Chương 20 BỐN CÔ CON GÁI BÊN BÀN
Con có nhớ Edna Phong không? Bà ấy đi cùng nhà thờ với chúng ta, ba cô con gái, hai con trai có một con là bác sĩ. Bà ta đến dự lễ đính hôn của Bảo Bảo trong bộ đồ màu đỏ.
Helen bảo Edna vừa biết được một trong những con trai của bà bị bệnh thần kinh. Con trai của Edna có vấn đề chứ không phải của Helen nhé. Helen luôn nói rằng bao giờ bà cũng lo lắng rằng Frank không có một tương lai bảo đảm. Nhưng khi Helen nghe nói về con trai của Edna, dì ta trở nên vui vẻ. Vui sướng về Frank chứ không phải là con trai của Edna. Bà nói, “Ít nhất thì tôi cũng lấy làm nhẹ nhõm vì tôi không có phải lo lắng về những chuyện như vậy”. Ta tự hỏi, đó có phải là một kiểu sung sướng không hay chỉ là một cái cớ? Cũng giống như cái cớ mà những người biết điều ở Trung Quốc hay dùng đến. Nhìn vào rồi bất hạnh của người khác để không phải lo lắng đến những vấn đề của mình nữa.
Tại sao con lại so sánh cuộc đời của mình theo cách ấy? Lối nghĩ như vậy chỉ làm cho con cảm thấy sợ hãi. Con chỉ nghĩ đến những điều mà con có thể mất, không hề hy vọng cho một điều gì tốt đẹp hơn.
Nếu ta có cách nghĩ như vậy thì ta sẽ vẫn ở lại Trung Hoa. Bởi vì ta nhìn thấy rất nhiều người có cuộc sống tồi tệ hơn ta. Ví dụ ở Thượng Hải sau chiến tranh con có thể gặp đủ loại ăn mày, nhiều người trong số họ là phụ nữ, ngồi la liệt ở vỉa hè. Những dấu vết của cuộc sống đau khổ in trên mặt họ như là những dòng chữ quảng cáo. Người này bị chồng bỏ, người kia có cả gia đình bị chiến tranh cướp mất. Chồng chị nọ là một con nghiện thuốc phiện, đã bán tống bán tháo cả nhà kể cả những đứa con mình cho nàng tiên nâu.
Có thể có một số câu chuyện cường điệu lên. Nhưng con có thể hình dung điều mà ta đã nghĩ. Có lần ta tự nhủ rằng ta thà chối bỏ cuộc hôn nhân này để trở thành một người ăn mày! Ta cũng sợ. Nếu ta nghĩ rằng ta bỏ chạy vì một cái gì tốt đẹp hơn, có thể sẽ xảy ra một điều khác. Nhưng ta không có cái hy vọng ấy khi bỏ chạy. Ta nghĩ về điều này một thời gian dài. Sau đó con biết ta quyết định điều gì không? Ta vẫn muốn bỏ chạy. Thật thế. Một đêm ta nằm trên giường và ta tuyên thệ điều đó với chính mình, với mặt trăng tròn đầy đặn như mong muốn của ta. Ta không biết đó là cái gì, có thể là sự bướng bỉnh. Ta chỉ biết rằng ta không thể tồn tại với Văn Phú theo cách này. Vì thế con biết đấy, ta đã quyết định trước khi ta tìm một điều gì để hy vọng.
Ta chuẩn bị ra đi sau khi ta đến thăm thím Lớn, thím Nhỏ trên đảo Tông Minh. Đó là việc cần phải làm.
Nhưng trước khi ta đi ra đảo, Đạm Như lại bị sốt cao sau đó chuyển sang bị vàng da. Tiếp đó ta cũng bị mắc bệnh này. Ta nghĩ đó là căn bệnh mà chúng ta nhiễm phải từ lúc chúng ta đi đường cùng với Huê Lan và Gia Huy – sau khi chúng ta rời Côn Minh. Ta biết vậy bởi vì Gia Huy viết một lá thư kể cho chúng ta nghe về căn hộ mới của họ, về tất cả những tiến bộ của anh ta trong công việc mới. Ở cuối thư Huê Lan viết thêm vài chữ bằng nét chữ trẻ con nghệch ngoạc. Cô kể rằng cha mẹ của Gia Huy là những người dễ thương, về cái bàn cô mới mua đẹp không thể tả được. Cuối thư Huê Lan nói cô khỏe dù rằng vừa mới khỏi ốm. Gia Huy viết thêm rằng cô chuyển sang vàng ệch như một cánh đồng lúa mì và gầy như cái lưỡi liềm gặt lúa.
Thủ phạm của căn bệnh này là do một con cua nước ngọt mà Huê Lan ăn ở Trường Sa. Chính nó đã làm cho chúng ta mang bệnh. Nó ở trong người chúng ta rồi bộc phát ra một ngày nào đó. Dù vậy sau khi Đạm Như bị bệnh ta phải phái một người đến đảo nói với thím Lớn tại sao chúng ta chưa đến thăm đảo được. Sau chiến tranh vẫn không có được dây điện thoại giữa Thượng Hải và đảo.
Một tuần sau nhận được thư của thím Lớn viết bằng thứ tiếng Hoa dở tệ. Giống như Huê Lan, thím chưa bao giờ đến trường. Thím chỉ học viết sau khi đã lớn. Vì thế tiếng Hoa của thím không phải là thứ tiếng chuẩn mực mà con học để viết. Thím không biết dùng những cách diễn đạt thích hợp với gia thế của mình. Ngược lại, thím viết bất cứ cái gì nảy ra trong đầu.
