← Quay lại trang sách

Chương 2 ĐÁM TANG BÀ DÌ DU

Mẹ tôi ra khỏi nhà từ hai tiếng trước với dì Helen để họ có thể chăm lo mọi việc cho đám ma. Bây giờ thì tôi và Phil sẽ đến đám ma bà dì trễ vì một vụ cãi nhau giữa Tessa và Cleo, kết quả là những quả trứng dễ dàng chọi trúng cái áo đẹp và chiếc cà vạt duy nhất của Phil. Khi chúng tôi tìm địa điểm trên đường Clement, Phil gợi ý rằng chúng tôi không nên mang bọn trẻ đến đám ma, “Chúng có thể làm mất trật tự,” anh nói, “và chúng cũng chẳng thích một người chết đâu”.

Tessa cười nhăn nhở nói một giọng như hát, “Ba đang nói một từ xấu nha.”

“Có thể anh với chúng sẽ đợi em ở ngoài xe.” “Bọn chúng sẽ ổn thôi,” tôi trấn an anh. “Em đã hỏi mẹ cái quan tài có đậy nắp không, mẹ nói là có. Và em cũng đã giải thích với bọn trẻ cũng như hồi chúng ta đến dự đám cưới Steve và Joane - chúng lớn rồi mà. Phải thế không các con?” “Chúng con sẽ có bánh phải không?” Cleo hỏi.

“Thôi được”, Phil nói, “nhưng sau khi liệm hãy kiếm một cái cớ để về nhà ngay”. “Tất nhiên rồi.”

Hai giờ 20 phút, bốn chúng tôi đi vào nhà tang lễ. Cậu em họ Frank đưa cho chúng tôi băng tang đeo ở tay. Khi choàng nó vào cánh tay, tôi cảm thấy có phần nào ngượng ngập với vật biểu tượng cho nỗi đau mất mát này. Bây giờ tôi nhận ra là tôi chẳng biết gì về bà dì này ngoài cái việc người bà bao giờ cũng có mùi băng phiến, bà luôn ép tôi ăn mấy cái kẹo của người Hoa, hay bò khô tẩm đường lấy từ trong những cái hộp cũ kĩ, bẩn thỉu đặt trên nóc tủ lạnh.

Bảo Bảo cũng đứng ở đây để chào đón chúng tôi, với nụ cười ngoác đến mang tai. “Chào mọi người, rất mừng khi cuối cùng anh chị cũng đã tới,” rồi đưa cho chúng tôi mỗi người một cái kẹo và một phong giấy đỏ đựng tiền may mắn.

“Chúng ta làm gì với những thứ này?” Phil thì thầm. “Đưa cho bà dì Du hả?” Anh mở một góc phong bì đựng tiền may mắn ra.

“Làm sao em biết được?” Tôi thì thào với anh. “Em chưa bao giờ dự một đám tang Phật giáo, hay một cái gì tương tự cả.” “Mẹ em nói những thứ này để giải những xúi quẩy mà anh chị có thể bị khi đi đám ma.” Bảo Bảo nói, “Anh chị còn kẹo để gặp may mắn. Rồi lại mua được may mắn nữa với số tiền này.”

“Con sẽ ăn kẹo của con ngay,” Tessa tuyên bố.

Cleo đưa kẹo của nó cho tôi bóc, “Mẹ, con nữa, con nữa.”

Phil giở phong bao của anh, “Nói xem, nếu anh dùng tiền này mua kẹo cao su, thì vận may của anh có kéo dài hơn không?” Chúng tôi bước lại chỗ quan tài. Đột nhiên ánh đèn chiếu vào làm chúng tôi lóa mắt. Và Cleo - sửa sang lại đầu tóc và cúi chào như một ngôi sao điện ảnh. Tôi không tin vào mắt mình: Dượng Henry đứng ở giữa lối đi đang quay video đám ma! Ai là người coi những thước phim này?

Mặc dù lóa mắt vì ánh đèn, tôi vẫn có thể nhìn thấy mẹ tôi. Bà ra dấu cho chúng tôi đến ngồi với bà ở dãy thứ hai. Phil dắt bọn trẻ con, trong khi máy vẫn tiếp tục quay. Chúng tôi bước thật lẹ trên lối đi, đi qua hàng chục người trong nhà tang lễ - Mary, Doug và bọn trẻ, một vài người đi chung nhà thờ, tất cả đều là người Hoa. Tôi nhìn thấy mấy bà già mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Trông họ như những người mới nhập cư nếu căn cứ vào những mái tóc không nhuộm, ngắn ngủn và những cái áo bông trần lỗi thời màu nâu.

Khi chúng tôi vào đến chỗ ngồi, dì Helen quay xuống từ hàng ghế trước. Bà nắm chặt tay tôi và tôi nhìn xuống những giọt lệ trong mắt bà, trong khi mắt mẹ tôi vẫn ráo hoảnh, “Sao tới trễ vậy các con. Dì bảo họ đợi cho đến khi các con đến.”

Bất thình lình Cleo cười như nắc nẻ, chỉ trỏ. “Ba ơi, có một bà nằm kia kìa. Còn bữa cơm của bà ấy thì bốc cháy.” Tessa cũng nhìn chằm chằm, duy chỉ có đôi mắt nó mở thật lớn, cái miệng há to.

Tôi cũng nhìn thấy điều đó – Chúa ơi – bà dì Du nằm trong quan tài, với cặp kiếng trên khuôn mặt vô cảm như bằng sáp. Ngay trước quan tài là một cái bàn thấp, dài đựng đồ ăn – trông giống như một mâm cơm Tàu 9 món, cùng với đĩa trái cây xếp một cách kì cục với những trái cam, xoài và những miếng dưa hấu đã xẻ. Đây chắc là cơm từ biệt cõi trần của bà dì Du để bước lên thiên đường. Khói nghi ngút bốc lên từ hàng nắm nhang đang cháy, khói cuộn lên quanh cỗ quan tài, như một con đường đưa bà sang thế giới bên kia.

Phil nhìn tôi lom lom, chờ một lời giải thích. “Có thể là một sự nhầm lẫn,” tôi thì thầm, quay qua mẹ tôi, cố giữ cho giọng nói thật bình tĩnh. “Con nghĩ là mẹ quyết định đóng nắp áo quan mà,” tôi nói thật chậm rãi.

Bà gật đầu. “Con thích không? Mẹ chọn quần áo cho bà đấy, tất cả là đồ mới. Cả áo quan mẹ cũng góp phần quyết định đấy. Chưa hẳn là gỗ tốt nhất, nhưng cũng gần như là tốt nhất. Trước khi chôn, chúng ta sẽ lấy lại đồ trang sức, tất nhiên rồi.”

“Nhưng con nghĩ là mẹ nói quan tài đậy nắp kia mà.”

Mẹ tôi cau mày. “Mẹ không nói vậy. Làm sao con nhìn thấy bà nếu đóng nắp quan tài lại?”

“Nhưng…”

“Chúng ta có ăn ở đây không mẹ?” Tessa sợ hãi hỏi, vặn vẹo trên ghế ngồi. “Con không đói”, nó thì thầm. Tôi nắm chặt tay nó.

“Bảo bà ấy dậy đi mẹ,” Cleo ré lên và cười khúc khích. “Bảo bà ấy không được ngủ trước bàn ăn. Như vậy là không lịch sự.”

Tessa đập vào chân Cleo. “Im mồm đi Cleo, bà ấy không ngủ. Bà ấy chết rồi, như con mèo Bootie ấy.”

