẹ tôi biết. Nhưng vào tháng thứ 3 tôi đã mắc một sai lầm khi cho Mary biết. Rồi Mary tiết lộ cái tin này cho dì Helen, người không trực tiếp nói điều ấy với mẹ tôi. Nhưng khi mẹ tôi tự hào khoe với nhà Công là tôi đang có bầu thì dì Helen lập tức chỉ cho mẹ tôi chiếc áo len nhỏ màu vàng mà bà đang đan cho đứa nhỏ trong bụng tôi.
Thế là tôi bị ngập trong những lời ca thán của mẹ tôi về chuyện này ngay cả sau khi Tessa đã ra đời. “Tại sao con có thể nó