“Đây là người thím già của con”, thím viết, “gần xé lá thư làm hai, ta rất nóng ruột khi nhìn thấy người đàn ông đứng trước ngưỡng cửa nhà ta. Tại sao con có thể nói đó chỉ là một bệnh vặt, không quan trọng? Sức khỏe bao giờ cũng là điều quan trọng nhất, mọi người đều khỏe trừ bà Mao. Con nhớ bà ta không, người đã làm mối trong đám cưới của con với Văn Phú? Chuyện này mới xảy ra tuần trước. một phút trước bà ta còn đang đứng, phàn nàn về một con ruồi vo ve quanh bà, phút sau đã nằm vật ra sàn. Thế là chồng bà Mao chạy bổ ra đường gọi điện thoại cho ông bác sĩ trong vùng. Ông ta gọi, gọi mãi, không được. Tất cả các đường dây đều bận. Thế là ông ta chạy ra ngoài ngoắc một thằng nhỏ, này chạy mau đến ông bác sĩ, đây tiền đây. Thế là thằng nhỏ chạy nhanh như là trong một cuộc đua ngựa, đó là điều bà hàng xóm nói. Thế thì ai mà biết là ông bác sĩ đi mất bao lâu. Ai biết được là ông ta tiếp đón ai chứ, chứ không phải thím nghe nói 2, 3 giờ sau ông bác sĩ đi đến nhà họ Mao, đoán xem ông ta thấy gì? Bà Mao đang cúi xuống khóc ông chồng cũng lạnh ngắt như cái sàn nhà ông ta đang nằm. Chết ngắc. Thử nghĩ về điều đó xem. Sợ đến chết chỉ vì nghĩ rằng bà ta sắp chết. Bả không chết mà ổng chết, chẳng vì cái gì mới kỳ. Thím bảo chú con, nào bây giờ tin tôi đi, chúng ta phải mắc điện thoại thôi. Trong thời chiến, điện thoại không hoạt động, đó là khi ta cố gọi chú con nhưng không gọi được. Bây giờ chú con lại nói ai cần điện thoại? Sức khoẻ của thím không tốt, ông ấy biết thế mà. Vi Vi con đừng lo cho thím quá, nhưng khi con đến đây, con phải bảo chú con là thím đúng, phải mắc điện thoại thôi. Con phải hỏi chú, cái gì quan trọng, không có điện thoại hay không có vợ? Như thím nói, sức khỏe là quan trọng. Con sẽ mau khỏe thôi. Ăn nhiều đồ súp nóng nếu như con thấy lạnh, uống đồ lạnh nếu con cảm thấy nóng. Con viết, bảo ta khi nào con đến nhé. Bây giờ ta phải dừng bút để đi dự đám ma chồng bà Mao. Gửi lời chào đến mọi người”.
Khi Đạm Như và ta cuối cùng đến đảo Tông Minh thì đã qua năm mới dương lịch, năm 1946.
Ta đã nói với các con các bà thím đối xử với ta như thế nào khi ta còn bé. Vì thế bao giờ ta cũng nghĩ họ chẳng quan tâm gì đến ta, rằng họ coi ta như một của nợ, một ghánh nặng. Ta cũng nghĩ là ta chẳng có cảm xúc gì nhiều đáp lại họ. Tại sao ta phải đáp lại nhiều chứ?
Vì thế con có thể hình dung ta ngạc nhiên như thế nào khi mắt ta cay xè vì những giọt lệ trong lúc chiếc tàu đi gần đến đảo, ta cố thuyết phục mình rằng đó là do những ngọn gió lạnh thổi rát rạt. Nhưng khi ta nhìn thấy họ - chú, thím Lớn, thím Nhỏ vẫy tay rối rít với mẹ con ta từ trên bến, gào to, “Nó kia kìa!” ta biết ngay rằng không phải do gió.
Chú thím ta trông đều già nua, tàn tạ, đặc biệt là thím Lớn. Thím đã để mất đi những đường nét sắc sảo. Thậm chí cả đôi mắt thím từng có cái màu nâu đen đằm thắm cũng đã bợt màu. Tóc thím Nhỏ cũng có nhiều sợi bạc, những nếp nhăn xếp quanh miệng bà khi cười nom chằng chịt như mạng nhện. còn ông chú thì giống như người mộng du chỉ thức dậy khi có ai đó la lên, “Cẩn thận! Đi lối này!”
Đến lúc ấy ta mới nhận ra: ông giống cha ta lạ lùng. Cả hai cùng có một vẻ lãng trí, một tâm hồn bạc nhược. Đôi mắt họ chậm chạp, lờ đờ, khi nghe một ý kiến của ai đó mà không có khả năng quyết định họ phải nghĩ gì, chính điều đó làm ta nghĩ bản chất của hai người là như vậy. Bao năm qua họ chỉ giả vờ lãnh đạo người khác, la hét khi họ không biết phải nói gì, làm cho người khác sợ trong khi họ sợ chính mình. Thím Lớn vuốt má ta nhiều lần, nói đi nói lại. “Ối giời! Nhìn con kìa, gầy, xanh quá! Còn đứa con trai này, không thể là con trai con, lớn quá nhỉ”.