Và môi dưới của Cleo trễ xuống, dài ra. “Đừng nói thế!” nó hét lên, ẩy vào vai Tessa. Tôi cố nghĩ ra một cách gì đó để làm chúng dịu đi – nhưng quá trễ. Chúng bắt đầu nhào vào nhau, kêu khóc la hét “Thôi đi! Mày thôi đi!” “Mày bắt đầu trước!” Mẹ tôi quan sát cảnh này xem tôi xử trí như thế nào. Nhưng tôi cảm thấy tê dại, bất lực không biết phải làm gì nữa.

Phil đứng dậy, dẫn bọn trẻ ra ngoài, “Anh cho chúng đi ăn kem ở Colombus. Một tiếng sau anh sẽ quay lại”.

“Khoảng 45 phút thôi,” tôi thì thầm. “Không lâu hơn đâu. Em đợi anh ở ngoài.”

“Ba ơi, con được ăn kẹo chocolate với kem không?” Cleo hỏi.

“Và một cái gì rắc bên trên,” Tessa thêm.

Tôi nhẹ người khi nghĩ rằng đó có thể là tất cả những tổn thất còn lại, cái khẩu vị bị phá hỏng và những bàn tay nhớp nháp. Ở dãy ghế bên kia, con trai của Mary là Michael đang cười gằn. Trong khi ném cho nó một cái nhìn giận dữ, tôi nhận ra một điều khác.

Dượng Henry vẫn tiếp tục quay video.

Sau khi Phil và mấy đứa nhỏ đi ra ngoài, tôi cố giữ bình tĩnh. Tôi nhìn về phía trước, tránh cặp mắt của mẹ tôi và ống kính của dượng Henry. Không nên cãi nhau, tôi tự nhủ. Cái gì đã xảy ra thì cũng xảy ra rồi.

Trước các hàng ghế là một bức ảnh lớn chụp bà dì. Trông như là được phóng lớn từ bức ảnh trong passport cách đây 50 năm. Trong ảnh bà không còn trẻ, nhưng vẫn còn nguyên hàm răng. Tôi nhìn lại trong cỗ quan tài. Cái miệng của bà móm xọm vào trong, khuôn mặt gầy gò trông như một con chim khô quắt. Bà nằm im, vì vậy tôi có cảm tưởng chúng tôi đang chờ một điều gì đó xảy ra như là bà dì đột nhiên biến dạng, hiển hiện thành một con ma.

Điều này làm tôi nhớ lại chuyện xảy ra lúc tôi mới 5 tuổi, cái tuổi mà bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra nếu như bạn có một trí tưởng tượng. Tôi đã nhìn chăm chăm vào những cái mắt nhấp nháy của một quả bí đỏ tạc hình người chờ những con yêu tinh bay ra. Cho đến tận hôm nay tôi vẫn nhớ một cách sống động tiếng cười của con ma cuối cùng thoát ra khỏi cái miệng của quả bí đỏ. Mẹ tôi chạy vào phòng trong khi tôi đang la hét. Tôi lắp bắp một cách kinh hoàng là tôi đã thấy ma. Thay vì an ủi tôi rằng cái chuyện kinh khủng đó chỉ là do tôi tưởng tượng ra, bà chỉ nói “Ở đâu?” Rồi đi tìm quanh phòng.

Tất nhiên là sau đó ba tôi đoan chắc với tôi rằng chỉ có một con ma, đó là Chúa trời, mà Người thì không bao giờ lại nhát tôi cả. Tiếp đó ông chứng minh một cách khoa học rằng cái mà tôi nhìn thấy chỉ là làm khói bốc ra từ ngọn nến cháy chậm trong trái bí đỏ. Nhưng tôi chẳng thỏa mãn gì với câu trả lời của ông, bởi vì mẹ tôi đã trừng mắt nhìn tôi như thể tôi đã phản bội bà, làm cho bà trở thành ngớ ngẩn. Mọi chuyện là như thế đấy. Mẹ tôi luôn cố gắng che giấu những điều mà bà tin tưởng, nhưng không đồng nhất với niềm tin công giáo của cha tôi, nhưng thỉnh thoảng những niềm tin này cũng bị rơi rớt mất.

“Cả bao chỉ, mẹ cũng làm,” bây giờ mẹ tôi lại nói với tôi. “Bà dì nói mẹ làm bánh ngon nhất.” Tôi gật đầu ngắm nghía những chiếc bánh bao hấp dẫn trên bàn. Mẹ tôi chắc chắn là làm bánh bao ngon nhất rồi, tôi nghĩ rõ hoài của nếu những chiếc bánh này chỉ được người ta ngắm nghía thôi. “Dì Helen nấu món gà với tiêu xanh,” mẹ tôi nói, sau cái gật đầu của tôi, bà tiếp. “Trông khô quá.” Tôi lại gật gù tiếp tự hỏi không biết là bà dì có thể thưởng thức tài nghệ nấu nướng này trong bữa tiệc dành cho bà không. Tôi nhìn những món ăn khác và nhận ra ở đây có cả những miếng bánh kem còn thừa ngày hôm qua.

Phía trên cỗ quan tài là một tấm áp phích trắng dài làm từ giấy gói hàng được đóng lên tường. Tấm áp phích viết những dòng chữ lớn màu đen, cuối câu có một dấu chấm than, cũng giống như những biểu ngữ chính trị mà tôi đã nhìn thấy trong một tạp chí của Trung Quốc.

“Nó viết gì vậy mẹ?” Tôi khẽ hỏi mẹ. “Hy vọng kiếp sau bà sẽ sống dài lâu và thịnh vượng. Chẳng có gì đặc biệt,” mẹ tôi đáp. “Mẹ không viết cái này, chắc là của ai đó quen với nhà Công. Có thể là Helen đã làm gì giúp họ.”

Tôi nhìn những vòng hoa đặt trên kệ. Tôi tìm vòng hoa tôi viếng, đang định hỏi mẹ xem nó ở đâu thì dượng Henry bật đèn pha lên và bắt đầu quay cảnh bà dì nằm trong quan tài. Ông giơ tay ra hiệu một ai đó đứng lảng vảng gần đấy đi ra chỗ khác.

Một lát sau, tôi nghe có tiếng cốc cốc của những vật bằng gỗ gõ vào nhau theo sau một âm đing-đing-đing đều đều như thể có ai thiếu kiên nhẫn rung một cái chuông trong tiền sảnh của một khách sạn. Những âm thanh này hòa cùng hai giọng hát một điệu gì đó chỉ gồm có bốn nốt cùng với một vần. Điệu ê a này được lặp đi lặp lại nhiều lần, tôi đã chắc mẫm là nó được phát ra từ máy hát thì nó dừng lại.

Bây giờ, bước ra khỏi góc tường bên tay trái là hai nhà sư với những cái đầu trọc và áo nhà chùa màu vàng nghệ. Nhà sư to lớn hơn, già hơn thắp một nén nhang lớn, vái ba vái trước quan tài, cắm nhang vào bát nhang đang nghi ngút khói, quay lại vái thêm lần nữa. Nhà sư trẻ hơn luôn tay gõ mõ. Sau đó cả hai chầm chậm bước trên lối đi, tụng niệm “Ami – Ami Amitaba, Amitaba.” Khi nhà sư lớn tuổi đi ngang qua, tôi nhìn thấy một bên má của ông xẹp dí xuống và cái tai bên má ấy cũng bị dúm dó.

“Chắc ông ta bị một vụ đụng xe khủng khiếp,” tôi thì thào với mẹ.

“Đại cách mạng văn hóa,” mẹ tôi nói.

