← Quay lại trang sách

Chương 21 MẸ CỦA DU NHỎ

Chỗ ở của Peanut cách đấy không xa. Trong một quãng đường ngắn, chúng ta chỉ có đủ thời gian nói một vài điều.

“Tại sao anh lại đợi? Em tới quá trễ mà.” “Anh nghĩ có thể là tại đôi giầy của em. Anh đoán em lại làm tuột gót giầy như em đã làm thế trong trong đêm vũ hội ở Côn Minh.” Ta cười, Jimmy Louie cũng cười theo rồi anh trở nên nghiêm trang. “Anh lúc nào cũng yêu em, yêu em từ cái ngày ấy, cái cách mà em chẳng làm gì cả, khiêu vũ với một chiếc giầy sứt gót hoặc bằng đôi chân đất. Một cái vẻ mong manh, nhưng lại mạnh mẽ và can trường, của một kiểu người không gì có thể ngăn cản được.”

Cha con đã nói thế, thật đấy. Anh nghĩ ta là một con người mạnh mẽ. Vậy mà ta chưa bao giờ nghĩ là mình như thế. Ta không biết tại sao anh tin như thế. Suốt cả đời mình anh tin là ta như thế. Lạ lùng chưa?

Dù sao thì ta cũng kể cho anh nghe ta đau khổ ra sao trong cuộc hôn nhân này, ta cố gắng như thế nào để bỏ Văn Phú trong thời gian chiến tranh nhưng không thể chỉ vì có Đạm Như. “Nhưng bây giờ em sẽ hỏi cô em họ xem cô ấy đã làm gì,” ta nói. “Em cũng sẽ li dị.” Còn anh nói. “Em thấy là mình mạnh mẽ như thế nào chưa?”

Ta nói, “Đó không phải là mạnh mẽ. Em không còn chút sức lực nào đấu tranh với hắn. Đôi khi em không biết tại sao em có thể sống thêm một ngày nữa với hắn.” “Đó chính là sức mạnh của em.” Lúc đó thì chúng ta đã ở trước nhà Peanut, một căn nhà trọ.

“Em sẽ đi lâu đấy,” ta nói. “Hai, ba hay bốn giờ” không thành vấn đề, anh cũng sẽ đợi. Anh đã đợi em gần năm năm rồi.”

Con thấy cha con lãng mạn như thế nào chưa? Thật khó mà để anh ở đây khi mà ta vừa tìm thấy anh.

Ta đi vào một cái bếp chung bé tẹo. Trên sàn nhà có hai đứa bé, ta hỏi người đàn bà đang nấu bếp là có cô Giang Hoa Sinh có sống ở đây không. “Ai?” bà ta la lên. “Cô muốn gặp ai?” Ta bước lại gần cái chảo rang, nói to cái tên át cái tiếng dầu chiên xèo xèo. Bà mỉm cười lau một vết dơ trên áo, chạm vào khuỷu tay ta và chỉ về phía cầu thang, “Đi lên đây cô em nhỏ tầng ba phòng số 2. Tốt nhất là hãy gõ cửa, cô ấy đang có khách.” Bà quay lại cái chảo chiên cười một mình, “Quá nhiều khách.” Ta bước lên những cầu thang, với mỗi bước đi lên ta bắt đầu trở nên lo lắng băn khoăn không biết ta sẽ tìm thấy cái gì trên kia, điều gì sẽ xảy ra khi Peanut trở thành những người vợ vỉa hè. Đó có phải là điều xảy ra với một phụ nữ bỏ gia đình, bỏ chồng không? Cô ta có thể làm gì để nuôi thân khi không chồng con, không có gia đình?

Ta đứng ngoài cửa căn phòng số 2. Ta có thể nghe thấy một giọng nói có vẻ là giọng đàn ông. Rồi ta nghe thấy một giọng đàn bà, giống như giọng Peanut, cũng vẫn giọng nôn nóng, kết thúc bằng một điệu ảo não. Ta gõ cửa, giọng nói im bặt. “Ai đấy? Peanut nói với ra một giọng bất lịch sự “Giang Vi Vi!” ta kêu lên. “Chị họ Giang của cô!” Trước khi ta có thể nói thêm điều gì cánh cửa bật mở, Peanut kéo ta vào phòng, sập cửa lại. Cô kéo tóc bẹo má ta rồi la lên, “Nhìn chị kìa! Cuối cùng chị cũng đã tới! Tại sao chị biến đi lâu quá vậy?”