Đạm Như bước lên một bước đưa cho thím Lớn một món quà mà ta đã mua, một vài lạng sâm củ loại hiếm, “Tặng bà”, Đạm Như nói, cau mày nhớ lại những gì nó phải nói: “Để bà sống lâu trăm tuổi”. Lại cau mày lần nữa. “Bao giờ cũng khỏe mạnh”. Đạm Như quay về phía ta, “Đủ chưa ạ?” Ta gật đầu. Hai bà thím vỗ vỗ lên đầu nó, cười. “Trong lá thư cuối cùng hình như con nói nó mới 6 tuổi vào Tết này. Có phải vậy không? Nó lanh lợi quá. Nhìn mắt nó xem này, y hệt thằng Gông nhỏ”.
Ta không biết có phải những năm tháng xa cách giữa chúng ta đã làm cho các bà trở nên hiền dịu hơn, trở nên tốt hơn, hay là họ bao giờ cũng thế nhưng ta chỉ nhớ phát hiện ra điều này lần đầu tiên trong đời sau khi nếm trải bao nhiêu khó khăn cay đắng trong đời.
“Gông nhỏ và Gao nhỏ đâu ạ?” ta hỏi. “Các em chắc cũng phải bao nhiêu nhỉ? – 15, 16 tuổi rồi?”
“Một đứa 19, một đứa 20” thím nhỏ đáp.
“Lớn thế rồi kia à? Các em đang làm gì ạ? Học những trường đại học tốt chứ ạ?”
Thím Lớn và thím Nhỏ nhìn nhau như thể ngầm trao đổi với nhau điều gì. “Chúng đang làm việc ở bãi đóng tài, ở dưới đường kia kìa”, thím Nhỏ đáp.
“Lắp ráp tàu”, thím Lớn thêm vào, “nhưng chẳng bao lâu chúng sẽ quay lại việc học hành vào các trường cao đẳng”.
“Thực ra, chúng không được làm công việc lắp ráp tàu”, thím Nhỏ nói. “Chúng khuân thép đến cho những người thợ. Một đứa vác, một đứa đẩy xe goòng, vất vả lắm”.
Ta cố hình dung ra điều đó, hai thằng con trai được cưng chiều bây giờ lớn lên làm công việc cu li cực nhọc.
“Ồ, Vi Vi con xem mọi việc xảy ra như thế nào”, thím Nhỏ cố gắng giải thích. “Công việc của chú con chẳng ra sao trong chiến tranh. Nhiều máy móc bị gỉ, hỏng hóc. Chẳng có tiền để sửa chữa tu bổ, làm cho công việc chạy được. Con thấy chuyện gì đã xảy ra cho ngôi nhà này, cho dòng họ nhà ta rồi đấy. Khi cái cây cổ thụ chết thì cỏ bên dưới cũng héo theo”.
“Vâng”, ta nói, “thật buồn khi nghe những chuyện này”.
“Thậm chí còn buồn hơn là con có thể hình dung được”, thím Lớn nói. Họ cùng đi bộ với ta và Đạm Như về nhà, nhà Đông cũ, nhà Tây mới, kể cho ta biết điều gì đã xảy ra. Ngôi nhà lớn bây giờ đã trở nên xập xệ. Sơn tróc ở khắp nơi, sàn nhà cũng nứt nẻ cả vì thế mà bụi bám dính vào các kẽ hở. Những chiếc giường võng xuống ở giữa, thậm chí cũng không có đủ tiền để làm lại cái giát giường mắt cáo bằng dây thừng nữa. Nhưng điều làm ta buồn lòng nhất là nhà kính.
Những ô cửa sổ nhỏ đã nứt toác ra hoặc gãy, nước sơn ở các khung gỗ đã có màu lá mục. Sau bao mùa mưa nắng dãi dầu tất cả mọi thứ bên trong nhà kính đã đen xỉn lại vì mục nát, ẩm mốc. Quá nhiều thay đổi. Nhìn tất cả những điều này, nghe những chuyện đã xảy ra với họ, ta còn lòng dạ nào mà trách thím Lớn, thím Nhỏ đã đẩy ta vào cuộc hôn nhân kinh khủng nữa? Sao ta có thể yếu cầu họ giúp ta thoát khỏi cảnh đời đau khổ? Không, ta không thể làm thế. Chúng ta vẫn đứng ở bên ngoài nhà kính khi ta hỏi về Peanut. “Thế còn con gái thím thì sao?” ta hỏi thím Nhỏ, “em nó vẫn sống ở ngôi nhà trên đường Hòa Đức chứ ạ? Cái thư cuối cùng con nhận được của nó 2 năm trước đây. Lá thư nào nó cũng xin lỗi là không viết thư sớm hơn, rồi sau chẳng viết gì thêm cả. Peanut! Cái cô em ngốc nghếch ấy?”
Nghe thấy tên Peanut, chú ta dường như choàng tỉnh. Ông làu bàu bằng một giọng khinh bỉ rồi đứng lên đi ngoay ngoảy vào nhà “Peanut đã chết rồi!” Ông quay lại gào lên. Đạm Như và ta giật nảy người.
“Cái gì! Có đúng không?” ta kêu lên, “Peanut chết à?”
“Chú con vẫn còn giận nó lắm”, thím nhỏ giải thích.
“Đạm Như”, thím lớn hỏi, “con đói không?” Đạm Như lắc đầu.
“Con đi theo ông trẻ vào nhà đi”, thím Lớn nói, “đi bảo ông già bếp nấu cho con một tô mì”.
Đạm Như nhìn ta, “Hãy nghe lời bà trẻ đi con”. Sau khi Đạm Như đi khỏi, thím Lớn nói, “Peanut bỏ chồng rồi. Nó đi theo một nhóm người xấu tuyên bố họ sẽ giúp phụ nữ trốn thoát khỏi những cuộc hôn nhân phong kiến”.