Nhà sư nhỏ hơn, như bây giờ tôi mới thấy rõ, không phải là đàn ông, mà là đàn bà, một nữ sư với ba, bốn vết sẹo trên đầu.

“Cô ta chắc cũng trải qua cách mạng văn hóa,” tôi nói với mẹ.

Bà nhìn cô. “Trẻ quá. Có thể là do bọ chét cắn.” Bà kết luận như vậy.

“Amitaba, Amitaba,” họ tiếp tục đọc đều đều. Bây giờ thì mấy bà già trong chiếc áo khoác cổ lỗ sĩ bắt đầu rên rỉ và gào khóc đưa tay lên hạ tay xuống, có vẻ như quá khổ đau. Dượng Henry hướng ống kính về phía họ.

“Họ có phải là bạn thân của bà dì không?” Tôi hỏi.

Mẹ tôi cau mày. “Không phải, đó là những người khóc mướn. Họ đến đây từ sớm, rồi ở lại khi thấy chúng ta không có nhiều người hờ người chết. Họ sẽ khóc lóc cho rôm rả, đổi lại dì Helen cho họ vài đồng. Bây giờ thì họ làm theo phong tục ngày xưa, khóc thật to và làm như thể họ không muốn người chết từ bỏ cuộc đời sớm như thế. Làm như vậy là để kính trọng hương hồn người đã khuất.”

Tôi gật đầu, kính trọng.

“Những người này có thể làm tới hai, ba đám ma một ngày,” mẹ tôi nói thêm, “kiếm được dăm, bảy đồng. Cũng tốt chán. Còn hơn là đi quét dọn.”

“Hừm” tôi ừ hử, không biết được là bà nói thế với ý chê bai hay chỉ đơn giản là kể lại sự việc.

Tiếng mõ vẫn đều đều, cộng thêm tiếng chuông nhanh hơn, nhanh hơn. Bất thình lình, câu đối viếng màu trắng tróc khỏi tường, cái ước muốn may mắn trường thọ ở kiếp sau cho bà dì của gia đình nọ rơi xuống quấn ngang ngực bà dì như tấm băng quấn ở ngực của các cô hoa hậu. Mẹ tôi và các phụ nữ lớn tuổi khác bật dậy kêu lên “Ôi giời ơi!” Con trai Mary kêu lên, “Rơi đúng chỗ thiệt,” rồi cười hô hố. Hai nhà sư vẫn luôn miệng tụng kinh, khuôn mặt không thay đổi. Mẹ tôi phát cáu, “Tệ quá!” bà lẩm bẩm rồi đứng dậy ra khỏi phòng.

Vài phút sau mẹ tôi quay lại với một người Âu trẻ có mái tóc lưa thưa màu vàng. Anh ta bận đồ đen, vì thế anh ta chắc là người của nhà đòn. Tôi có thể nói là mẹ tôi tiếp tục mắng mỏ anh ta trong khi bà chỉ trỏ vào câu đối viếng đã rơi xuống một cách tai hại. Mọi người xì xào, trong phòng mấy bà vẫn kêu gào và khấn vái, các nhà sư vẫn tiếp tục đọc kinh. Người đàn ông tóc vàng bước nhanh về phía trước, có mẹ tôi theo sau. Anh ta xá bà dì ba xá, sau đó dịch cỗ quan tài sang một bên, chuyện này khá dễ dàng vì nó có gắn bánh xe. Sau một cái xá nữa, người đàn ông cung kính gỡ tấm băng ra khỏi ngực bà dì, nâng lên bằng cả hai tay như thể nó là một tấm áo lễ thiêng liêng. Trong khi anh ta đóng câu đối viếng lên tường, mẹ tôi chỉ đạo. “Góc này, đóng thêm đinh vào đây. Nữa, làm sao anh có thể để cho điều may mắn của bà rơi xuống như thế?”

Xong việc, anh ta đẩy chiếc quan tài về vị trí cũ, lạy ba xá về phía người chết, một cái về phía mẹ tôi vẫn còn sôi lên vì giận, rồi nhanh chóng rút lui. Không hiểu anh ta xá như vậy để biểu lộ lòng thành kính thật sự, tôi tự hỏi, hay chỉ vì anh ta học được điều này để phục vụ khách người Hoa?

Bây giờ thì Frank đưa cho chúng tôi mỗi người một cây nhang đang cháy. Tôi nhìn quanh, cố gắng nghĩ xem phải làm gì. Từng người một, chúng tôi nhập bọn với các nhà sư, và đọc theo, “Amitaba! Amitaba!” Chúng tôi đi quanh quan tài nhiều vòng, tôi cũng không biết là bao nhiêu lần nữa. Tôi cảm thấy thật ngớ ngẩn, cái nghi lễ chẳng có chút xíu ý nghĩa nào đối với tôi hết. Nó làm tôi nhớ đến một lần tôi theo một người bạn đến một thiền viện. Tôi là người duy nhất có vẻ mặt châu Á ở đây. Tôi cũng là người duy nhất ngó ngoáy liên tục, băn khoăn một cách sốt ruột không biết khi nào thì nhà sư đến để buổi thuyết pháp bắt đầu, hoàn toàn chẳng biết gì, mãi đến hai mươi phút sau mới nhận ra là những người khác không yên lặng ngồi chờ, như tôi tưởng, họ đang thiền.

Bây giờ thì mẹ tôi đang vái bà dì. Mẹ tôi cắm nhang vào bát, xầm xì khấn vái, “Ai! Ai!” Những người khác theo gương bà, một vài người khóc, mấy bà già thì khóc to hơn. Bây giờ đến lượt tôi vái. Tôi cảm thấy có lỗi thế nào ấy, cũng cái cảm giác có lỗi trước kia – khi cha tôi làm lễ rửa tội cho tôi mà tôi không tin là mình được cứu rỗi đời đời, khi tôi được ban thánh thể mà tôi không tin nước nho ấy là máu của chúa Jesus, khi tôi cầu nguyện với những người khác về một phép màu nào đó sẽ cứu sống cha tôi, thì tôi cảm thấy ông đã chết trước đó rồi.

Bất thình lình một tiếng nức nở bật ra từ lồng ngực tôi làm cho mọi người kể cả tôi cũng phải ngạc nhiên. Tôi hoảng hồn cố kìm lại nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Trái tim tôi tan nát, cơn giận dữ đắng cay trào ra và tôi không thể dừng lại.

Mẹ tôi cũng khóc. Bà mỉm cười với tôi qua hàng nước mắt, bà hiểu rằng nỗi đau này không dành cho bà dì mà cho ba tôi. Bởi vì bà đã chờ đợi tôi khóc như thế từ rất lâu, rất lâu rồi, từ hơn 25 năm về trước, từ cái ngày đám ma ba tôi.

Tôi 14 tuổi, đầy giận dữ và bàng quan với mọi sự. Mẹ tôi, em tôi và tôi ngồi bên nhau trong một góc chờ khoảng nửa tiếng thì bắt đầu khâm liệm ba tôi. Mẹ tôi đã mắng mỏ tôi, bởi vì tôi nhất định không chịu đến bên quan tài nhìn mặt ba tôi lần cuối.

“Samual đã từ biệt cha con, Samuel đã khóc,” mẹ tôi nhắc.