Trông cô vẫn thế. Đó là ý nghĩ đầu tiên của ta. Cũng cái nụ cười nũng nịu, ánh mắt tinh nghịch. Ta cảm thấy nhẹ nhõm. Nhưng ý nghĩ tiếp theo của ta là trông cô hoàn toàn khác, một người mà nếu đi ngang qua ta sẽ không nhận ra. Tóc cô cắt ngắn, không theo một kiểu nào. Cô bận một cái áo khoác cài nút đơn giản, chất lượng kém, thẳng đuột vì thế ta không thể nói cô mập hay ốm. Khuôn mặt cô - không hề có phấn sáp gì - chỉ là khuôn mặt mộc. Con phải nhìn thấy cô ấy, đó là cô gái thường tự hào về nước da trắng xanh như men sứ của mình. Còn bây giờ trông cô đen gần như một người Quảng Đông. “Này! Đây là bạn em, Vũ,” cô nói, xoay người ta lại. Ta nhìn thấy một người đàn ông trẻ với một cặp kính tròn, mái tóc đen dầy trải lật ra phía sau. Anh ta cầm một cái cọ vẽ trên tay. Những tờ giấy lớn trải khắp phòng - trải trên sàn nhà, trên ghế, trên chiếc giường nhỏ của cô. Tất cả đều nói về một cuộc mít tính của sinh viên phản đối cải cách ruộng đất mới. Điều này chứng tỏ Peanut đúng là một người Cộng sản.

“Mang những tấm áp phích đã viết xong đi. Chúng ta sẽ hoàn tất cả những cái kia vào tối nay.” Cô nói với người thanh niên bằng một giọng chỉ huy. Nhưng người thanh niên không lấy làm điều. Anh nhanh chóng cuộn những khẩu hiệu lại chào ta một cách lịch sự rồi bỏ đi.

Ta chẳng biết nói gì, vì thế ta đưa cho cô mấy món quà, cả hai đều được gói giấy. Ta nghĩ cô sẽ cất đi, mở ra khi có một mình. Đó là một phép lịch sự phải làm. Người Trung Hoa bao giờ cũng làm như thế, như vậy nếu con không thích món quà không ai nhìn thấy sự thất vọng trên mặt con. Nhưng cô không đợi. Cô mở món quà của thím Lớn trước. Đó là một gương nhỏ theo lối cổ bằng bạc có chạm trổ ở phía sau, trên tay cầm. “Ôi nhìn này” Peanut nói, cau mày, “lần cuối cùng em gặp mẹ, mẹ bảo em, “Cô gái đẹp mà ta từng biết, cô ấy vẫn còn chứ?” em nói với mẹ là em không có gương để tự nhìn mình, nhưng xấu hay đẹp thì em biết là em vẫn tồn tại. Bây giờ thì chị biết là mẹ cho em cái gì. Hừm! Mẹ nghĩ cái vật ngớ ngẩn này sẽ thuyết phục em trở về với cuộc đời cũ.” Peanut soi gương. Với ta có vẻ như cô vẫn còn thói phù phiếm ngày xưa. Cô xoa xoa hai má, mở to đôi mắt, mỉm cười với những gì cô thấy. Đúng là cô vẫn đẹp. Nước da mịn màng, đôi mắt lớn, mặc dầu khuôn mặt cô hơi thô. Tất nhiên cái khiếm khuyết này chẳng có liên quan gì với việc cô trở thành người Cộng sản. Cô là như thế, ngay từ khi là một đứa trẻ được nuông chiều, không hề có một mối cảm thông nào dành cho một người kém may mắn hơn. Cô đặt cái gương xuống, mở gói quà thứ hai.