“Hừm! Nó đâu có lấy chồng theo lối phong kiến đâu!” thím Lớn nói. “Nó đồng ý mà! Nó muốn lấy chồng. Những người giúp nó đã không bảo cho nó sự thật, ít nhất là ngay từ đầu. Lẽ ra thím phải dạy dỗ nó kĩ càng lúc nó còn bé”.
“Họ lừa dối nó”, thím Nhỏ nói. “Họ không bảo cho nó sự thật cho đến khi quá muộn. Họ là những người làm cách mạng, chúng ta nghĩ thế. Phải, con có hình dung nổi không?” “Tất nhiên, chồng nó đã li dị. Hừm! Tại sao nó lại cần con bé nữa chứ?” Thím Lớn tiếp lời, “Sau đó anh ta đưa ra một thông báo trên tất cả các báo lớn nhỏ ở Thượng Hải: Tôi li dị Giang Hoa Sinh, người vợ hoang đàng. Ông chú đáng thương của con đọc được tin đó trong bữa ăn trưa – suýt nữa chết nghẹn vì miếng củ cải”.
“Thế là bây giờ chú con nghĩ rằng nó đã làm thế là để giết tất cả chúng ta”, thím Nhỏ nói. “Điều đó không đúng, nó có trái tim nhân hậu. Chỉ có đầu óc của nó là hỏng. Nhưng chúng ta vẫn đang trong vòng nguy hiểm. Con biết chuyện gì xảy ra rồi đấy. Tất cả những chuyện về sự hợp nhất giữa các Đảng chỉ là chuyện nhảm nhí. Nếu Quốc dân Đảng biết là chúng ta có một đứa con gái làm cách mạng thì – soẹt – đầu của chúng ta sẽ lăn lông lốc trên đường”. “Thật là một đứa con gái ngu xuẩn!” thím Lớn nói, “tất cả những điều thím dạy dỗ nố đi đâu rồi? Không có một ý nghĩ nghiêm túc nào trong đầu nó. Lí ra thím phải đánh nó mạnh tay hơn”.
“Nó bị chồng bỏ? Con thật buồn khi nghe thấy thế”.
Đó là điều mà ta nói, nhưng đoán xem ta nghĩ gì? Tất nhiên, ta tự hỏi làm cách nào mà Peanut làm được điều đó – từ bỏ cuộc sống gia đình của nó. Ta tự hỏi khi nào thì ta có thể hỏi nó ta phải thực hiện điều đó như thế nào?
Để cho phải phép ta và Đạm Như ở lại nhà chú ta hai tuần. Nếu ở ít hơn, họ lại nghĩ ta không coi trọng họ. Trước khi đến đảo ta đã đến nhà băng, rút hết tiền hồi môn ra. Như ra đã nói với con, đồng tiền bây giờ không có giá như trước chiến tranh. Theo ta nhớ, ta chỉ còn lại 2000 đồng. Vào lúc đó nó có trị giá một vài trăm đôla Mỹ. Ta dùng tiền này để mua quà cho những người họ hàng. Hàng ngày ta đi chợ với các bà thím. Hàng ngày ta mua rau, thịt, những món ăn đắt đỏ mà ta biết từ lâu họ không được ăn. Hàng ngày thím Lớn và ta cãi nhau qua lại trước mặt những người bán hàng xem ai là người trả tiền. Ngày nào ta cũng trả.
Vào một trong những lần đi chợ, cuối cùng ta nói với các bà thím và ta muốn gặp Peanut, “Không thể”, thím Lớn nói ngay, “Nguy hiểm lắm. Ta không cho phép con gặp nó. Đứa con gái ấy không xứng đáng gặp bất cứ ai.”
Vào buổi sáng hôm mẹ con ta ra về, thím Nhỏ đến phòng chúng ta sớm. Bà bảo Đạm Như đi chào tạm biệt ông chú. Khi chúng ta còn lại với nhau, bà bắt đầu lên lớp ta một bài như thể ta vẫn còn muốn gặp Peanut, như thể lỗi của nó cũng là lỗi của ta.
“Có thể không ai biết nó là một người Cách mạng”, thím Nhỏ giải thích “nhưng nó vẫn có một ảnh hưởng, giống như một con bệnh lây lan. Nó không được phép tiếp xúc với ai. Đó là lí do con không thể gặp nó”. Ta lắng nghe, chẳng nói gì. Cuối bài thuyết giáo thím Nhỏ thở dài nói, “Thím thấy là chẳng có ích gì khi tranh luận với con. Vậy nên, nếu thím không thể ngăn cản con, thì ít nhất con cũng không buộc thím chịu trách nhiệm về việc này!” Bà ném một mảnh giấy xuống giường, bỏ ra ngoài. Đó là tờ giấy ghi địa chỉ, có cả hướng dẫn đi xe buýt nào, đi lối nào. Bất thình lình thím Nhỏ lại xuất hiện ở cửa. “Đừng cho thím Lớn biết ta đưa con cái gì nha”, bà thì thầm rồi bỏ đi. Nhờ thế ta biết bà vẫn bí mật liên hệ với Peanut.
Vài phút sau lại là thím Lớn bước vào phòng, “Thím xin con làm cho thím một việc”, bà nói, đặt một gói nhỏ lên giường. “Đay là một vật thím mượn của một người bạn lâu lắm rồi. Thím cảm thấy xấu hổ là đã chưa mang trả lại. Khi có thời gian hãy mang đến trả dùm thím”. Cũng một địa chỉ mà thím Nhỏ đưa cho ta phía trên chiếc gói nhỏ đó là cái tên “Bà Lý”. “Thím cảm thấy xấu hổ lắm”, bà nói, nước mắt trào ra, “đừng nói với ai nhé”.