Tôi không muốn khóc thương người đàn ông trong quan tài, người đàn ông ốm yếu gầy giơ xương, hoàn toàn bạc nhược, người luôn rên rỉ, trở nên bất lực, người vào những ngày tháng cuối đời luôn dõi theo mẹ tôi với đôi mắt hoảng loạn. Ông ta chẳng có gì giống với cha tôi trước kia: duyên dáng, sống động, mạnh mẽ, tử tế, bao giờ cũng rộng lượng cùng với tiếng cười vui đời, một người biết rõ phải làm gì khi mọi việc trở nên tồi tệ. Trong con mắt của ba, tôi là một cái gì hoàn hảo, một “viên ngọc không tì vết” của ông, chứ không phải một con bé luôn quạu quọ, bứt rứt khi ở với mẹ tôi.

Mẹ tôi hỉ mũi: “Cái đứa không thể khóc cha là cái loại gì vậy?”

“Người này không phải cha con,” tôi nói mặt chù hụ.

Ngay lập tức mẹ tôi chồm lên tát vào mặt tôi. “Đồ xấu xa!” Bà hét lên. Tôi choáng váng. Đấy là lần đầu tiên mẹ đánh tôi.

“Ái chà! Nếu mày không khóc được, tao sẽ làm cho mày khóc.” Rồi bà tát tôi, tát cái nữa, cái nữa. “Khóc đi, khóc đi!” mẹ tôi gào lên điên dại. Nhưng tôi ngồi bất động như cục đá.

Cuối cùng nhận ra mình đang làm gì, mẹ tôi cắn vào bàn tay, lẩm bẩm cái gì đó bằng tiếng Hoa, rồi dắt tay con trai đi, bỏ tôi ở lại.

Thế là tôi ngồi lại giận dữ và tất nhiên cũng thắng thế nữa, mặc dù tôi cũng chẳng hiểu ra thế nào nữa. Có thể tôi cũng chẳng hiểu gì, tôi thấy mình đi quanh cỗ quan tài, thở phì phò, tự nhủ rằng tôi đúng, mẹ tôi sai. Khi tôi kiên quyết không khóc, tôi cũng không bao giờ xét xem là tôi sẽ cảm thấy điều gì khác.

Nhưng khi tôi nhìn ông, trắng nhợt và gầy gò. Tôi chắc là ông không yên nghỉ với Chúa, khuôn mặt ông rất nghiêm khắc, cứ như thể nó được đúc vào cái giây phút đau đớn cuối cùng của ông.

Tôi cố giữ lại cho mình hơi thở dồn dập, cố gắng không khóc, thế là tôi bắt đầu thở gấp. Tôi chạy ra khỏi nhà tang lễ, chạy ra hớp lấy hớp để làn không khí trong lành bên ngoài, tôi chạy xuống đường Colombus về phía cảng, phớt lờ những người khách du lịch đang nhìn chằm chằm vào khuôn mặt giận dữ, đầy nước mắt của tôi. Cuối cùng, tôi bỏ lỡ mất đám tang ba tôi.

Một cách nào đó, cái điều này cứ diễn ra trong quan hệ giữa mẹ con tôi từ dạo ấy. Cả hai chúng tôi đều được, cả hai chúng tôi đều mất, và tôi chẳng hiểu cuộc chiến giữa hai chúng tôi là kiểu gì nữa. Mẹ tôi cứ nói hoài nói hủy về cha tôi và nỗi thống khổ của ông, không bao giờ để cho mọi chuyện được chôn vùi. Cho đến tận hôm nay, tôi không bao giờ khóc hay nói về tình cảm của tôi dành cho cha tôi trước mặt mẹ tôi.

Ngược lại, tôi cố giữ những kí ức sâu kín riêng tư của mình về ông - một nụ cười nào đó, chiếc áo mà ông mặc, tình cảm nồng nhiệt toát ra mỗi khi ông đứng trên bục giảng đạo. Nhưng tôi thường kết thúc những hồi tưởng khi tôi nhận ra là tôi đang nhớ những gì tôi tưởng tượng ra từ những tấm ảnh. Còn trong thực tế, kí ức sống động của tôi là vào lúc mà ông đau ốm, “Pearl ơi,” ông gọi yếu ớt từ giường bệnh, “con có muốn ba giúp con làm bài tập không?” Còn tôi thì lắc đầu. “Pearl ơi.” Ông gọi khi đang nằm ở ghế sofa, “đến giúp ba ngồi dậy với.” Tôi sẽ giả bộ là tôi không nghe thấy gì hết.

Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn còn có những cơn ác mộng về ba tôi. Tôi lại vừa có một giấc mơ như vậy. Trong giấc mơ này, tôi đi đến bệnh viện để kiểm tra xem căn bệnh của tôi có tiến triển tốt hay không. Không một lời giải thích, một bác sĩ nhét tôi vào một phòng đầy những bệnh nhân thập tử nhất sinh. Tôi la hét vẫy vùng: “Sao lại làm thế này với tôi. Anh phải giải thích!” Tôi cứ la hét mãi, la hét mãi nhưng chẳng ai đến cả. Rồi tôi nhìn thấy ba tôi, ở ngay trước mặt tôi trong một cái giường hẹp bẩn thỉu, bận một bộ đồ dơ hày. Ông rất già và gầy một cách thảm hại, tóc của ông bạc trắng, có vài chỗ trơ cả sọ ra sau nhiều năm chờ đợi trong lãng quên. Tôi lại ngồi gần ông hỏi, “Là ba phải không?” Ông nhìn tôi với đôi mắt tìm kiếm vô vọng. Khi nhìn tôi, ông bật lên một tiếng kêu thảng thốt - rồi sau đó bật khóc, khóc mãi, quá vui mừng khi cuối cùng tôi cũng đến đưa ông về nhà.

Những thủ tục khâm liệm bà dì rồi cũng xong. Chúng tôi đứng cả bên ngoài, làn gió từ cảng bắt đầu nổi lên xuyên qua lớp áo mỏng manh của chúng tôi, thổi rát rạt những chiếc váy vào người. Mắt cay xè, tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt sức.

Mẹ tôi đứng bên tôi thỉnh thoảng lại ngó tôi chằm chằm. Tôi biết bà muốn nói với tôi về những gì đã xảy ra, không phải những chuyện linh tinh xảy ra trong đám ma mà là chuyện tôi bật khóc.

“Con ổn chứ?” mẹ tôi dịu dàng hỏi.

“Không sao đâu,” tôi đáp, cố làm ra vẻ hoàn toàn bình thường.

“Phil và mấy đứa con gái sẽ tới ngay bây giờ thôi.” Mẹ tôi lấy một tập khăn giấy từ trong túi đặt vào tay tôi, tôi biết là mình đã làm lem lớp mascara trên mi. Ngay lúc đó Bảo Bảo hiện ra. “Mẹ kiếp, thật là quái đản,” cậu ta nói, “nhưng tôi đoán đấy là kiểu đám ma mà bà dì khoái. Bà luôn, dì biết đấy…” và hắn đập ngón tay hai lần vào đầu mình.

Mẹ tôi cau mày, “Biết cái gì?”

Bảo Bảo cười nhăn nhở một cách ngượng ngập, “Dì biết đấy, rất khác biệt, bất bình thường - một quý bà rất vĩ đại!” Hắn nhìn tôi, nhún vai. Sau đó nét mặt hắn dãn ra, “Chu cha! Kìa Mimi đã đánh xe đến kìa. Phải vù thôi. Chị có đến nghĩa trang không?”

