Chương 23 THỰC SỰ ĐÚNG LÀ CỦA ANH
Ta không còn giữ bức ảnh nào khi còn là một thiếu nữ lúc mới cưới Văn Phú. Ta đã vứt hết đi. Nhưng cha con có một cuốn album. Ông chụp hình ta nhiều, rất nhiều. Nhìn xem nó đây như thế nào?
Những tấm hình ở đầu cuốn album là ảnh những phi công Mỹ mà ông biết. Những người phụ nữ này không phải là bạn gái của cha con. Ta nghĩ họ là những người cha con biết trước khi gặp ta. Ta không biết tại sao cha con lại đặt ảnh họ vào trong cuốn album này. Ta không bao giờ hỏi. Có thể đó là những người cha con đặt cho họ những cái tên Mỹ, vì thế họ tặng ảnh cho cha con. Có một câu như thế này: “Thực sự đúng là của anh, Peddy...”[1] Cái tên Peddy này là kiểu gì thế này? Cô ta thậm chí không biết phát âm cho đúng cái tên mình nữa. Tiếng Anh của ta chưa tốt, nhưng ta biết là con chỉ nên dùng hoặc là sincerely hoặc là truly, không thể dùng cả hai từ một lúc. Dù sao thì con có thể thấy, cô ta thậm chí không đẹp. Nhìn vào bức ảnh này, bức này này. Thấy không, có một thời ta cũng rất trẻ. Con không nhận ra điều đó ở mẹ con phải không? Vậy mà đó là điều mà cha con bao giờ cùng nhận thấy ở ta: trẻ trung và xinh đẹp, ông nói.
Thậm chí ngay khi những sợi tóc bạc xuất hiện trên đầu ta, ông bảo trông ta vẫn như dạo nào. Trong những giấc mơ của mình ta bao giờ trông cũng giống như trong những tấm hình này, trẻ trung, xinh đẹp. Lúc nào cũng thế cho đến tận gần đây.
Nhưng trong lần sinh nhật vừa rồi của mình ta có một giấc mơ rằng cha con chưa chết ông sống ở một góc nào đó, chỉ quên không nói cho ta biết. Đầu tiên ta giận lắm. Sao ông có thể để cho ta đau khổ thương nhớ vì chuyện không đâu như vậy. Nhưng rồi, ta quên đi nỗi giận, ta trở nên sung sướng. Ta chuẩn bị để gặp ông. Sau đó ta nhìn vào trong gương. Ối dà! Cái gì thế này? Sao mà mi lại già như thế Bóng ta nhìn lại ta nói, “Đấy là lỗi của ngươi. Ngươi đã quên tuổi tác.” Và bất thình lình ta cảm thấy mình già thật sự. Bất chợt ta nhận ra mọi người nhìn ta như thế này, già hơn là ta nghĩ, 75 tuổi.
Dù sao thì vào năm 1946 ta vẫn trẻ đẹp.
Nhìn tấm hình này, nụ cười của ta, đôi mắt trẻ trung của ta. Bức ảnh này không thật đẹp nhưng nó có một ý nghĩa đặc biệt. Cha con chụp tấm này có lẽ một tháng sau khi ta bỏ chạy. Ngày ấy chúng ta đang đi dạo trong công viên và cãi cọ với nhau, đó là bởi vì mẹ Du nhỏ muốn đưa ta và Đạm Như rời khỏi Thượng Hải. Bà biết một vài người ở Thiên Tân, những người tốt có thể che chở cho chúng ta cho đến khi ta li dị xong.
Cha con nói, “Đừng đi, đừng đi.”
Còn ta nói, “Sao mẹ con em không đi được? Vậy chúng em phải đi đâu?”
“Mẹ con em đến ở với anh.”
Đó là điều ta hi vọng anh sẽ nói. Sống với Peanut và tất cả những người phụ nữ kia chẳng có gì vui cả. Con có nghĩ là bởi vì họ là những người Cộng sản thì họ không bao giờ cãi lộn không? Không phải như thế. Nhưng ta không cho Jimmy biết điều đó.
Khi anh đề nghị ta về sống với anh, ta nói, “Sao chúng ta có thể làm thế?” Ta để cho anh năn nỉ ta một hai tiếng đồng hồ. Nếu có ai đó đề nghị cất đi cho con một gánh nặng con cần phải biết anh ta nghiêm túc chứ không phải chỉ là những lời lẽ lịch sự, tử tế. Lịch sự, tử tế không kéo dài. Sau khi ta biết cha con nghiêm túc trong vấn đề này, ông đã chụp hình cho ta.
Ồ, ta không biết tại sao cha con lại đặt tấm hình này vào đây. Ta bảo ông nhiều lần là lấy nó ra, bức ảnh này không đẹp. Ai lại chụp ảnh ta trong chiếc áo ngủ, tóc tai rối bùi như thế này? Cha con nói đó là bức ảnh ông thích nhất. “Winnie và ánh mặt trời thức dậy cùng một lúc,” chàng thường nói. Sáng nào thức giấc ta cũng thấy chàng thức dậy trước ta, ngắm nhìn ta, và nói thế. Có một bài hát chàng thường hát cho ta nghe, “Em là tia nắng mặt trời của anh,” anh hát thế rất nhiều lần vào mỗi buổi ban mai.
Có thể là không phải lắm nếu ta nói cho con nghe điều này. Nhưng bây giờ ta lại muốn cho con biết một điều về cha con. Chàng ta có thể nói thế nào nhỉ, yêu ta bằng cả trái tim trung hậu. Con biết tại sao không? Khi ta đến sống với chàng, ngay từ đầu chàng đã không hề đòi hỏi ta, chàng rất dịu dàng, biết ta rất sợ chuyện ấy.