Sau khi quay lại Thượng Hải, ta đợi một tuần sau mới đi thăm Peanut. Tuy vậy, ta không nói với ai hết. Ta ra khỏi nhà trong bộ đồ thường ngày làm như ta chỉ đi ra chợ mua đồ ăn hoặc đi dạo trong công viên. Khi đã đi qua mấy dãy nhà, ta nhảy ngay lên một chiếc xe buýt. Ta đã nói cho con biết ít nhiều về Peanut rồi đấy. Nó là một cô gái thích mọi thứ tiện nghi. Nó chỉ chăm chăm chút chút đến quần áo đẹp, thích trang điểm lắm. Nó bao giờ cũng chạy theo mốt mới mà chả có ý kiến gì của riêng mình. Vì thế con có thể hình dung ta nghĩ gì trong khi xe buýt đưa ta đi xa hơn, xa hơn vào khu ổ chuột của thành phố.
Ta xuống xe ở đường Sơn Vinh, từ đây ta đi bộ xuống những đường phố quá hẹp cho xe hơi đi qua nhưng lại chen chúc những xe đạp, xe kéo, xe đẩy. Peanut sống ở khu Nhật Bản nơi những ngôi nhà uốn theo các góc như thân hình dài của một con rồng. Các ngôi nhà giống nhau như đúc, hai tầng bằng gạch với mái tôn dốc xuống. Những con đường ở đây không có vỉa hè, gồ ghề phủ đầy sỉ than và nước bọt.
Con có thể nghĩ là khi này lẽ ra phải là khu vực tốt nhất trong thành phố sau khi quân Nhật chiếm Thượng Hải bao nhiêu năm qua. Chắc chắn là có một số chỗ cũng khá. Nhưng phần lớn những ngôi nhà trong khu này đều được xây dựng trước chiến tranh, ta nghĩ nó bốc lên một thứ mùi khó chịu, hết sức đông đúc, bẩn thiu. Nếu con hỏi ý kiến của ta thì ta nghĩ nó có khá hơn khu người Hoa một chút.
Ta không biết tại sao có nhiều sinh viên, nhà văn và nghệ sĩ thích sống ở đây. Có thể là họ nghĩ vùng này rất lãng mạn – nếu con không có thức ăn thì con có thể nuốt ý kiến của người khác. Ở đây cũng có vô số gái điếm, mặc dù họ không phải là gái điếm hạng sang sống trong những hộp đêm ở đường Nam Kinh. Những cô gái này được gọi là “những người vợ vỉa hè”, và dường như cứ đi được vài bước ta lại đi qua một người đứng trước một nhà hàng bé tí, hoặc là một tiệm rượu rộng bằng một cánh cửa, hoặc là một cầu thang dẫn lên một tiệm trà hai tầng.
Rồi ta đến một đường phố đầy những tiệm bán đồ cũ, rất nhiều sách báo, bản đồ, tạp chí cũ – lịch sử, tiểu thuyết, thơ, sách chính trị.
“Truyện cấm đây!” một người đàn ông mời chào. Từ dưới gầm bàn hắn ta lôi ra một cuốn tạp chí, có hình một người phụ nữ đang khóc với một bóng ma đàn ông. Ta dừng lại nhìn. Nó cũng giống như chuyện mà ta và Peanut thường đọc ở nhà kính. Lúc ấy đứng giữa đường ta nhớ lại những câu chuyện về những cô gái phớt lờ lời khuyên của cha mẹ, lấy chồng vì tình hay những việc làm đại loại như vậy. Các kết thúc bao giờ cũng rất buồn với lời răn luân lí ở dưới cùng, “Mất kiểm soát cuộc đời”, “Rơi vào vòng yêu rơi vào nhục nhã”, “Đạp lên những giá trị gia đình, ném đi danh dự!”… Ta nhớ những chuyện như vậy làm cho ta phải khóc – ta nghĩ nó viết về cuộc đời của mẹ ta cũng buồn thảm như những câu chuyện ấy. Chỉ đến lúc ấy ta mới nhận ra tất cả những câu chuyện ấy đều là giả tạo – đều là truyện. Giống như Peanut và những người khác, ta đã tưởng tượng một cuộc đời bất hạnh cho mẹ ta. Giống như Peanut ta đã để cho mình hoảng sợ vì những câu chuyện buồn này. Thử nhìn lại coi, điều đó đâu có ngăn cản những tai họa trong đời ta. Chỉ là ngược lại. Lúc đó ta nghĩ về điều này theo cách khác. Có lẽ cuộc đời của mẹ ta giờ đây đang tràn đầy hạnh phúc! Có lẽ ta cũng có thể tìm ra điều tương tự. Đó là hi vọng của ta.
Ta có thể nói với con rằng đó chính là điều mà lúc ấy ta nghĩ. Đó là lí do ta bao giờ cũng nghĩ rằng cái sắp diễn ra chưa chắc đã là điều trùng hợp. Đó chính là dấu hiệu cho biết cuối cùng ta cũng đã có những suy nghĩ thật sự cho chính mình. Bởi vì đây là những điều đã xảy ra.