Tôi lắc đầu. Mẹ tôi nhìn tôi, kinh ngạc. Bảo Bảo đi đến bên chiếc xe Camaro đen bóng. Mimi ngồi sang một bên nhường tay lái cho anh chàng. “Anh chẳng có dịp nào cả. Mẹ trói anh vào với cái bọn nhà đòn.” Bảo Bảo gập cánh tay lại. “Thật may là anh đã xổng ra,” hắn mở radio và gập tay nhanh hơn cùng một nhịp với tiếng nhạc. “Rất vui được gặp lại chị Pearl. Gặp dì sau nhé.” Chiếc xe chồm lên phóng đi. Bây giờ tôi nghe tiếng dì Helen gọi tôi từ phía sau. “Pearl! Pearl!” Dì lạch bạch chạy đến vừa đưa khăn giấy lên lau mắt, “Con có đi đưa đám không? Sẽ có tiệc đứng sau đó, ở nhà dì. Nhiều món ngon lắm. Mẹ con nấu món thịt nướng. Dì làm món gà ngon lắm. Mary và Doug cũng đến. Các con tới nhé.”

“Chúng con không đến được ạ. Mai phải đi làm rồi mà đường về nhà xa lắm.”

“Ôi các con thật là,” dì nói, hai tay giờ lên trong nỗi thất vọng rất kịch, “bao giờ cũng bận rộn. Thôi được, ghé thăm dì sớm nhé, không cần mời mọc gì đâu. Các con tới rồi chúng ta sẽ trò chuyện.”

“Vâng ạ,” tôi hứa đại.

“Winnie à!” Dì Helen kêu ầm lên với mẹ tôi mặc dù hai người đứng cách nhau chưa đầy hai thước. “Chị sẽ đi với chúng tôi đến nghĩa trang chứ. Henry đang đi lấy xe.” “Pearl sẽ đưa tôi về nhà,” mẹ tôi trả lời. Tôi đứng đó, cố hỏi tại sao mẹ cứ muốn bám riết lấy tôi như vậy.

Dì Helen đi về phía mẹ tôi, mặt dì lộ vẻ lo lắng. Dì hỏi nhanh bằng tiếng Hoa, “Không đến à? Chị không khỏe à?” Tôi không hiểu nhiều tiếng Quan Thoại, chỉ đoán chừng. Có vẻ như mẹ tôi không muốn ai lo lắng cho bà, “chẳng có gì không ổn cả, chỉ là một chút không thoải mái ở đây” bà chỉ vào ngực mình – có một cái gì đó làm bà mệt. Mẹ tôi muốn nói một cái gì đó chắc là chỉ cái việc câu đối viếng đám ma rơi xuống và sau đó toàn thân bà đau nhức như thế nào.

Dì Helen vuốt vuốt lưng mẹ tôi. Dì bảo mẹ tôi là bà có thể đến viếng bà dì Du sau khi cái gì gì đó đã yên không chạy nhảy tùm lum nữa. Sau đó dì Helen pha trò với mẹ rằng bà dì sẽ đợi, tất nhiên sẽ đợi mẹ tôi đến, không còn cách nào khác. Mẹ tôi nói đùa lại là có thể bà dì đã phát khùng lên vì những gì xảy ra hôm nay và đã thổi cái gì đó vào chỗ mà bà không phải làm cái gì đó nữa với một gia đình điên khùng như vậy.

Cả hai cùng cười ầm lên, cười to đến nỗi chảy cả nước mắt ra và họ khó có thể thở ra hơi nữa. Mẹ tôi lấy tay bịt miệng cười nắc nẻ như một cô nữ sinh trung học.

Dượng Henry đánh xe đến, trong lúc dì Helen leo lên xe, dì nghiêm nghị nhắc mẹ tôi uống thật nhiều trà nóng. Họ đi khỏi, bóp còi xe hai lần.

“Mẹ không khỏe à?” tôi hỏi.

“Cái gì?”

“Mẹ bảo dì Helen là mẹ không đi đưa ma được vì mẹ mệt mà.”

“Mẹ đâu có nói thế. Mẹ chỉ nói là mẹ không muốn đi thôi. Mẹ đã hoàn thành nhiệm vụ. Mẹ đã đưa bà dì Du lên thiên đàng. Bây giờ thì đến lượt Helen có nhiệm vụ đặt bà vào lòng đất.”

Đó không phải là điều họ nói với nhau và mặc dù tôi không chắc là tôi đã hiểu gần hết những lời trao đổi giữa họ, rõ ràng có nhiều điều tôi còn chưa biết về mẹ tôi và dì Helen.

Trong lúc chúng tôi đi ngang qua thành phố đến nhà mẹ tôi, Phil ngỏ ý. “Anh hy vọng chúng ta ra được xa lộ trước giờ cao điểm để về nhà.”

Mẹ tôi cũng có chuyện để kể, bà bảo rằng rồi Bảo Bảo cũng sớm mất việc thôi. Bà biết được điều này trong bữa tiệc từ miệng ông Lôi. Ông này nghe con trai mình nói lại. Bà cũng bảo tôi rằng Frank lúc này làm bảo vệ nhưng nó làm dì Helen đau buồn vì nó bỏ hết cả thời gian rảnh và tiền bạc lông bông ở chốn ăn chơi đường Geary.

Khi chúng tôi đi đến gần nhà, bà chỉ cho tôi một chỗ trên đường Clement, Happy Supper, nơi bà vẫn tới mua bán. Đó là một trong những loại chợ búa của dân Châu Á trong vùng, người ta mua bán ngay ngoài đường, chọn mua hàng đống trái cây và hoa quả, những bao gạo năm bảy chục ký chồng lên nhau như những hòn gạch khổng lồ dựa vào cửa sổ.

“Con mua đậu phụ bao nhiêu?” Mẹ tôi hỏi và tôi có thể nói là bà nóng lòng bảo với tôi cái giá rẻ hơn, cho tôi biết là tôi có thể để dành được 20 hay 30 xu ở các cửa hàng quen của bà. Nhưng tôi cũng chẳng buồn chiều lòng bà nữa. “Con không biết. Con chưa bao giờ mua.”

“Ôi!” Bà kêu lên thất vọng ta mặt. Sau đó thì mặt bà sáng lên, “Bốn cuộn giấy vệ sinh giá bao nhiêu?”

“1 đô 69 xen,” tôi đáp ngay tức thì.

“Con thấy chưa!” Bà reo lên. “Ở chỗ mẹ chỉ có 99 xen thôi. Hiệu tốt nhé. Lần sau mẹ sẽ mua cho con. Con sẽ trả tiền lại cho mẹ sau.”

Chúng tôi quẹo trái về phía đường số 8 và đi về phía Anza. Dì Helen và dượng Henry sống ở một khối nhà phía trên đường số 9. Với tôi những ngôi nhà ở vùng này rất giống nhau, những biến thái của những ngôi nhà 2 tầng xây vào những năm 20, khác nhau chủ yếu là ở màu sơn hay là kiểu trang trí ngoài mặt tiền, bằng vữa hay lát gạch hay dùng cửa nhôm kéo.

Phil quẹo vào đường nhà mẹ tôi. Mặt trước nhà sơn màu hồng hết sức nham nhở. Thật đáng ngạc nhiên là trong tất cả những thứ mẹ tôi phàn nàn không có trong danh sách cái màu sơn của ngôi nhà. Mẹ tôi nghĩ nó thực sự dễ thương. “Khi nào thì mẹ gặp lại các con đây?” bà hỏi tôi khi bà ra khỏi xe.

“Nhanh thôi,” tôi đáp.

“Nhanh cũng giống như với dì Helen chứ gì?” Bà hỏi. “Không, nhanh thôi. Con nói thật mà.”

Bà dừng lại, nhìn tôi cứ như bà không tin tôi. “Nhưng dù sao mẹ cũng gặp các con trong đám cưới của Bảo Bảo vào tháng tới.”

“Cái gì? Đám cưới tháng tới à. Con chẳng nghe thấy gì sất.”