“Chị sợ rằng món quà của chị cũng không làm em vui lòng.” ta nói. Cô xé cái gói giấy như một đứa trẻ, giơ cái vớ len, bắt đầu cười, một tràng cười to, và dài. “Chị có thể lấy lại,” ta nói cảm thấy rất xấu hổ, “đưa lại đây cho chị.” “Không, không” cô kêu lên, ôm chúng vào lòng. “Những chiếc vớ này rất có giá. Em có thể bán ra chợ đen với một gia hời. Một món quà tốt đấy.” Cô nhìn ta sau đó nói bằng một giọng thẳng thắn không ngại ngùng, chẳng có gì cho chị. Nhưng bây giờ em chẳng có thời gian để gìn giữ tất cả những hủ tục màu mè ấy.”

“Tất nhiên,” ta nói, “em đâu có biết là chị đến là chị đến - làm sao em… ”

“Không.” - cô ngắt lời ta bằng một giọng cứng cỏi. muốn nói, “thậm chí nếu em biết, thậm chí nếu em có tiền, em cũng chẳng quan tâm đến tập tục này nữa. Quá nhiều phiền toái cũng chẳng để làm gì phải không?”

Ta sợ rằng Peanut trở nên quá chua chát. Cô đặt tất cả những cái vớ lên kệ. Nhưng khi quay lại, cô giơ tay cho ta, gọi ta là Đường tí, cái tên thân mật mà ngày xưa chúng ta vẫn dùng để gọi nhau khi còn bé. “Đường tí”, cô lại gọi lần nữa, cầm tay ta, siết chặt, “em rất mừng là chị đã tới, bây giờ chị biết đấy đó không phải là một lời lịch sự.” Chiều hôm ấy chúng ta đã nói chuyện thân mật với nhau, chúng ta ngồi trên giường kể cho nhau nghe về mọi chuyện, cũng theo cái cách mà chúng ta làm hồi còn bé. Duy lần này chúng ta không phải nói thầm, chúng ta nói chuyện cởi mở với nhau về mọi thứ. Chín năm về trước, chúng ta cãi nhau xem ai là người có được cuộc hôn nhân tốt nhất. Bây giờ chín năm sau chúng ta cãi nhau xem ai là người có cuộc hôn nhân tồi tệ nhất.

“Nghĩ xem,” ta nói. “Em đã từng phát điên lên khi Văn Phú cưới chị chứ không phải em. Bây giờ thì em biết em đã tránh được bao nhiêu đau khổ.”

“Dẫu vậy cuộc hôn nhân của chị vẫn tốt của em. Cuộc sống vợ chồng của em mới là địa ngục!”

“Em không biết,” ta nói. “Em không thể tưởng tượng được một người chồng độc ác đê tiện ích kỉ...” Nhưng Peanut bùng ra: “Chồng em là một tử bất dụng”. Khi Peanut nói thế ta không tin. Ta không biết từ này trong tiếng Anh là gì, nhưng trong tiếng Thượng Hải nó có nghĩa là “gà mái - gà con - gà trống” tất cả những thành phần của giống đực, giống cái cần thiết để ấp một quả trứng thành gà con. Một lần chị em ta nghe thím Lớn kể về một người họ hàng xa đẻ ra một tử bất dụng, một đứa trẻ có cả hai bộ phận nam và nữ. Thím lớn nói mẹ của đứa trẻ không biết nuôi nó theo kiểu con trai hay con gái. Sau này bà ta không cần phải lựa chọn bởi vì đứa bé đã chết. Thím Lớn nghĩ rằng người mẹ đã giết nó vì rằng nếu bà nuôi dạy nó như một thằng con trai thì nó cũng sẽ không bao giờ có con.

“Làm sao chồng em lại là một tử bất dụng dược” ta hỏi Peanut. “Chị nhớ trong thư em nói ông ta có năm con trai với người vợ cả đã quá cố mà.” “Mỗi năm gia đình này lại đi về những làng heo hút mua một đứa bé trai mới lọt lòng về nuôi. Chị có thể nhìn thấy chúng - chẳng đứa nào giống đứa nào. Đứa thì đen, đứa thì trắng. Đứa này thì sinh động, tròn trĩnh đứa khác thì gầy, lặng lẽ. Bất cứ ai có mắt, có đầu đều có thể nhìn thấy đó là những đứa con được mua về.”