Có ai đó vỗ lên vai ta, ta quay lại, thoạt tiên không nhận ra người đàn ông đang tươi cười ấy là ai. “Winnie?” người đàn ông hỏi, “nhớ tôi không?” Ta nghĩ, cái tên Winnie nghe quen quen. Con xem ta nghĩ là anh ta đang nói tên mình. Ta cố gắng nhớ. Tiếp đó anh ta nói, “Tôi không bao giờ quên được những rắc rối tôi đã gây ra cho cô”.
Cái gì? Người đàn ông này đang nói cái gì? Rất thình lình ta nhận ra giọng nói của anh, người lính Mỹ - Hoa Jimmy Louie, người đã đặt tên ta là Winnie.
Phải, phải đó là cha con! Mọi việc xảy ra như thế đấy, năm năm trôi qua, quá khứ, tương lai đổ nhào thành một trên một đường phố lại ở Thượng Hải. Con tưởng tượng được không? Nếu ta không đi tìm Peanut, nếu ta không dừng lại đọc một tạp chí ngớ ngẩn, nếu anh không tìm mua báo – một phút sau đó, chúng ta sẽ mất nhau mãi mãi trong cuộc đời. Ta hỏi con, đó có phải là số phận không?
Đó là điều ta bảo cha con nhiều năm sau, khi chúng ta đã làm đám cưới. Chúng ta đã may mắn biết bao khi số phận đã mang chúng ta lại bên nhau. Nhưng cha con không nghĩ đó là số phận, ít nhất thì cũng không phải theo nghĩ của từ tiếng Hoa mệnh duyên – duyên phận.
“Mệnh duyên”, anh bảo ta, “là có một ai đó quyết định đời em cho em. Tình yêu của chúng ta mạnh hơn thế.” Ở đây anh dùng từ tiếng Anh destiny – duyên tiền định, một cái gì không thể ngăn cản được.
Phải điều đó cũng có nghĩa là số phận đối với ta. Anh khăng khăng là nó có khác, một sự khác nhau quan trọng. Vì thế ta bảo anh, “Có thể anh nhìn mọi việc theo cách của người Mỹ, còn em nhìn theo cách của người Hoa. Anh nói, “Nhìn những con cá đẹp trong cái chậu”. Còn em thì nói “Những cái chậu đẹp với những con cá”. Không thành vấn đề nghĩa của các từ mà chúng mình dùng. Đó cũng chỉ là một cái chậu đẹp và những con cá đẹp”.
Nhưng cha con vẫn không chịu, “Chúng ta yêu nhau ngay từ phút ban đầu, đó là do ý muốn của chúng ta hòa vào nhau, tìm kiếm nhau”.
Sau đó ta không nói nữa. Sao ta có thể nói với cha con là ta yêu cha con ngay từ phút đầu tiên? Không phải ở Côn Minh, không phải ở đêm vũ hội. Ta đã không biết là có một cảm giác tức thời như thế tồn tại làm sao ta có thể cảm thấy nó được? Tất nhiên, sau khi tình cờ gặp lại anh lần thứ hai, ta yêu anh rất nhanh. Có thể là cả hai chúng ta đều đúng, đó là số phận của ta, là duyên tiền định của anh. Nhưng sau này cha con thành một mục sư, ông nói rằng chính Chúa đã mang chúng ta lại với nhau, vì thế bây giờ ta không giải thích chúng ta gặp nhau như thế nào nữa. Tất cả điều ta có thể nói là: Ta đang ở một đường phố nhỏ ở Thượng Hải. Cha của con cũng ở cùng chỗ đó.
Sau hạnh ngộ này, chúng ta đứng nói chuyện xã giao vài phút, sau đó Jimmy Louie – ta vẫn gọi anh là Jimmy Louie như trong những ngày đầu, cả tên họ theo lối Trung Hoa – mời ta đi uống trả ở một quán ngay bên đường để ngồi chơi, nói chuyện. Ta đồng ý nhưng chỉ vì lịch sự. Thực ra ta chưa có ý định bắt đầu một cái gì.
Chúng ta ngồi uống trà ở một tiệm trà nhỏ trên gác, một chỗ rất bẩn thỉu. Ta thấy cô hầu bàn lấy những cái tách trên bàn dúng vào một chậu nước lạnh dơ bẩn trước khi cô ta rót trà cho chúng ta uống. Ta bao giờ cũng rửa những cái tách trà hai lần bằng nước trà nóng trước khi ta có thể uống bất cứ thứ gì. Ta cũng làm như vậy với những ly trà của Jimmy Louie. Con xem, từ ngày ấy ta đã lo lắng cho bao tử của ông. Chúng ta lặng lẽ uống một vài phút sau đó anh hỏi ta về Văn Phú. “Anh ta vẫn dùng cái tên Judas chứ?” Ta phì cười vờ trách móc anh, “Thật tệ hết chỗ nói, về đến nhà chồng tôi đã nổi đóa lên với tôi.” “Nhưng tôi mới là người đặt cái tên ấy cho anh ta chứ?” Ta quá mắc cỡ để nhắc lại điệu vũ giữa hai người, những lời bạn bè trêu chọc Văn Phú, mặc dù mặt ta nóng bừng vì giận dữ chỉ vì nhớ lại chuyện đó. Jimmy chắc là nhìn thấy điều đó trên mặt ta, bởi vì ngay sau đó anh nói “Thật là kinh khủng cái việc tôi đã làm. Tôi xin lỗi”.