Vì thế trong những đêm đầu, chàng chỉ hôn lên trán vuốt tóc ta, nói chuyện với ta, nói đi nói lại rằng chàng yêu ta cho đến khi ta thật hạnh phúc, lơ lửng trôi vào một giấc mơ. Một tuần sau ta bảo chàng là ta sẵn sàng. Ta vui lòng hi sinh để làm cho chàng hạnh phúc. Tất nhiên ta không nói ra như thế, nhưng đó là điều ta nghĩ. Ta nhắm mắt đợi cho những cảm xúc đầy xấu hổ ấy bắt đầu. Nhưng chàng không nhảy ngay lên người ta. Ngược lại, chàng làm những điều chàng vẫn thường làm. Hôn lên tay, lên trán, lên má ta. Chàng không ngừng hôn lên trán ta, vuốt ve lưng ta cho đến khi một lần nữa ta lại trôi vào trong một giấc mơ. Bất thình lình ta nhận ra điều chàng đang làm, không những nó không giống như ta tưởng mà còn là một cảm xúc hoàn toàn khác. Ta mở mắt ra. Ta khóc lên vì sung sướng khi nhìn thấy chàng đang ngắm nhìn ta. Chính chàng cũng khóc vì cùng một niềm hoan lạc giống ta. Sau đó chàng còn vòng tay ôm ta hồi lâu, sợ rằng ta sẽ biến đi. Đó là lí do cha con thích tấm ảnh này. Vào buổi sáng ta vẫn còn nằm đấy. Ta là ánh bình mình của chàng.
Bức ảnh trong trang này là vào lúc ta và Đạm Như đến sống với anh được ba tháng. Đấy là phía trước ngôi nhà, ở trước cửa. Người đàn bà đứng cạnh ta là bà chủ nhà cho chúng ta thuê hai phòng trên lầu. Cha con gọi bà ta Lưu “Đại tẩu.” Ở Trung Quốc khi con gọi ai là “Đại tẩu” có nghĩa con là người đáng trọng, một người lịch sự. Ở Mỹ, nếu ai đó nói, “Ê, bà già! Nhìn xem bà đi đâu chứ!” Kẻ đó là người không có tư cách, nhìn vào mặt y chỉ thấy sự đê tiện.
Nhưng trong tấm hình này ta là người hạnh phúc nhất như chưa từng hạnh phúc như thế trong đời. Nhìn đôi mắt ta xem, một nụ cười không thể ngăn chặn được dù chực thoát ra. Cha con cũng như vậy, anh cười vui suốt cả ngày. Mà ngày nào hạnh phúc cũng mỉm cười với chúng ta. Ngày nào đi làm về anh cũng nhấc bỗng ta lên như người ta vẫn làm trong phim. Đạm Như sẽ chạy đến bên anh nũng nịu. “Nâng con nữa, cả con nữa.”. Cha con cũng sẽ nâng bỗng nó lên, rồi kêu. “Eo ôi nặng quá. Sao mà con nặng thế?” Anh bảo Đạm Như hít một hơi dài rồi tung nó lên trời như một quả bóng. Rồi cha con tung nó lên cao nữa, cao mãi. Thời gian ấy ta chẳng lo lắng gì về Văn Phú. Peanut đã bảo thím Lớn, thím Nhỏ là ta đang sống với một người đàn ông khác. Tất nhiên họ bảo chú ta, rồi chú lại bảo Văn Phú. Lúc đó Văn Phú cũng có một người đàn bà sống với hắn, một người sắp sinh con cho hắn. Vì thế ta chắc rằng Văn Phú sẽ sớm giải phóng cho ta. Thậm chí cả cha mẹ hắn cũng sẽ bảo hắn làm thế. Tiền bạc của cha ta cũng chẳng còn lại được bao nhiêu để tranh giành. Văn Phú đã làm theo lệnh của chính phủ đổi tất cả vàng, trái phiếu ra tiền giấy. Mỗi một tuần qua đi đồng tiến giấy chỉ còn một nửa giá trị.
May mắn cho chúng ta, cha con được trả lương bằng đô la Mỹ. Nhưng ngay cả khi chúng ta không có tiền thì chúng ta cùng vẫn hạnh phúc, ôi chúng ta mới hạnh phúc làm sao.
Đây là một bức ảnh khác cũng chụp ngày hôm ấy. Ta rửa thêm một tấm nữa kích thước bằng cái ví, gửi cho Huê Lan. Cô ấy, Gia Huy vẫn sống ở Cáp Nhĩ Tân. Ta viết cho cô. “Đoán xem chúng tôi gặp ai? Đoán xem chúng tôi đang sống với ai? Một người nói tiếng Anh và gọi tôi Winnie. Đoán đi, tôi sẽ kể cho chị mọi chuyện nếu chị đoán đúng.”
Trong bức ảnh này con có thể thấy Đạm Như đang chơi đùa với con chó của bà chủ nhà. Có phải con chó này trông giống một con cừu không? Lông quăn, đôi tai nhỏ. Nhưng một phút sau, nó lại biến thành một con chó xấu tính, nó xơi luôn đôi dép lê của ta. Ôi, ta phát điên lên. Bà chủ đền ta đôi dép của bà. Nhưng bà ta lại bị bệnh thối chân vì thế ta chẳng háo hức đi đôi dép đó dù là để tỏ ra lịch sự.