“Nhưng làm sao Ngao Ngao lại làm mối cho em một người như vậy?”

“Bà ấy không biết. Bà mẹ chồng bao giờ cũng nuôi những đứa bé như con trai. Nhiều tháng sau khi cưới, em cũng không biết. Y không hề đụng đến em. Em nghĩ y không thích em,”

“Sau đó em nhìn thấy hai bộ phận của hắn?”

“Em nhìn thấy hắn ở trên giường em với một người đàn ông khác! Cái bộ phận phụ nữ trong con người y thèm khát một người đàn ông. Em chạy đến chỗ mẹ y, nói với bà những điều em thấy, chị biết mụ ta làm gì không? Mụ tát em, bảo em không bao giờ được tập lại một điều dối trá như thế về con trai mụ ta.”

“Nếu em không bao giờ nhìn thấy hai bộ phận,” ta hỏi, “làm sao em biết hắn là tử bất dụng?”

Peanut thở dài. “Bởi vì khi em bảo bà mẹ con trai mụ là một tử bất dụng, bà đã tát hết lần này đến lần khác, như thể bà có thể thay đổi cái sự thật đó bằng cách làm em tin vào một điều khác.”

Ta kể cho con nghe chuyện này theo cách Peanut nói với ta. Vì thế ta không thể nói với con rằng liệu chồng cô ấy có đúng như cô nói. Có thể cô nói như vậy vì bởi đó chúng ta chưa có từ “đồng tính luyến ái”. Nếu một người đàn ông không cưới vợ mọi người sẽ xì xầm, “có thể hắn là một tử bất dụng”. Họ không nói như thế với một người đàn bà không lấy chồng. Họ có một từ khác để nói nhưng bây giờ ta quên mất rồi.

Dù sao, Peanut nói cô ấy cũng chỉ là một người vợ trên danh nghĩa. “Một năm sau, mẹ chồng buộc em đi trốn trong năm tháng. Em không được gặp ai. Cuối cùng bà mẹ lại trưng ra một đứa con trai mới đẻ cho mọi người. Em phải giả vờ đứa bé đó là con của em. Nói thật với chị, em chẳng quan tâm gì đến đứa bé này. Em mất đi niềm hứng thú đối với mọi thứ trên đời, đối với tất cả quần áo đẹp của em. Chúng chả có nghĩa lý gì. Cuộc đời em giống như một câu nói em đã đọc được ở đâu đó: Chúng ta đang sống trong một thế giới nơi mọi thứ đều là giả dối. Xã hội như một nước sơn đẹp phủ lên một miếng gỗ mục rỗng.”

Ôi! Khi cô nói điều đó, giọng cô vang lên giống như một người làm cách mạng, tuy vậy cô vẫn là cô bé Peanut ngày xưa, ngày chúng ta cùng lớn lên: Đầy tự hào, cứng đầu trong việc tìm ra đường đi của mình, dùng những danh từ kêu như chuông bằng ý kiến của người khác.

“Cuối cùng làm sao em bỏ đi được?” ta hỏi.

“Chị còn nhớ cô gái tên là Du nhỏ không? Cô gái học cùng trường chúng ta ấy.” Ta gật đầu. Tất nhiên là chị nhớ, cái cô bé tinh nghịch đã đánh tráo tất cả giầy của mọi người trong lúc chúng ta ngủ. Thật là cảnh hỗn loạn vào sáng hôm sau, mỗi cô gái có một chiếc giầy bên phải to, bên trái nhỏ hoặc hai chiếc chân phải hoặc hai chiếc chân trái. Chúng ta đến lớp trễ do cố gắng tìm giầy của mình. Thật là một cô gái quậy phá.” “Cô ấy đã giúp em thoát khỏi cuộc hôn nhân này,” Peanut nói.

“Du nhỏ ư?”

“Bằng cách tuyên truyền,” Peanut đáp. Đó là sau khi em đã cưới một con gà mái và gà trống được bốn năm, mẹ hắn bao giờ cũng mổ vào chân em mà không cho em cơ hội để cứu vãn.”