“Không, không”, ta nói. “Tôi đang nghĩ về những chuyện khác, bao nhiêu năm đã trôi qua, bao nhiêu việc đã thay đổi nhưng chẳng có gì tốt hơn”. Anh biết rằng chúng ta không nên nói về những việc này nữa. Thế là chúng ta nói chuyện về những người khác. Ta kể cho anh nghe về Gia Huy, công việc mới của anh ở Cáp Nhĩ Tân về chuyện Huê Lan vẫn chưa có con. Anh bảo ta rằng hầu hết bạn bè anh trong lực lượng không quân Mỹ đã chuyển đến phía bắc Bắc Kinh để giúp lực lượng chống quân Nhật, anh vẫn ở lại sở thông tin Hoa Kì, củng cố những mối liên hệ cho tổng lãnh sự Hoa Kì.
“Một công việc quan trọng quá”. Ta nói.
“Chỉ có cái tên là quan trọng”, anh nói. “Tôi đọc các tờ báo khác nhau hàng ngày. Tôi phải chú ý đến tất cả những gì được báo cáo”. Rồi anh tiếp, “Cô thấy đấy, tôi là gián điệp”. Tất nhiên anh chỉ đùa. Anh bao giờ cũng thích chọc mọi người cười, con nhớ điều này về cha con chứ? Ta không biết tại sao Huê Lan vẫn nghĩ ông là gián điệp. Không phải đâu. Đừng tin bà ta! Nếu cha con là gián điệp tại sao anh lại đùa cợt thoải mái về nó?
Dù sao thì chúng ta cũng uống thêm nhiều tuần trà. Chẳng mấy chốc ta thấy mình đang kể cho anh ta nghe về nhà máy của chú ta, họ nghèo như thế nào, các anh em họ của ta phải lao động cực nhọc ra sao. Jimmy Louie không khinh bỉ họ, không thương hại gia đình ta. Anh cảm thông với họ. Anh nói chiến tranh cũng giống như những căn bệnh tai hại, khi nó trôi qua, thì điều đó không có nghĩ là mọi người đột nhiên khỏe khoắn lại. Ta kể cho anh nghe về Peanut. Ta không nói cô ấy là một chiến sĩ cách mạng ta chỉ nói cô ấy đã li dị. Còn anh thì không nói, “Peanut là một người đàn bà xấu”. Anh chỉ nói nhiều cuộc hôn nhân không tồn tại được trong chiến tranh.
Thế là cuối cùng ta kể cho anh nghe về cha ta, về sự rắc rối của ông trong khi hợp tác với quân Nhật. Anh nói đó là một bi kịch tồi tệ, rằng chiến tranh đã làm cho nhiều người đi lầm đường mà trong những hoàn cảnh khác họ không phạm phải. Con thấy cha con như thế nào đó. Ta cảm thấy ta có thể nói với anh hầu như tất cả mọi chuyện, bao giờ cũng tìm thấy một sự dễ chịu thoải mái. Với tư cách một người Mỹ anh có quá nhiều sự cảm thông. Tuy vậy ta vẫn chưa nói một lời về cuộc hôn nhân của ta, chưa phải lúc.
“Còn anh thì sao?” ta hỏi. “Mọi người trong gia đình anh thế nào?” “Vợ con anh có nhớ anh không?”
“Chưa có vợ con gì”, anh nói, “không có cái may mắn đó”. Chợt anh lấy ra một bức ảnh nhỏ chụp bốn cô gái ngồi thành một hàng từ nhỏ đến lớn, cả bốn đều mặc đầm rất hiện đại, tóc chải theo mốt mới. Họ là các tiểu thư của bà Lăng dạy cùng trường với dì anh. Bà Lăng này nói anh có thể chọn một trong bốn cô này làm vợ. “Cô nào cũng có học, có thể chơi piano, đọc thánh kinh bằng tiếng Anh”, anh nói. “Các cô trông vừa xinh đẹp vừa tân thời”, ta nói, “thật khó chọn. Anh định cưới cô nào?”
Anh bật cười sau đó trở nên nghiêm trang. “Cô”, anh nói “nhưng cô lại có chồng mất rồi”. Thật thế! Anh đã nói đúng như thế. Anh có thể chọn bất cứ ai trong bốn thiếu nữ xinh đẹp kia, tất cả đều hồn nhiên, ngây thơ, trẻ trung, chưa một ai có chồng. Nhưng anh đã chọn ta. Con nghĩ tại sao anh lại chọn ta. Dù sao thì vào lúc ấy, ta cũng không biết anh đùa hay nghiêm túc. Mặt ta đỏ lên. Bởi vì ta không nhìn anh, ta nhìn đồng hồ. Ta kêu lên
“Ồ! Nếu tôi đi gặp Peanut bây giờ thì tôi sẽ phải về ngay”. “Tốt hơn là ngày mai hãy đến gặp cô ấy”, anh gợi ý.
“Không có cách nào khác”.
“Vậy thì, ngày mai tôi sẽ gặp cô ở hiệu sách bên đường để đi với cô, tôi muốn chắc là cô an toàn”, anh nói.
“Không, không như thế phiền lắm”, ta nói.
“Không phiền đâu. Tôi đến đây hàng ngày mà”.
“Hàng ngày à?”
“Đấy là công việc của tôi”.
“Tôi nghĩ tôi sẽ đến đây vào lúc 10 giờ rưỡi. Có lẽ là quá sớm đối với anh”.
“Thậm chí tôi còn ở đây sớm hơn, trong trường hợp cô đến đây sớm”. Cả hai chúng ta đứng dậy đi xuống cầu thang. Ta thấy điều mà anh làm. Anh để lại bức ảnh bốn cô gái đẹp trên bàn.