Tất nhiên ta vẫn nghĩ là bà rất dễ thương. Ta nhớ một ngày, khi chỉ có ta và bà, ba kể cho ta nghe về cuộc đời bà. Nhờ thế ta biết bà cưới một người Hoa hiện đang ở Mỹ. Người chồng đã bỏ rơi, để lại cho bà con chó để làm bạn. Ông ta trở về Mỹ, cưới một người khác thậm chí cũng không thèm bận tâm đến việc làm thủ tục li dị. Nhưng ông ta vẫn tiếp tục gởi tiền cho bà. Tuy nhiên bà cùng chẳng quan tâm, “Đó là số phận,” bà nói. Ta nghĩ bà cũng chẳng buồn bã gì nhiều, chỉ chấp nhận cuộc đời mình theo lối cũ, lối cổ. Nhưng sau đó bà nhắc nhở ta, “Cô cũng phải cẩn thận đấy. Đừng có sa vào số phận như tôi.” Con thấy đấy!
Tấm hình này nom như chụp vào lúc xuân sang. Nhìn những đóa hoa trên các cành cây sau lưng ta này. Bấy giờ tóc ta ngắn hơn, hiện đại hơn. Ồ ta nhớ bức ảnh này. Trông ta rất hạnh phúc, nhưng chỉ bởi vì cha con bảo ta, “cười đi”. Thực ra trong lúc ấy ta đang lo lắng. Ta dùng hết hai thỏi vàng để thuê một luật sư giỏi, một luật sư nổi tiếng trên đường Nam Kinh, được biết đến vì sự thông minh, khôn khéo, ông cho đăng một mẩu tin lên báo, nói rằng ta đã li dị từ cái lúc Văn Phú dí súng vào đầu ta buộc ta phải viết, “Chồng tôi đã li dị tôi”. Ngày hôm sau, hai người đàn ông tìm đến văn phòng ông luật sư này đập phá đồ đạc, xé luôn tờ giấy li dị của ta. Ông luật sư vừa giận dữ vừa sợ hãi”. “Chồng cô có phải là gangster không?” ông hỏi, ông không muốn nhúng tay vào vụ này nữa.
Ta bắt đầu nghĩ có thể chồng ta là một gangster. Dì Du cũng nghĩ thế. Ta không hiểu tại sao. Bây giờ thì đã quá trễ để hỏi bà.
Đây là một tấm hình vui nhộn. Nhìn cái tạp dề mà ta mặc này. Ta đang ở nhà mới của chúng ta, một căn hộ hai phòng trên đường Triều Châu. Cha con và ta đăng kí thuê nhà với tư cách vợ chồng. Đó là một tờ giấy kí ông và bà James Louie. Nhưng ta vẫn kí dưới cái tên khai sinh của ta “Giang Vi Vi”. Cha con chụp tấm hình này vào buổi sáng ngay trước khi anh đi làm. Ta chắc chắn vì ta không muốn ở nhà, phòng khi. Có nghĩa là phòng khi Văn Phú tìm ra chúng ta. Thực ra trong tấm hình này, ta chẳng nấu nướng gì cả, chỉ là giả vờ thôi. Cha con thích những tấm hình tự nhiên không làm điệu bộ gì cả. “Cưng à”, cha con nói với ta - anh bao giờ cũng gọi ta theo cách của người Mỹ - “Baby, hãy mỉm cười nhưng đừng nhìn vào ống kính”. Vì thế con xem bức ảnh này nom rất tự nhiên.
Đây là một bức ảnh khác nữa chụp ta, Đạm Như và cả cái này nữa. Nhìn xem nhiều hình chưa? Nhìn xem nó vui vẻ như thế nào? Mặt nó hơi bị mờ bởi vì nó ngọ ngoạy khi cha con chụp ảnh. Con không thể bắt một thằng bé sáu tuổi đứng im khi nó muốn ném một hòn đá xuống mặt hồ.
Bức ảnh này chụp chúng ta đang đứng ở vườn của một ngôi đền. Cái này chụp chúng ta đang chơi ở công viên với một đám rước có hình những con thú như trong phim hoạt hình. Cái này chúng ta đang tựa vào một gốc cây gần hồ. Con không thể nhìn thấy hồ nhưng ta nhớ là có một cái hồ ở đây.
Ta cũng nhớ chúng ta chụp những tấm hình này trước khi gửi Đạm Như lên miền bắc - tới Cáp Nhĩ Tân đến chỗ Gia Huy, Huê Lan và dì Du. Đó là sau khi bà chủ nhà bảo có hai người đàn ông đến đây tìm ta và Đạm Như. Ta muốn đi cùng với nó, Jimmy cũng muốn đi theo. Nhưng ta quyết định ở lại thêm vài tuần vì ta vừa tìm được một luật sư mới, người lấy nốt của ta thỏi vàng còn lại. Ông bảo ta đã gần đến ngày được cấp giấy tự do rồi nên ta phải ở lại Thượng Hải khi cái ngày ấy đến. Thế là ta ở lại. Ta bảo Đạm Như là ta sẽ đi theo nó ngay khi ta có thể đi được. Tất nhiên nó tin ta. Ta cũng tin là mình quyết định đúng. Ta đang cứu nó.
Đêm khuya hôm ấy khi Đạm Như đang ngủ, chúng ta đưa nó ra ga xe lửa cùng với bà chủ nhà. Bà đồng ý đưa Đạm Như lên phía bắc nơi bà có một người em họ mà bà có thể ở chơi. Nhưng ngay khi lên tàu Đạm Như thức dậy. Nó kêu lên “Mẹ đâu? con thay đổi ý định rồi! Con không muốn đi nữa!” Nó khóc thật to một cách rất thương tâm. Ta nhào đến bên nó, “Sao con có thể làm thế được?” ta nói, “làm mẹ con phải xấu hổ trước mặt mọi người?” Nó vẫn khóc, trái tim bé bỏng của nó tan ra từng mảnh chọc vào trái tim ta. Ta vỗ về nó, “Đừng khóc, đừng khóc nữa. Mẹ sẽ đến với con ngay khi mẹ được tự do”.