“Nhanh thôi,” mẹ tôi nói, gật gật đầu.

“Bà Edna Phong nghe con gái của bà nói thế. Mimi gội đầu cho cô ta trong tiệm uốn tóc. Mimi bảo với con gái bà ta là họ phải vội vã làm đám cưới. Edna Phong nói với mẹ rằng, có thể một cái gì đó vội vã ra đời. Dì Helen không biết gì đâu. Đừng nói với dì ấy.”

Ấy thế mà dì Helen nghĩ rằng Bảo Bảo vội làm đám cưới bởi vì dì sắp chết. Một cái gì đó đang lớn lên, đúng thế, nhưng không phải cái khối u trong não của dì Helen.

Mẹ tôi bước ra khỏi xe. Bà quay lại hôn vào má Tessa rồi má Cleo. Mẹ tôi không phải là người thích hôn hít, nhưng bà biết rằng chúng tôi dạy bọn trẻ làm điều đó với cha mẹ Phil. “Tạm biệt Ha-bu,” chúng kêu lên. “Chúng cháu yêu bà lắm.”

“Lần sau các cháu đến,” mẹ tôi nói với bọn trẻ, “bà sẽ làm món thịt heo ngon lắm, các cháu sẽ ăn bánh như trong dịp tết âm lịch.” Bà lấy ra một khăn giấy lau mũi cho Cleo rồi vỗ vào đầu gối Tessa, “được không?”

“Được ạ,” bọn trẻ kêu lên. Chúng tôi nhìn theo mẹ tôi bước lên thềm trước nhà. Tất cả chúng tôi cùng vẫy tay. Khi bà đã vào trong nhà chúng tôi vẫy tay lại một lần nữa. Khi bà thò đầu ra ngoài cửa sổ, chúng tôi lên đường. “Tốt!” Phil thở dài, “nào về nhà.” Tôi cũng thở dài nhẹ nhõm. Đó là một kì nghỉ cuối tuần căng thẳng nhưng chúng tôi đã vượt qua. “Mẹ ơi,” Tessa nói khi chúng tôi dừng lại ở chỗ ngã tư đèn xanh đèn đỏ đầu tiên.

“Gì vậy con yêu?”

“Mẹ ơi,” nó thì thầm. “Con phải đi vệ sinh.” “Con cũng thế,” Cleo nói, “con cũng muốn đi lắm.”

Mẹ tôi đứng ở ngoài của khi chúng tôi quay lại. “Mẹ cố đuổi theo các con, nhưng các con đi nhanh quá,” bà nói ngay khi tôi ra khỏi xe. “Sau đó mẹ hiểu rằng con sẽ nhớ ra và quay lại.” Tessa và Cleo đã sẵn sàng chạy lên cầu thang. “Nhớ gì cơ ạ?” “Món quà của bà dì, nhớ không? Hai ba ngày trước mẹ đã bảo con đừng quên. Vậy mà con quên à?” “Không, không” tôi nói, “nó ở đâu?”

“Ở đằng sau ấy, trong phòng giặt đồ,” bà nói.

“Nặng lắm. Tốt nhất là hãy bảo chồng con mang giùm.” Tôi có thể hình dung nó là cái gì. Một cái ghế màu nho cũ mà bà dì vẫn dùng để gác chân hoặc có lẽ là một bộ đĩa Melmac. Trong khi chúng tôi chờ Phil trở về với bọn con gái, mẹ đưa cho tôi một tách trà, không để ý đến thái độ của tôi. “Pha xong rồi. Nếu con không uống, mẹ chỉ có nước đổ đi.”

Tôi uống một vài ngụm, “Ngon lắm.” Tôi đã nói thật, tôi chưa bao giờ uống loại trà ngon như thế. Nó ngọt, hăng và gây nghiền. “Của bà dì đó,” mẹ tôi giải thích, “vài năm trước bà cụ mua thứ trà này, 100 đô một pao.”

“Mẹ không đùa đấy chứ? Tôi uống thêm một ngụm nữa. Giờ thì nó còn ngon hơn nữa/

“Bà nói với mẹ, “Nếu ta mua cho ta thứ trà rẻ tiền thì sau đó ta sẽ nghĩ rằng cả đời ta cũng không xứng đáng với một thứ gì đó giá trị hơn,” thế là bà quyết định mua cho mình thứ trà ngon nhất. Bà uống trà và cảm thấy từ bên trong mình là người giàu có.”

Tôi bật cười. Mẹ tôi có vẻ được khuyến khích bởi tiếng cười của tôi. “Nhưng sau đó bà lại nghĩ, nếu ta chỉ mua một chút ta sẽ nghĩ rằng đời ta sắp hết rồi.” Vậy là bà mua trà đủ cho cả kiếp sau nữa. 3 pao! Con tưởng tượng được không?”

“Ba trăm đô la!” Tôi kêu lên, bà dì là người cần kiệm nhất mà tôi biết. “Mẹ nhớ là bà đã giữ tất cả những hộp kẹo See mà chúng ta đã biếu bà vào dịp Giáng sinh. Nói với chúng ta là nó quá ngon không nỡ ăn! Rồi một năm sau bà lại đưa lại một hộp cho chúng ta trong dịp lễ Tạ ơn gì đó. Chỉ có điều nó quá cũ…” Mẹ tôi gật đầu cười vang.

“Và tất cả những cái kẹo trắng phớ vì mốc!” tôi nói. “Cả bọ nữa chứ!” Mẹ nói thêm.

“Vậy là bà để lại trà cho mẹ theo di chúc.” Tôi nói.

“Không, bà đưa cho mẹ mấy tháng trước rồi. Bà nghĩ rằng bà chẳng sống được bao năm nữa. Bà chẳng nói gì, nhưng bà bắt đầu cho đi mọi thứ, những thứ tốt nhất chứ chẳng phải đồ tầm tầm đâu. Một lần mẹ ngồi uống trà. Mẹ nói trà ngon quá như mọi lần. Lần này bà dì quay vào bếp mang trà cho mẹ. Bà nói “Tiểu nương, cháu mang chỗ trà này về đi.” Đó là từ bà gọi mẹ từ những ngày đầu gặp gỡ. Tiểu nương có nghĩa là cháu nhỏ.

“Mẹ nói: Không, không, con không có ý như vậy”, bà nói “Tiểu nương, cháu hãy nhận chỗ trà này bây giờ để ta có thể thấy cháu vui sướng như thế nào khi uống trà trong khi ta vẫn còn sống. Một số chuyện không thể đợi đến khi ta chết.” Mẹ mới bối rối làm sao chứ? Tất nhiên mỗi lần đến thăm bà mẹ lại mang về một ít trà.”

Phil quay trở lại với Cleo, Tessa ngay sau lưng. Bây giờ tôi mới thật sự buồn khi chúng tôi phải ra về. “Chúng ta sẽ muộn mất,” Phil nói. Tôi đặt tách trà xuống.

“Đừng có quên,” mẹ tôi nói với Phil, “Quà của bà dì ở trong phòng phơi đồ.” Cleo nói, “Quà à, con có quà không?”

Phil ném cho tôi một cái nhìn ngạc nhiên. “Nhớ không?” Tôi nói dối, “Em đã bảo anh – quà của bà dì để lại cho chúng ta theo di chúc.”

Anh nhún vai và chúng tôi đi theo mẹ ra sau. “Tất nhiên nó cũ lắm rồi,” mẹ tôi nói. Mẹ tôi bật đèn, tôi nhìn thấy nó đặt trên máy sấy quần áo, đó là một cái bàn thờ vị thần may mắn của bà dì, một vị thần Trung Hoa.