“Chị cũng cảm thấy như vậy,” ta nói. “Chính xác là vậy.”

“Em nghĩ về tuổi trẻ của em, về những gì em đã từng mơ ước.”

“Cùng với tất cả niềm hi vọng của em, sự ngây thơ của em” ta chêm vào.

“Để em nói hết,” Peanut tiếp tục. “Dù sao thì với cảm giác ấy trong lòng, em quyết định đi thăm trường cũ gặp thầy cô giáo cũ. Thế là em đi, cô Momo - chị có nhớ cô không, một người có một lỗ mũi to, một lỗ mũi nhỏ. Ta gật đầu, “Cô ấy bao giờ cũng rất nghiêm khắc.” “Lúc đó cô Momo đã trở thành hiệu trưởng, cô muốn cho em biết tiền của đã được đổ ra để sửa sang trường lớp như thế nào, cô chỉ cho em thư viện mới, nhà nguyện với cửa sổ có tượng Chúa hài đồng mới.

Sau đó cô dẫn em ra phía sau đến một nghĩa trang nhỏ. Chị còn nhớ cô Momo vẫn thường phạt chúng ta ra nghĩa trang khi chúng ta quậy phá không? Cô nghĩ điều đó sẽ làm chúng ta hoảng sợ để chúng ta trở nên ngoan ngoãn hơn. Nghĩa trang có một vòi phun nước mới, nước phun ra từ miệng một đứa bé. Em đứng nhìn quanh nhìn quẫn, chợt em phát hiện ra, một bia mộ khắc tên Du nhỏ. Em bàng hoàng, cứ như thể nhìn thấy Du nhỏ biến thành đá.

“Chuyện gì xảy ra vậy?” em hỏi cô Momo. Cô nói “Ồ, đó là một câu chuyện buồn. Nó chỉ cưới được một năm, sau đó nó chết bất thình lình, một tai nạn.”

“Cô Momo không nói đó là tai nạn gì. Nhưng ngay lập tức em nghi ngờ. Tại sao cô ta lại được chôn trong nghĩa trang của trường? Gia đình của chồng cô phải chôn cô trong phần mộ gia đình họ chứ. Em nói điều đó với cô Momo. Cô nói, “Con bé đã hạnh phúc ở đây trong nhiều năm”. Đó là lí do mẹ nó nghĩ nó phải được bao bọc bởi các cô gái hạnh phúc khác.”

“Em tự nhủ, đó là chỉ một ý muốn chứ không phải một lí do. Trong khi em vẫn choáng váng về điều đó em nghe có một giọng thì thầm bên tai. “Tìm nguyên nhân đi!” Đúng là như vậy. Ngay lập tức em thấy mình đang hỏi cô giáo về địa chỉ gia đình Du nhỏ, để em có thể bày tỏ lòng thương tiếc. Em không biết tại sao em làm thế. Em không còn là mình nữa. Một cái gì đã thúc đẩy em.

“Rời khỏi trường em đến nhà Du nhỏ ngay tập túc. Đó là lần thứ hai em bị sốc. Du nhỏ không xuất thân từ một gia đình giàu có như phần lớn học sinh trường này. Ngôi nhà của gia đình hóa ra là một căn hộ hai phòng trên lầu hai của một tòa nhà cũ khá hơn người nghèo một chút. Gia đình chỉ là một bà mẹ góa. Bà mẹ đáng thương này nhận được một món tiền thừa kế nhỏ từ ông cậu, bà dùng nó để trang trải nợ nần, trả tiền học phí cho Du nhỏ, dành cho nó một khoản hồi môn khiêm tốn. Vì thế chị thấy đấy tất cả hi vọng của đời bà là dành cho cô con gái nhỏ bé này. Bây giờ nó đã chết sau một năm lấy chồng.”

“Ối da!” ta kêu lên, “Thật là một câu chuyện thương tâm?”

“Thậm chí còn đau lòng hơn thế,” Peanut tiếp. “Người mẹ rất mừng khi gặp em. Hình như không một ai một lần nhắc đến tên con gái bà. Đó là bởi vì cô con gái không chết vì tai nạn. Cô tự sát.”