Sáng hôm sau ta thức dậy, lòng lâng lâng hạnh phúc. Ta nghĩ về đời mình, nó sẽ thay đổi. Ta không biết chính xác nó thay đổi như thế nào, nhưng ta chắc chắn nó sẽ phải đi sang một hướng khác.
Nhưng tất cả những xúc cảm hạnh phúc này chẳng bao lâu đã biến mất. Tiếng Đạm Như kêu khóc vang lên trong nhà, một người hầu gái đưa nó đến cho ta, thuật lại rằng nó bị té cầu thang, đập đầu suốt các bậc thang. Trong khi ta vỗ về Đạm Như, San Ma đi đến bảo rằng cha ta thức dậy với một cơn sốt và một cái đầu hỗn loạn. Thế là ta chạy vội đến phòng cha ta. Một phút sau người đầu bếp tìm đến tuyên bố là bà sẽ bỏ việc ngay, bà không chịu được bất kì một sự nhục mạ nào nữa của mẹ chồng ta về việc nấu nướng của bà. Từ phòng mình ta có thể nghe tiếng la hét hết cỡ của Văn Phú, tiếng đập choang choang ở dưới nhà. Ta chạy xuống thấy bữa ăn sáng vứt tung tóe khắp nơi, mì thì đổ hét lên ghế. Ta muốn khóc. Đời ta sẽ không bao giờ thay đổi cả, mọi việc có vẻ như thế. Ta sẽ mãi mãi phải lo lắng về những vấn đề của người khác, không có lúc nào để lo lắng cho bản thân. Ta chắc là những tai họa nho nhỏ thế này là dấu hiệu ta sẽ không có khả năng rời ngôi nhà này hôm nay.
Nhưng cuộc sống khá lạ lùng, với cái cách nó có thể lùa con vào cách nghĩ này, sau đó mở ra hướng khác. Bởi vì ngay khi ta hủy bỏ kế hoạch ra khỏi nhà thì cơ hội đã quay trở lại. Khi ta quay lên cầu thang để chăm sóc cha ta, ông đang đọc báo, tỏ ra khó chịu chỉ vì ta làm phiền ông. “Ông ấy chắc là tự đấu tranh với mình trong một cơn ác mộng”, San Ma nói. Xuống dưới nhà ta thấy Văn Phú đã rời khỏi nhà dự một cuộc đua ngựa. Còn người nấu bếp đang giận dữ thì sao? Bà đã quét dọn sạch sẽ, đã đi chợ mua thức ăn cho bữa ăn chiều. Đạm Như kêu lên từ trên giường nó là nó muốn dậy. Nó đã quên cục u trên đầu, nhớ là bà nội nó hứa là hôm nay nó sẽ được đi với bà đến chơi nhà một người bạn có đứa cháu nội bằng tuổi nó.
Cuối cùng ta có ra khỏi nhà. Nhưng ta nghĩ là quá trễ để thay đổi cuộc đời rồi vì lúc đó đã gần 11 giờ. Ta cố để cho đầu óc mình bận rộn với những ý nghĩ về việc gặp lại Peanut, cuộc hội ngộ sẽ vui vẻ như thế nào. Ta mang theo cái gói nhỏ mà thím Lớn bảo ta đưa dùm, cùng với năm đôi vớ hàng ngoại nhập. Peanut sẽ vui sướng lắm khi nhìn thấy những món này.
Nhưng tất nhiên đầu ta cứ quay lại cái hiệu sách đối diện với tiệm trà nhỏ. Ta hình dung cảnh Jimmy Louie bận rộn giở những cuốn sách, sốt ruột nhìn đồng hồ. Ta nghĩ đến chuyện đón taxi. Nhưng khi nghĩ là Jimmy Louie nhìn đồng hồ một lần nữa rồi bỏ đi, ta quyết định không nên vội vã, chỉ để gặp một nỗi thất vọng. Vì thế ta xua đi hi vọng, đứng đợi xe buýt.
Khi ta đến đường Sơn Vinh thì đã gần trưa rồi. Ta buộc mình phải đi thật chậm, bình thản. Đến gần hiệu sách nọ, ta buộc mình không nhìn lên. Chỉ bước tiếp, bước tiếp. Ta hầu như hụt hơi. Ta tự bảo mình, đừng có tự lừa dối mình, anh ấy không có ở đấy đâu, cứ đi tiếp đi.
Ta không cho phép mình được nhìn sang bên dường. Mắt ta nhìn ra giữa dường. Không, đừng nhìn. Cứ bước tiếp. Ta đi qua hiệu sách, không nhìn, lại bước tiếp cho đến khi ta đi qua một căn nhà. Ta dừng lại, thở một hơi dài. Ta có một cơn đau nhẹ nơi ngực, nhận ra rằng ta đã vừa để một hi vọng thoát ra khỏi nơi đây. Rồi ta thở dài, nghe một tiếng thở dài tiếp theo nhẹ nhõm, chỉ có điều nó không phải là của ta. Ta quay lại. Để nhìn thấy khuôn mặt anh! Niềm vui trên khuôn mặt anh.
Chúng ta chẳng nói gì. Anh cầm tay ta nắm chặt. Chúng ta đứng ở giữa dường, mắt chúng ta mờ đi vì hạnh phúc, hiểu biết vô ngôn rằng cả hai chúng ta đều cảm thấy một điều.
Bây giờ ta phải dừng lại bởi vì mỗi lần nhớ đến điều này ta lại khóc chút chút cho mình. Ta không hiểu tại sao có một cái gì đó làm ta thật hạnh phúc, sau đó lại đượm buồn. Có thể nó là như vậy cùng với những kỉ niệm đẹp nhất.