Tất nhiên ta nói điều đó một cách rất dịu dàng. Nhưng ta vẫn hằng hối tiếc. Lí ra ta phải ôm lấy nó. Lí ra ta phải khen ngợi nó vì đã kêu lên rằng nó không bao giờ muốn xa ta. Lí ra ta không được để nó đi.
Nhưng hãy nhìn đi. Trong bức tranh này, và bức này, bức này nữa nó rất hạnh phúc. Con có thể thấy điều đó trong cả bức ảnh hơi bị mờ này. Hầu như lúc nào ta cũng làm cho nó sung sướng.
Đây là tấm hình ta chụp với dì Du. Nó được chụp một vài tuần sau khi bà đến Thượng Hải. Mỗi khi nhìn thấy tấm hình này ta đều buồn. Bởi vì ta nhớ cái ngày bà đến, bà đã ngồi đợi một cách kiên nhẫn như thế nào. Ta nhìn thấy một bà già chậm chạp đứng lên, Tiểu nương - con gái bé nhỏ - bà nói. Ta rất ngạc nhiên, ta rất vui, dì Du lặn lội đường trường từ Cáp Nhĩ Tân đến Thượng Hải. Ta chạy đến chào đón dì, trách dì vì đã không viết thư nhắn cho chúng ta ra đón ở ngoài ga. Lúc ấy mới thấy khuôn mặt dì, miệng mím chặt, nước mắt ứa ra từ khóe mắt. Khi con nhìn thấy một khuôn mặt như vậy, con biết, con biết sẽ có một điều khủng khiếp.
Ta cố đẩy dì ra, ta hét như điên, “Đi đi!, Đi đi!” Jimmy phải vòng tay ôm lấy ta để ta không đuổi bà. Khi bà bảo ta tại sao bà đến đây, ta hét lên, “Làm sao dì có thể nói thế? Dì nghĩ đây là một trò đùa gì vậy? Làm sao có thể nói với một người mẹ là đứa con nhỏ của cô ấy đã chết. Nó không chết! Tôi đã cứu nó. Tôi đã gửi nó đến Cáp Nhĩ Tân”.
Nhưng bà không trách ta. Bà đã đi một chặng đường dài đến đây, biết rằng ta sẽ căm ghét bà. Bà bảo ta bọn Nhật đã nuôi hàng ngàn con chuột với một thứ bệnh kinh khủng. Sau chiến tranh chúng không giết chuột. Chúng thả cho chuột chạy khắp nơi. Hơn một năm sau, thảm họa xảy ra 1 rất nhiều người bị ốm, không có cơ may cứu sống sau đó chết vì một bệnh đại dịch lan rất nhanh bởi chuột và ruồi. Đạm Như bé bỏng đáng thương ra đi trong vòng một ngày mọi việc thậm chí còn tệ hơn thế nữa. Gia Huy cũng qua đời. Ta muốn lao đến Cáp Nhĩ Tân ôm đứa con trai bé nhỏ một lần nữa, để chắc rằng họ không nhầm lẫn. Sau cùng, nó không khóc nhiều. Nó chỉ không thức dậy sau một giấc ngủ dài. Họ đã không biết những điều này về Đạm Như. Nó đã tin tưởng ta biết bao.
Dì Du nói rằng họ đã đặt Đạm Như và Gia Huy vào trong đất đúng ngày họ chết. Thậm chí người ta không thể hình dung điều đó xảy ra như thế nào. Bà nói họ phải đốt tất cả mọi thứ ở trong nhà: quần áo của Đạm Như, đồ chơi của nó, tất cả mọi thứ, để phòng ruồi còn quanh quất đâu đây. Con thấy đấy, ta chẳng có một thứ gì để nắm lấy: dù một hi vọng mỏng manh hay một kí ức. Nó đã ra đi mãi mãi. Mãi cho đến ngày hôm sau ta mới hỏi dì về Huê Lan “Cô ấy đâu? Tại sao cô ấy không đến đây?”
Dì Du nói Huê Lan ở lại Cáp Nhĩ Tân chăm sóc ngôi mộ, cô mang cơm đến cúng hàng ngày, bảo với Gia Huy và Đạm Như là cô hi vọng họ sẽ mập hơn ở thế giới bến kia. “Nó nhất định làm thế, dì Du nói, “nó nói rằng nó sẽ đến Thượng Hải sau, gặp dì ở đây. Nó không có lí do để sống ở Cáp Nhĩ Tân nữa. Ít nhất thì bây giờ nó cùng đã bình tâm phần nào. Nhưng ngay sau khi họ chết thì thật kinh khủng trong hai ngày nó không thể khóc. Nó bàng hoàng. Nó cứ tự hỏi mình suốt, “Sao họ có thể chết được? Chiến tranh đã qua rồi mà?” Trong suốt hai ngày nó cứ nói hai câu đó luôn miệng, sau đó nó trở nên bận rộn với việc quét dọn nhà cửa. Nó rửa các bức tường, sàn nhà bằng nhựa thông. Sau khi nó đã làm xong, nó viết thư kể cho con nghe một cách nhẹ nhàng như nó có thể những gì xảy ra với Đạm Như.