“Tự sát!”

“Bà nói gia đình chồng đã bức tử cô. Em run bắn lên khi em nghe điều đó. Chỉ mới sáng hôm ấy em đã nghĩ đến việc em sẽ tự vẫn nếu như em không tìm được cách sớm thoát ra khỏi cuộc hôn nhân này.”

“Chị cũng có cùng một ý nghĩ đó,” ta thì thầm với Peanut.

“Bà mẹ tự kết án mình,” Peanut tiếp, “bởi vì bà đã tích cực tác hợp cuộc hôn nhân này cho một người cháu của một người bạn của một người em họ sống ở một làng ở Tô Châu. Người chồng tương lai, bà được biết, có một địa vị cao trong xã hội với công việc sản xuất mì của người cha.

“Mẹ của Du nhỏ chưa bao giờ gặp người cháu. Bà chỉ gặp anh ta lần đầu tiên trong đám cưới. Hắn ta trông có vẻ hồi hộp, người ta luôn phải nhắc nhở hắn đi như thế nào. Hắn cười ngặt nghẽo rồi cười oang oang chẳng đúng chỗ chút nào, làm cho mẹ Du nhỏ nghĩ rằng hắn say. Nhưng hắn không say. Hắn có đầu óc của một đứa trẻ lên ba. Hắn vẫn đái dầm. Hắn vẫn khóc khi có gió thổi mạnh. Hắn nghĩ Du nhỏ là chị lớn của hắn. Khi Du nhỏ trở về gặp mẹ, yêu cầu bà giúp đỡ thoát khỏi cuộc hôn nhân, mẹ cô nói rằng, đời cô chỉ tồi tệ hơn mà thôi, ít nhất thì gia đình này cũng tốt với cô, cho cô ăn uống đầy đủ. Mặc dù người chồng chậm phát triển, hắn vẫn là cha của nhiều đứa trẻ con. Hắn làm điều ấy với một cô gái trong làng. Vì thế bà mẹ bảo cô con gái, “Thôi ngoan đi, chịu khó chịu đựng đi con.” Du nhỏ trở về nhà chồng. Cô trèo lên một cái cây ở ngoài sân. Buộc một đầu dây thừng vào một cành cây đầu kia vào cổ cô rồi nhảy xuống.

“Một năm qua,” bà mẹ nói, “tôi chỉ có một ý nghĩ là làm một việc tương tự.” Mẹ Du nhỏ khóc khi bà nói với em điều đó, em cùng khóc với bà. Em cảm thấy sợi dây trên cổ em khi bà bảo với em điều đó. Em nói như trong một giấc mơ, “Đó là điều cô đã làm để thoát khỏi cuộc hôn nhân.” Nhưng mẹ Du nhỏ khóc, “Không, điều đó là sai. Nhưng điều ấy đã xảy ra cho nó vì rằng nó không có cách nào khác, rằng đã không có ai giúp đỡ nó.” Cuối cùng vào buổi chiều hôm ấy em đã có một trái tim đồng cảm lắng nghe những khúc mắc của em. Bây giờ em nghĩ; chính là giọng nói của Du nhỏ đã chỉ đường cho em tới mẹ cô. Bởi vì cuối năm đó chính mẹ cô đã giúp em trốn thoát khỏi cuộc hôn nhân kinh tởm này.”

“Bà làm điều đó như thế nào?” ta hỏi. Ta nghĩ ta chỉ cần một vài từ giải đáp cho tất cả những bất hạnh của mình. Peanut đứng dậy, “Tại sao chị không tự mình hỏi bà?”

“Cái gì?”

“Hỏi bà,” Peanut nói, “hỏi mẹ của Du nhỏ. Bà đang ở dưới nhà, nấu bữa ăn trưa cho tất cả những người phụ nữ trong ngôi nhà này, những người vừa từ bỏ cuộc hôn nhân của mình.”