“Ôi! Tessa kêu lên. “Một ngôi nhà búp bê Trung Hoa.” “Con chẳng thấy gì, con chẳng thấy gì.” Cleo nói còn Phil thì nhấc bàn thờ lên, mang nó vào bếp. Cái bàn thờ chỉ bằng kích thước của một ngăn kéo nhỏ sơn màu đỏ. Theo một cách nào đó nó giống một sân khấu thu nhỏ trong một vở kịch Tàu, phía trước ó hai cái cột sơn son thiếp vàng, hai ngọn đèn điện giả nến làm bằng plastic màu đỏ, nóc bàn thờ trang trí bằng gióng cây tròn của Trung Hoa, màu đỏ như là cái khung. Hai bên là những mẩu gỗ có viết mẫu tự Tàu.

“Câu này có nghĩa gì mẹ?”

Bà di ngón tay xuống bên phải rồi xuống bên trái “Cát tường như ý, hai chữ đầu có nghĩa là may mắn, hai chữ kế tiếp cũng nói đến một lại may mắn khác, và những chữ này có nghĩa là tất cả những gì mà bạn mong muốn. Tất cả những điều mà bạn ao ước.”

“Cái này thờ ai, cái người trong khung ảnh này là ai?” Bức vẽ trông gần giống như trong phim hoạt hình. Người đàn ông to béo với dáng ngồi trông vừa vương giả vừa đường bệ, một tay cầm viết lông ngỗng, một tay cầm bài vị. Ông ta có hai cái ria rõ dài trông giống như hai ngọn roi đen mượt.

“Ô, ông này người Hoa gọi là ông Táo. Theo mẹ, ông này không phải là vị thần quan trọng. Không giống như Đức Phật, không giống như Quan Âm Bồ Tát cứu khổ độ nạn – không phải là ở địa vị cao, cũng không cùng một nấc với Thần Tài. Có thể ông là một người quản lí, một người giữ kho, quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều nữa những vị thánh ở bên trên.”

Phil lặng lẽ cười trước lời giải thích Mỹ hóa của mẹ tôi về tôn ti trật tự trong thế giới thần thánh của người Hoa. Tôi tự hỏi đó có phải là điều mẹ tôi thật sự nghĩ về họ như thế hay bà chỉ dùng những ẩn dụ để cho chúng tôi dễ hiểu.

“Ông Táo là cái gì vậy? Tessa hỏi. “Con có thể có một ông như vậy không?”

“Ông chỉ là một truyền thuyết thôi,” mẹ tôi đáp.

“Một truyền thuyết à!” Cleo kêu lên. “Con muốn nghe.”

Mặt mẹ tôi vụt sáng lên. Bà vỗ đầu Cleo. “Con muốn nghe một chuyện nữa của Ha-bu ư? Tối qua con nghe chưa đủ sao?”

“Chúng ta về nhà thôi,” Phil nói với Cleo. “Ha-bu quá mệt để kể thêm một chuyện nữa cho con lúc này.”

Nhưng mẹ tôi làm như không nghe cái cớ Phil đưa ra. “Đó là một câu chuyện hết sức đơn giản thôi”, bà nói với Cleo giọng âu yếm. “Ông ta trở thành ông Táo như thế này.”

Trong khi mẹ tôi bắt đầu câu chuyện tôi bâng khuâng bởi một cảm xúc quen thuộc như thể tôi cũng như Cleo, lại bé lại cái tuổi lên ba, vẫn háo hức tin vào tất cả những gì mẹ nói.

“Ngày xửa ngày xưa ở nước Trung Hoa,” tôi nghe mẹ tôi kể, “có một nhà nông giàu có tên là Trang, ông ta là một người may mắn cực kì. Cá tôm ngoài sông ngòi nhảy vào ao của ông, heo nhởn nhơ trên đất của ông, gà vịt bay tới bay lui trên sân nhà ông dày đặc như những đám mây. Sở dĩ ông được như vậy là vì ông đã được ban cho một người vợ chăm chỉ hết mực tên là Quắc. Bà đánh bắt cá trong ao của ông, chăm đàn heo cho ông. Bà vỗ béo đàn gia cầm nhà ông, bà cứ nhân đôi tài sản của ông năm này qua năm khác.

Trang có tất cả những thứ mà ông có thể đòi hỏi - từ dưới nước, trên cạn và trên trời cao. Nhưng Trang không thỏa mãn. Ông muốn vui vẻ với một người phụ nữ xinh đẹp, nhởn nhơ vô tư lự tên là Lí. Một hôm ông ta đưa bà này về nhà và bắt người vợ tốt bụng của mình hầu hạ bà ta. Khi người đàn bà tên Lí này đuổi vợ ông ra khỏi nhà, ông cũng chẳng buồn đuổi theo kêu lên:

“Trở lại đi, người vợ đáng quý của tôi. Trở lại đi.”

Bây giờ ông ta và bà Lí tự do ngã vào vòng tay nhau. Họ quăng tiền đi như là đổ nước dơ ra ngoài cửa vậy. Họ giết hàng đàn gà vịt chỉ để ăn cái lưỡi của chúng. Chỉ trong vòng hai năm thôi, của cải đội nón ra đi, đất đai của Trang cũng chẳng còn gì cũng như trái tim của ông ta vậy. Tiền bạc không còn, người đẹp Lí cũng bỏ ông ta chạy theo một người đàn ông khác.

Trang phải ngửa tay xin ăn, ông ta chẳng còn gì ngoài một cái khố. Ông ta bò từ cửa nhà này sang nhà người khác van nài “cho tôi xin nắm gạo mốc.”

Một hôm ông ta ngã nhào xuống đất, mặt ngẩng lên nhìn trời sẵn sàng chờ chết. Ông ngất xỉu đi, mơ thấy mình ăn những đám mây mùa đông đang bay trên đầu. Khi mở mắt ra ông thấy những đám mây hóa ra là một làn khói. Đầu tiên ông ta sợ hãi nghĩ rằng ông ta rơi xuống hỏa ngục, nhưng khi ngồi dậy, ông thấy mình đang ngồi trong nhà bếp cạnh một bếp lửa ấm áp. Cô gái ngồi coi lửa giải thích rằng bà chủ cô đem lòng thương hại ông - như bà lão cũng đối xử như vậy với tất cả mọi người nghèo, những người già cả, những người đau ốm và những người khó khăn.

“Thật là một người phụ nữ quý hóa!” Trang thốt lên, “Bà ở đâu để cho tôi đến cảm ơn?” Cô gái chỉ ra ngoài cửa sổ và ông ta chỉ thấy một người đàn bà đang bước đến trên lối đi. Úi da, người này chẳng phải ai khác chính là người vợ tốt đẹp Quắc của ông! Trang bắt đầu nhìn quanh trong bếp tìm chỗ nấp, rồi ông ta nhảy vào ngọn lửa luôn ngay khi vợ ông ta bước vào.

Người vợ tốt bụng Quắc chảy không biết bao nhiêu là nước mắt để dập tắt ngọn lửa. Vô ích, Trang bị thiêu ra tro vì hổ nhục, và tất nhiên cũng bởi vì ngọn lửa rừng rực trong lò. Quắc nhìn nắm tro của chồng bay thẳng lên trời với ba cột khói. Úi trời.