Nhưng có một câu mà nó không biết viết thế nào, câu “Đứa con thân yêu của chị”. Nó đi hỏi Gia Huy. Nó không tìm thấy anh ấy. Nó gọi anh ấy thật lâu. Dì tìm thấy nó đứng trong phòng ngủ gào lên gọi chồng, những giọt lệ giận dữ giàn dụa trên mặt, “Gia Huy, Gia Huy đừng chết bây giờ, em sẽ làm gì nếu thiếu anh. Làm sao em biết viết câu, “Con trai thân yêu của chị đây?”
Nào bây giờ con có thể thấy ta gầy gò như thế nào trong bức ảnh này. Nhìn xem, chiếc áo len buông thõng trên vai ta. Con không nhìn thấy đâu, nhưng chiếc áo len này màu đỏ đậm. Nét hoa văn hình tròn trên ngực và túi áo được đan bằng những sợi len cuốn với chỉ vàng thật. Cha con yêu cầu mẹ mặc áo này để chụp hình. Anh tặng nó cho ta khi ta bắt đầu bước qua tuổi 29, vì thế lúc này là vào đầu mùa xuân 1947. Ta chưa bao giờ được nhận quà sinh nhật trước đó. Người Mỹ, chỉ người Mỹ mới tặng quà vào ngày sinh nhật, người Hoa thì không. Lẽ ra ta phải vui lắm, nhưng ta vẫn còn buồn vì Đạm Như. Ta vẫn tiếp tục lên án mình. Vì thế cha con không bảo ta cười. Ta không cười. Bức hình này rất thật.
Bây giờ con không thấy bức hình nào của ta nữa. Bởi vì ngay sau đó có người nhìn thấy ta đi vào một tiệm uốn tóc, đi ra với hai cảnh sát.
Không có ai biết tại sao ta bị bắt. Họ đưa ta vào nhà tù dành cho phạm nhân nữ nơi có một cái cổng gỗ dày, những bức tường cao, Ngay khi họ đẩy ta vào trong, ta phát ốm. Thật là một mùi kinh tởm - cũng như con dí mũi vào bàn cầu! Một nữ cảnh sát giải ta đi dọc một hành lang dài tối om, qua những cái bàn ghế dài bằng gỗ. Một bên là phòng giam cái này tiếp cái kia. Trong mỗi phòng có năm người đàn bà, những người mà con sẽ sợ gặp phải trên đường phố, mỗi nét mặt hằn lên một câu chuyện khổ ải riêng. Đây là nơi họ nhốt ta vào, một trong những căn phòng đầy mùi xú uế với bốn người đàn bà khác.
Ta cho những người đàn bà này biết rằng ta đã bị bắt nhầm vào đây. Họ nhìn ta với vẻ thương hại và tò mò, bốn cặp mắt lặng lẽ dán vào chiếc áo của ta, một áo đầm mùa hè dành cho một quý bà. Họ nhìn chằm chằm vào mái tóc, những lọn tóc sáng bóng vừa được gội, chải bởi những người thợ lành nghề. Hầu hết những người ở đều mặc những chiếc áo quần dài bẩn thỉu. Họ có những khuôn mặt, những mái tóc nhớp nháp.
Rồi một phụ nữ cất giọng khàn khàn hôi, “Ê, em ghé thăm chúng tôi một chút hả?” Mọi người cười, dù không có ác ý. Ta nghĩ họ cho rằng một câu đùa nhẹ nhàng sẽ làm ta thoải mái hơn. Một người phụ nữ trẻ khá nhanh nhảu nhảy ra khỏi một cái ghế gỗ, nói, “Ngồi xuống đây!” mọi người lại cười ầm lên khi cô ta vội vã kéo quần. Ta nhìn thấy chỗ cô ta ngồi là một cái bàn cầu băng gỗ ở góc phòng. Cái cầu tiêu này dùng cho đủ mọi việc, chẳng kín đáo chút nào. Con không thể dời cái bàn cầu đi, mà con cũng không thể đặt một cái gì lên, không có chuyện như thế. Mọi người cứ việc tiêu tiểu ở đây giống như một âu súp kinh tởm lớn. Ở một góc phòng khác có một tấm ván mòng đặt trên sàn, đủ để cho ba người nằm ép sát vào nhau. Chúng ta sẽ thay phiên nhau ngủ, ba người nằm trên chiếu, hai người còn lại ngồi trên sàn xi măng.
Suốt đêm dài ta đứng. Suốt đêm dài ta lo lắng không phải cho ta mà cho Jimmy. Ta hình dung anh đi tìm ta, chạy qua khắp các công viên, nhìn vào tất cả các rạp chiếu bóng. Anh là người tốt, rất biết điều, nhân hậu, nhưng anh không phải là người mạnh mẽ. Anh chưa bao giờ trải qua bất cứ một khó khăn ghê gớm nào. Vì thế mà ta lo lắng. Ta hi vọng dì Du sẽ giúp anh tìm ra ta. Đến sáng, đôi chân ta đã run lẫy bẫy vì kiệt sức. Một cai tù đi đến, gọi tên ta. Ta vội kêu lên, “Đây đây”, ta nghĩ họ sẽ giải thoát cho ta. Nhưng không, người cai tù khóa tay ta lại như thể ta là một tội phạm nguy hiểm, sau đó ta bị đưa lên một thùng xe tải với những người phụ nữ cũng bị còng tay khác tất cả đều có khuôn mặt dữ dằn, như khuôn mặt của dân giang hồ. Có thể họ đưa chúng ta đi ra vùng quê để bắn, không ai biết, chúng ta chỉ giống như những con vật bị trói mang ra chợ, nhảy chồm lên nhau mỗi khi chiếc xe tải đánh một khúc cua.