Đó là cách ta phát hiện ra rằng cả ngôi nhà này là một nơi trú ẩn của toàn đàn bà và trẻ con. Con tưởng tượng được không? Ta vừa sợ hãi vừa phấn khích. Ta không nói ta muốn trở thành một người hoạt động Cách mạng, không phải như thế: Ta cảm thấy bị kích động bởi vì ta ở cùng một ngôi nhà với chín người phụ nữ có những cuộc hôn phối kinh khủng, chín người này không còn vâng lời chồng, mẹ chồng họ nữa.

Mẹ Du nhỏ vẫn nấu bếp khi chúng ta xuống nhà. Đó là cái tên mọi người gọi bà. Nhìn bà, con không nghĩ người phụ nữ bé nhỏ đang chiên cá khô, mướp đắng này là một người hoạt động bí mật. Nhưng vào thời đó hầu hết những người hoạt động cách mạng đều hoạt động ngầm, giấu mặt. Con sẽ phát điên hoặc bị thủ tiêu nếu con nói với mọi người con là người Cộng sản.

Những người phụ nữ khác về nhà ăn trưa vào những giờ khác nhau tùy theo công việc của họ. Một người dạy kèm sinh viên tiếng Pháp. Một người khác làm việc ở nhà máy giầy. Người khác nữa bện chổi rơm, mang bán dạo trên đường. Họ xuất thân từ nhiều thành phần giai cấp khác nhau. Thực tế, họ giống bất kì một loại người nào con có thể gặp ở Thượng Hải. Không có ai nói với con, “Tôi là một chiến sĩ Cộng sản. Còn chị?” Nhưng con có thể biết được điều đó căn cứ vào những điều họ nói. Khi chúng ta ngồi xuống ăn, chẳng hạn, mẹ Du nhỏ bảo với ta. “Tôi hi vọng món mướp đắng không bất đồng với cô quá nhiều. Tôi không thường xuyên ăn món này. Nhưng khi tôi ăn, tôi nhắc nhở mình, rằng tôi thật may mắn còn có cái để xơi.” Bà cười, Peanut, những người đàn bà khác cười theo. Tất cả bọn họ đều khoái món này không phải vì khẩu vị mà vì những câu chuyện diễn ra sau đó. “Ồ, chị chưa nếm mùi cay đắng,” Một trong số phụ nữ nói, “cho đến khi chị sống trọn một mùa đông với chỉ một viên gạch than để sưởi và nấu nướng.” Một người khác tiếp nói “Miếng mướp đắng này còn ngọt chán so với những gì mà tôi đã nuốt trong khi làm nô bộc cho một nhà giàu.”

Ta có thể nói với con điều này. Ta không thích mướp đắng, trước đây không, sau này không, bây giờ cũng không. Ta chẳng hề có tư tưởng cách mạng. Nhưng ta sẽ gia nhập vào tổ chức của họ nếu như họ kêu gọi ta. Ta sẽ ăn mướp đắng mỗi bữa, mỗi ngày, nếu như nó có nghĩa là ta có thể từ bỏ được cuộc hôn nhân này. Nếu như ta có cơ hội thay đổi cả thế giới này để thay đổi cuộc đời mình, ta sẽ làm không mảy may do dự. Ta nghĩ nhiều phụ nữ trong ngôi nhà này cũng có cảm giác như thế về đời họ. Sau khi chúng ta ăn xong bữa ăn đạm bạc tất cả mọi người xúm vào hỏi han ta. Mặc dầu họ là những người xa lạ, ta kể cho họ nghe hết mọi chuyện, về gia đình Văn Phú, về gia đình ta, về chuyện giờ đây Văn Phú kiểm soát hết mọi việc như thế nào.

“Vậy thì hắn sẽ không dễ dàng chịu li dị,” một trong những người phụ nữ ngồi quanh bàn nói. “Tôi cũng xuất thân từ một gia đình giàu có. Chồng tôi không muốn bỏ tôi vì điều đó có nghĩa là hắn phải từ bỏ gia đình giàu có của tôi.”

“Còn con cô? Cô có muốn mang nó theo không?” Mẹ Du nhỏ hỏi.

“Tất nhiên là có, chồng tôi chẳng hề quan tâm đến con trai chúng tôi. Hắn chỉ sử dụng nó như một vũ khí để ngăn tôi chạy trốn.” “Thế còn tiền?” một người khác hỏi, “Chị có vốn riêng không?”