Trên thiên đàng, Ngọc Hoàng nghe lại toàn bộ câu chuyện của người mới thăng thiên. “Vì nhà người đã dũng cảm thừa nhận sai lầm của mình”, Ngọc Hoàng phán, “ta sẽ phong cho ngươi chức Táo Quân để dám sát cách cư xử của người trần. Mỗi một năm người phải cho ta biết ai xứng đáng hưởng những điều tốt đẹp, ai phải bị trừng phạt.”

Kể từ đấy người Hoa biết là Táo Quân sẽ để mắt trông coi họ. Từ cái góc của mình trong mỗi ngôi nhà, mỗi cửa hiệu, ông sẽ ghi nhận tất cả những kiểu cách tốt đẹp cũng như xấu xa của con người: rộng rãi hay tham lam, bản tính dễ hòa hợp hay ưa phàn nàn, gây sự, mỗi năm một lần vào bảy ngày trước Tết, ông Táo sẽ rời bếp lò bay về trời báo cáo lại ai là người đáng được thay đổi phần số, tốt hơn hay tệ đi.

“Hết rồi à!” Cleo reo lên hoàn toàn thỏa mãn. “Nghe như là ông già Noel ấy,” Phil vui vẻ nói.

“Hừm!” Mẹ tôi thốt ra với giọng điệu ám chỉ Phil thật là ngu ngốc. “ Ông ta không giống như ông già Noel - mà là một kiểu do thám - như là nhân viên FBI, CIA, Mafia, còn tệ hơn cả nhân viên thuế, một kiểu người như vậy đấy. Ông ta không cho ai quà, mà người ta phải cúng ông ta mọi thứ. Suốt một năm người ta phải thể hiện lòng tôn kính với ông bằng cách cúng trà, cam. Vào dịp Tết âm lịch, người ta thậm chí phải cúng nhiều hơn - có thể là úytxki để ông uống này, thuốc lá để ông lâng lâng vì rượu, để khi bay về trời thì ông sẽ nói tốt cho họ. Gia đình này tử tế đấy, người ta hi vọng ông nói thế, làm ơn hãy ban cho họ nhiều may mắn lợi lộc trong năm tới.”

“Thật là một cách chả tốn kém gì để có thêm nhiều may mắn tới.” Tôi đùa, “rẻ hơn chơi xổ số nhiều.”

“Không phải,” mẹ tôi la lên làm tất cả mọi người giật mình. “Con không biết đâu, thỉnh thoảng ông ấy rất khó chịu. Đôi khi ông ấy nói, thần không thích gia đình này, hãy làm cho họ lụn bại đi. Thế thì con sẽ gặp rắc rối to mà chẳng làm gì được. Tại sao tôi lại cần cái loại người như vậy phán xét tôi, cái người đã xử tệ với vợ như vậy? Chỉ có vợ ông ta mới là người tốt, ông ta xấu.”

“Vậy tại sao bà dì lại thờ cúng ông ta?”

Mẹ tôi cau mày suy nghĩ về điều đó. “Mẹ nghĩ có thể là thế này. Một khi con đã bắt đầu thì con không dám dừng lại. Bà đi thờ cúng ông từ ngày bà còn bé tí. Họ hàng nhà bà đã thờ cúng như vậy hàng mấy thế hệ rồi ở Trung Hoa.”

“Tuyệt!” Phil nói. “Thế bây giờ bà ấy chuyển cho chúng con của nợ này. Cảm ơn bà dì nhưng chẳng có ân huệ gì cả,”

Anh liếc nhìn đồng hồ, tôi biết anh rất nóng lòng muốn ra về.

“Đây là món quà bà dì để lại cho con,” mẹ tôi nói với giọng tủi hờn. “Làm sao bà nghĩ là nó không tốt chứ? Bà chỉ muốn để lại cho con cái gì tốt đẹp nhất của bà.”

“Có thể bọn con gái sẽ dùng bàn thờ này để làm đồ chơi,” tôi gợi ý. Tessa gật đầu, Cleo tán thưởng. Mẹ tôi nhìn chằm chằm cái bàn thờ chẳng nói gì.

“Mẹ nghĩ ra cách này,” cuối cùng bà tuyên bố, mặt bà biểu hiện một nỗi ưu tư. “Con cứ mang bàn thờ này về đi. Mẹ có thể tìm cho con một vị thần may mắn để thờ, không phải ông này.” Bà lấy bức hình Táo Quân ra khỏi bàn thờ. “Mẹ sẽ thờ ông này. Bà dì sẽ hiểu thôi. Kiểu ban phước này con không cần, thì con cũng không cần phải lo lắng gì.”

“Tốt,” Phil nói ngay. “Gói nó lại.” Nhưng bây giờ tôi lại đâm ra lo lắng. “Mẹ chắc chứ?” Mẹ đang nhét hai cây đèn cầy bằng plastic vào một cái túi dùng rồi. Tôi không tin dị đoan. Tôi không thích những lá thư cầu may mà Mary luôn gửi đến cho tôi, trong khi tôi không bao giờ nhân bản những lá thư ấy thì tôi cũng không vứt lá thư gốc đi.

Phil mang cái khung bàn thờ, Tessa cầm giỏ đựng mấy cây đèn cầy. Mẹ tôi dẫn Cleo lên cầu thang tìm vòng đeo tay phản quang mà nó bỏ quên trong phòng tắm. Khi mẹ tôi quay lại với Cleo bà đưa cho tôi một giỏi thực phẩm nặng, một bọc trái cây, kẹo Tàu cùng vài thứ lặt vặt,

“Mẹ đưa cho con một ít trà của bà dì,” mẹ tôi nói. “Đừng có cho quá nhiều trà. Chỉ việc thêm nước vào. Vị trà luôn còn lại.”

Mười lăm phút sau khi rời nhà mẹ tôi bọn trẻ đã ngủ cả. Phil chọn con đường cao tốc 280, một con đường vắng hơn và cũng dài hơn. Chúng tôi còn cách nhà khoảng 35 dặm.

“Chúng ta sẽ không giữ cái bàn thờ này phải không?” Phil nói. Đó là một câu khẳng định hơn là một câu hỏi.

“Hử.”

“Xấu hoắc.” anh nói thêm. “Dù vậy anh nghĩ rằng chúng ta có thể cho bọn trẻ chơi cho đến khi chúng chán thì thôi.”

“Ừm.” Tôi nhìn qua cửa sổ xe hơi nghĩ về vị thần may mắn nào đó bà sẽ mua cho tôi. Chúng tôi vượt qua những biển trên đường cao tốc và những chiếc xe vào ngày Chủ nhật để đi vào làn đường có tốc độ chậm hơn. Tôi nhìn vào đồng hồ tốc độ, chúng tôi đi gần 140 cây số một giờ.

“Làm gì mà phóng dữ vậy?” tôi hỏi.

“Có gì ăn không em?”

Tôi nhớ đến cái giỏ mẹ đưa cho tôi. Nó nằm dưới chân tôi. Tôi nhìn vào trong giỏ, bên trong có một vài cuộn giấy vệ sinh, một ít trà của bà dì, vài quả quýt và bức ảnh của cha mà tôi đã vô tình làm vỡ tháng trước, khung kính đã được thay lại.

Tôi đưa cho Phil một quả quýt sau đó quay mặt về phía cửa sổ để anh không nhìn thấy những giọt nước mắt của tôi. Tôi nhìn quang cảnh chúng tôi đang vượt qua, những bồn chứa, những quả đồi thoai thoải, những ngôi nhà mà tôi đã đi qua hàng trăm lần mà chẳng bao giờ tự hỏi ai sống trong đó. Hết dặm này đến dặm khác, tất cả đều quen thuộc, mà không, khoảng cách này đang chia cắt chúng tôi, tôi và mẹ.