Rồi chiếc xe tải dừng lại ở một chỗ hóa ra lại là tòa án quận. Khi vào phòng xử án, ta nhìn thấy hắn ngay lập tức: Văn Phú với nụ cười chiến thắng, sướng như điên khi nhìn thấy nỗi khổ nhục của ta: tóc tai rối bời, váy áo nhàu nhò, thịt da ảm cái mùi hôi thối của đêm trước.
Sau đó ta nghe có tiếng xì xào, “Cô ấy đây!” rồi ta nhìn thấy dì Du, Peanut và sau đó là Jimmy, khuôn mặt vừa đau khổ vừa vui mừng của anh.
Sau này ta biết rằng mọi việc đúng như ta hi vọng. Dì Du là người đã đến nhà cha ta, yêu cầu được biết ta ở đâu. Nhờ thế bà biết được việc Văn Phú đã làm.
Quan tòa bảo cho ta biết tội ác của ta. Ta bị kiện vì đã ăn cắp con trai của chồng rồi để cho nó chết, vì đã ăn cắp những món đồ giá trị của gia đình chồng, vì đã phản bội người chồng Trung Hoa để chạy theo một người lính Mỹ mà ta đã gặp trong chiến tranh.
Ta run lên vì giận đến nỗi gần như ta không nói được. “Đó là một sự dối trá, vu khống”, bằng một giọng bình tĩnh ta thưa với quý tòa rằng, “chồng tôi đã li dị tôi rất lâu rồi trong chiến tranh, khi hắn dí súng vào đầu tôi buộc tôi phải kí giấy li dị”. Ta nói ta không ăn cắp bất cứ thứ gì từ nhà cha đẻ, ta chỉ lấy những thứ gì thuộc về ta. “Làm sao tôi có thể bị buộc tội là đã phản bội chồng để đi theo người khác, khi chồng tôi đã li dị, sống với một người đàn bà khác.” Ta nói người đàn ông mà ta đang chung sống là chồng ta. Chúng ta đã đăng kí là vợ chồng.
Ta thấy Jimmy gật đầu, ai đó chụp ảnh anh. Căn phòng ồn lên tiếng xì xào của những người tham dự. Nhiều người trong số này đến đây để xem một cái gì đó hiếu dị những khán giả trong rạp chiếu phim bởi vì họ chẳng có việc gì khác hơn để làm. Sau này dì Du kể lại cho ta những điều họ nói, “Nhìn cái cô ấy đẹp như thế nào, giống như một ngôi sao điện ảnh”. “Nghe cách cô ấy nói có thể biết cô ấy con nhà gia giáo”. “Người đàn ông mà cô ấy chạy theo trông không giống người ngoại quốc, ai cũng có thể nói anh ta là người Hoa”.
Bây giờ thì Văn Phú tươi cười nói với quan tòa, “Không hề có vụ li dị. Vợ tôi lẫn lộn rồi. Có thể chúng tôi có một trận cãi nhau lâu rồi, tôi nói tôi sẽ li dị cô ta nếu cô ta không ăn ở đàng hoàng”.
Hắn khiến ta giống như một mụ đàn bà ngu ngốc, một người lú lẫn đến nổi không thể nhớ được là cô ta đã lị dị hay chưa!
“Nếu chúng tôi thực sự li dị”, Văn Phú nói, “Giấy tờ đâu, người làm chứng đâu?”
Ngay lập tức dì Du nhảy lên, “Đây, tôi là một nhân chứng, cháu tôi đang sống ở miền Bắc, nó là người làm chúng thứ hai”. Dì Du thật là một người phụ nữ tốt đẹp, lại suy nghĩ rất nhanh nữa chứ. Đó không phải là lời nói láo, hoàn toàn không phải. Bà đã nghe cuộc cãi nhau giữa Văn Phú và ta. Bà đã nhìn thấy tờ giấy. Những người trong phòng đã rất kích động khi nghe dì Du nói thế. Họ trao đổi với nhau bằng một giọng vui vẻ. Văn Phú ném cho dì Du một bộ mặt kinh tởm. Hắn quay về phía quan tòa. “Người đàn bà này không nói đúng sự thật. Làm sao bà ta có thể là nhân chứng, và kí giấy tờ được? Tôi biết người đàn bà này, bà ta không biết đọc biết viết”. Quan tòa có thể thấy qua vẻ mặt sượng sùng của dì Du, điều đó là sự thật.
“Bà có giữ tờ giấy li dị này không?” Quan tòa hỏi ta “Năm ngoái tôi đưa nó cho một luật sư”. Ta nói. “Nhưng sau khi chúng tôi đăng một thông báo lên báo. Người đàn ông này, Văn Phú, đã đến đập phá văn phòng luật sư, xé hết giấy tờ của ông ta, cả giấy tờ của tôi nữa”.
“Nói láo!” Văn Phú gầm lên. Mọi người ào lên một lúc. Ta khăng khăng rằng Văn Phú đã bắt ta kí vào tờ giấy. Dì Du nói rằng dẫu dì không đọc được dì cùng biết nó nói gì, “Tôi đã điểm chỉ vào tờ giấy!”