“Chỉ có một ít trong số tiền hồi môn, cũng chỉ đủ chợ búa hàng ngày thôi.”

“Đừng quên đồ trang sức của chị,” Peanut nhắc nhở. “Hai cái vòng tay vàng trong đám cưới - chị còn giữ không? Còn hai chiếc dây chuyền, hai đôi bông tai, một chiếc nhẫn?” ta gật đầu. “Chồng cô có nhân tình không?” Mẹ Du nhỏ hỏi. “Nhiều lắm!” ta kêu lên. “Hắn giống như một con chó dại ấy, ngửi đít hết con chó cái này đến con chó cái khác.”

“Nhưng một người đàn bà đặc biệt, một người hắn đi lại trong một thời gian dài thì sao?” một người khác hỏi. “Đôi khi một người tình như vậy có thể buộc một người đàn ông bỏ vợ, nếu như sự khát khao của hắn đối với người đàn bà đủ mạnh,” chị ta nói để bật ra một tiếng cười trống rỗng.

“Hắn chẳng hề quan tâm đến một ai theo kiểu ấy,” ta đáp. “Trong quá khứ, thói quen của hắn là chọn một người đàn bà, xài cô ta một vài tuần sau đó thì bye nhé. Bây giờ chúng tôi đang sống trong nhà cha tôi, cũng có cả cha mẹ hắn. Có quá nhiều con mắt tập trung vào hắn vì thế hắn không thể diễn những trò đồi bại trong nhà nữa. Tôi không biết là hắn đang lăng nhăng với ai.” “Thế còn chị? Chị có một người tình không?” Người đàn bà bị mất một cái răng cửa hỏi to. “Tất nhiên là không,” ta nói một cách giận dữ, “chỉ có đạo đức của chồng tôi mới là xấu xa, chứ không phải tôi.” Sao chị lại có thể...” Ta chợt cảm thấy bối rối, rồi xấu hổ vì sự bối rối của mình. Bởi vì tất nhiên ta nghĩ đến Jimmy Louie. Chúng ta chưa phải là tình nhân, nhưng ta vẫn cảm thấy, lần đầu tiên, cái cảm xúc bí ẩn mà những người yêu luôn có, cái nỗi ngượng ngùng ấy. Mẹ Du nhỏ vỗ vào vai ta an ủi.

“Câu hỏi ấy không có ý lăng mạ cháu,” bà giải thích. “Đôi khi cũng có lợi đối với một người phụ nữ giả vờ là mình cũng có tình nhân”. “Đặc biệt là nếu người chồng có một bộ dạng quan trọng mà hắn không muốn bị mất” Peanut nói.

“Đó là điều mà chúng ta đã làm trong trường hợp của em họ cháu.” Mẹ Du nhỏ nói, “Tạo ra cớ là có một người tình. Cô ta được li dị rất nhanh.”

“Nhưng tại sao tôi phải làm như đây là lỗi của mình chứ?” ta hỏi.

“Tốt thôi!” người đàn bà mất một cái răng cấm cẳn. “Vậy thì hãy giữ gìn sĩ diện, giữ lấy cuộc hôn nhân đau khổ của mình. Quá đẹp đẽ, danh giá - những người phụ nữ như cô không dám phá bỏ những tập tục cũ. Trong trường hợp này, cô chỉ tự trách mình mà thôi.” “Thôi không cãi nhau nữa,” mẹ Du nhỏ can, “chúng ta chỉ hết sức cố gắng để tìm ra một giải pháp tốt nhất thôi.”

Bà quay về phía ta, “Như vậy, cháu phải gom tư trang, tiền bạc của cháu lại. Khi đã sẵn sàng, cháu, con trai cháu phải bỏ chạy mà không để cho ai biết. Khi cháu đến đây, chúng ta sẽ bàn xem phải làm gì tiếp. Cháu có thể tự mình lo việc chạy trốn không, hay cháu cần sự giúp đỡ?”

“Cháu có thể lo được,” ta đáp. Ta đã nói những lời này mà không biết ta sẽ phải làm gì để biến chúng thành sự thật