Nhưng bây giờ quan tòa bảo mọi người im lặng. “Trong vấn đề này”, ông tuyên bố, “vì có những ý kiến bất đồng, tôi cần những bằng chứng rõ ràng. Không ai đưa cho tôi xem tờ giấy li dị, vì thế không có cuộc li dị. Vì không có cuộc li dị, người chồng có quyền kiện người vợ ăn cắp tài sản và con trai của anh ta. Người vợ phủ nhận hai hành động này. Vì thế tôi tuyên án Giang Vi Vi hai năm tù giam”. Quan tòa bắt đầu viết điều đó vào một tờ giấy. Mọi người la hét ồn ào. Văn Phú mỉm cười thỏa mãn. Dì Du kêu khóc còn Jimmy và ta nhìn nhau câm lặng. Ta choáng váng không có khả năng suy nghĩ rõ ràng. Ta chưa bao giờ nghĩ ta có thể vào tù vì những lời nói láo của Văn Phú. Ta nghĩ hắn chỉ muốn làm nhục ta cho ta vào tù một đêm để cảnh cáo. Ta nghĩ ta nằm mơ về tất cả điều này: Một cảnh sát khóa tay ta, một người khác đến chụp ảnh ta, quan tòa đóng dấu đỏ lên tờ tuyên án. Bất thình lình Văn Phú đi về phía quan tòa, nói lớn, “Có thể vợ tôi bây giờ đã nhận được một bài học. Nếu cô ấy xin lỗi tôi sẽ tha thứ, cô ấy có thể về nhà sống với tôi.” Hắn mỉm cười với ta như một đàn ông rộng lượng. Tất cả các cặp mắt đồn về ta, nhìn xem ta sẽ nói gì. Ta nghĩ họ đợi ta quỳ xuống cầu xin tha thứ. Ta nghĩ cả Jimmy và dì Du cũng hi vọng thế. Nhưng chỉ có căm thù trong trái tim ta, không có chỗ cho niềm hi vọng của họ. Ta không nhìn thấy gì trừ bộ mặt đểu giả của Văn Phú đang chờ câu trả lời của ta. Ta có thể hình dung hắn sẽ cười vào mặt ta như thế nào, sau đó hắn sẽ trèo vào giường ta, làm cho ta khổ nhục ê chề mỗi ngày cho đến khi ta hoàn toàn mất trí. “Tôi thà ngủ trên sàn xi măng của nhà giam”, ta nghe mình nói một cách dõng dạc, “còn hơn là chung sống một nhà với con người này!” cả phòng xử án ào lên vì ngạc nhiên và tiếng cười. Con thấy đấy, cuối cùng Văn Phú là người bị làm nhục. Sau đó ta ra đi, với mái đầu ngẩng cao, tươi tắn.
Ba ngày sau, dì Du đến thăm ta ở trại giam. Chúng ta ngồi trong một căn phòng thăm tù nhỏ với một nữ cảnh vệ ngồi ở một góc nghe tất cả. Dì Du đặt một gói quần áo lên bàn. Bên trong ta tìm thấy hai bộ đồ lót một cái gói để đựng quần áo sạch sẽ, một cái lược, xà bông, bàn chải đánh răng, tăm, một tượng Phật Bà nhỏ.
“Trải miếng vải ra”, dì Du giải thích, “để có một chỗ sạch trên giường. Đặt tượng Phật lên người để dọn một chỗ sạch sẽ trong tim”.
Sau đó bà mở ống tay áo lôi ra một trang báo lại thành hình vuông, “Xem chúng làm gì này”, bà thì thầm, “nó xuất hiện trên tất cả tờ báo lớn. Jimmy Louie nói chúng đã viết những điều bẩn thỉu xuyên tạc”.
Ta mờ tờ báo và bắt đầu đọc. Jimmy nói đúng. Thật kinh khủng. Nó được viết như một vụ xì căng đan rẻ tiền. Mặt ta nóng bừng lên vì phẫn nộ. “Mối tình lãng mạn kiểu Mỹ kết thúc bằng cái chết và bi kịch”, ta đọc. Ta nhìn tấm hình chụp ta trông mạnh mẽ như một chiến sĩ cách mạng. “Tôi thà ngồi tù” người vợ yêu điên cuồng hét lên”. Sau đó là bức ảnh Văn Phú, mắt hắn nhìn sang một bên như thể hắn nhìn vào anh ta, giận dữ, chiến thắng cùng một lúc. “Sự ích kỷ của cô ta đã giết chết con trai tôi”. Người anh hùng Quốc dân Đảng tuyên bố”.
Dưới cùng là một bức ảnh nhỏ chụp Jimmy Louie, anh cúi mặt xuống như thể anh lấy làm xấu hổ. “Người Mỹ nói, “Tôi vẫn muốn cô ấy quay lại”. Ta đọc nữa, tất cả những điều bịa đặt của Văn Phú nói rằng ta từ bỏ cuộc sống đáng kính, quay lưng lại với cha ta, để cho con trai chết. Tất cả chỉ bởi vì ta phát điên lên vì tình dục kiểu Mỹ. Văn Phú biết điều mà những nhà báo này muốn khai thác.
Dì Du nhìn người cai tù có đôi mắt lờ đờ ngái ngủ, “Tiểu nương”, bà thì thầm, “dì là một mụ đàn bà ngu ngốc. Lẽ ra dì phải ký tờ giấy ấy từ lâu rồi. Dì xin lỗi”, cả hai đều thở dài, chúng ta rất hiểu nhau. Jimmy Louie đâu?” cuối cùng ta hỏi, “khi nào thì anh ấy tới?”. Dì Du nhìn xa xôi, “Ôi cháu gái tại sao ta bao giờ cũng là người đem tin xấu đến cho con?”
Đây là bức ảnh con tàu mà cha con đã đi để quay về Mỹ. Nhìn xem cái gì ở dưới? SS Marine Lynx. Nhìn thấy những cánh cửa sổ tròn phía dưới không? Đây là chỗ anh ở, khoang chung.
Nhìn xem có bao nhiêu người ký dưới bức hình của anh, “Best Wishes, Lý Vĩnh Chân”, “Best Wishes, Mary Imagawa”. “Best Wishes, Raisa Hamsson”, “Kind Regard, Johnnie Ow”, Trong tình thương của chúa, Maxima Aspiru”.
Đây là câu chúc hay nhất, “Jimmy thân mến lúc mới gặp anh em tưởng anh là chàng trai đa tình nhất. Nhưng khi biết rõ anh hơn em cảm thấy tiếc vì đã nghĩ thế, bởi vì anh là một trong những chàng trai tuyệt vời nhất, dễ thương nhất trong chuyến đi. Em thích anh, em mến anh lắm và cô vợ Winne bé nhỏ của anh là một cô gái may mắn khi có một người chồng như anh. Những lời chúc may mắn nhất từ một người bạn thực sự, Mary Moy”.
Cha con nói với tất cả mọi người, kể cả những người lạ trên tàu rằng anh là chồng ta, ta là vợ anh. Anh viết vào tờ hộ chiếu trở về quê hương: có vợ. Dì Du nói với ta điều đó. Bà cũng là người nói với ta rằng cha con không được ở lại Thượng Hải nữa. Sau khi ta bị tống vào tù, Văn Phú chạy đến tòa lãnh sự Mỹ gây khó dễ cho Jimmy. “Nhìn xem người Mỹ các ông đã làm gì? Phá hoại gia đình tôi!” Hắn chạy đến các tòa báo, nói điều tương tự. Đã có quá nhiều chuyện than phiền về những người lính tình nguyện Mỹ quyến rũ những phụ nữ Trung Hoa trước khi về nhà với vợ.
Thế là những người ở tòa lãnh sự bảo Jimmy đừng gặp ta nữa cho đến khi mọi việc lắng xuống. Nhưng trái lại mọi việc trở nên tồi tệ hơn. Câu chuyện trên các tờ báo tới tấp ra trong nhiều tuần, cứ vài ngày lại có một phần mới được đăng tải, Văn Phú nói cái này, ta nói cái kia, sau đó hắn nói cái gì ta nói cái gì. Lại những tấm ảnh. Những bức ảnh ta ngồi trong tù bên chiếc băng dài với hai mươi phụ nữ khác, bức ảnh Văn Phú và người đàn bà của hắn hai người mặt vênh váo đi dạo với con chó Bắc Kinh! Tấm ảnh Jimmy hồi chiến tranh đứng cạnh các phi công Mỹ, một bức ảnh Đạm Như khi nó còn bé. Lâu lâu báo chí làm cho ta trở thành vừa tốt đẹp vừa xấu xa. Rồi khi ta là một người vô tội, vô duyên vô cớ bị bỏ tù. Dì Du bảo rằng. Ta là một người nổi tiếng đối với những cô gái trẻ ở Thượng Hải. Một lần bà nghe hai cô gái trẻ nói chuyện về ta trên xe buýt. Họ nói ta xinh đẹp làm sao, số phận mới thảm thương làm sao.
Nhưng những người ở tòa lãnh sự không quan tâm đến việc ta xinh đẹp hay ta có một cuộc đời bi thảm. Một thời gian sau cha con mất việc, những người ở đây bảo anh về nhà đi, đừng gây thêm rắc rối nữa. Anh không thể gặp ta, anh không thể ở lại, vậy thì anh có thể làm gì? Anh trở về nhà ở San Francisco.
Tất nhiên anh viết thư cho ta, gửi chúng qua dì Du cùng với những đồng đôla Mỹ để dì có thể ở lại Thượng Hải mà chăm nom ta. Dì Du vẫn csẽ ở lại dù có tiền hay không. Dù vậy chúng ta vẫn vui vì anh đã làm thế bởi vì tiền Trung Quốc không còn giá trị gì nhiều.
Hàng tháng dì Du đến thăm ta, mỗi lần mang cho ta ba, bốn lá thư của Jimmy. Anh bao giờ cũng nói một điều: dù có chuyện gì xảy ra thì anh cũng sẽ đón ta sau tai năm nữa. Rằng anh bao giờ cũng yêu ta hết lòng, không gì có thể ngăn cản tình yêu của anh, rằng anh cầu nguyện cho ta mỗi ngày, mỗi phút để chúng ta sớm được đoàn tụ bên nhau. Ta nghĩ anh đã cầu nguyện rất nhiều đến nỗi anh trở thành một người mộ đạo. Ta nghĩ đó là lí do anh gia nhập vào giáo hội, trở thành mục sư. Nhưng ta không nghĩ anh nói với mọi người là vợ anh đang ngồi tù, rằng người chồng cũ của cô ta tống cô vào đó. Điều này nghe chẳng hay ho gì. Những người bạn tù đối xử tử tế với ta. Ta nghĩ những người cai tù và phạm nhân tin ta khi ta giải thích tại sao ta ngồi tù, tại sao lẽ ra ta không phải ở đây. Ta nghĩ họ kính trọng ta vì ta đã không coi thường họ. Ta là người có học, dù bây giờ ta cũng như bọn họ. Một cô nói, “Nếu em có được tính cách của chị, em sẽ không phải ngồi ở đây”. Một cô gái khác lúc nào cũng giặt quần áo cho ta dù ta không nhờ, đó là tự cô muốn giúp. Ta cũng giúp đỡ họ. Ta nhờ dì Du mang đến cho ta một miếng gỗ để ta có thể đậy lên bàn cầu để giảm bớt mùi hôi thối. Ta bao giờ cũng tìm ra cách làm cho phòng giam sạch sẽ, không còn rệp trên giường. Khi các cô yêu cầu ta dạy chữ cho họ, ta bảo dì Du mang vào cho ta phấn, báo chí cũ để chúng ta có thể tập viết. Sau khi chúng ta đã làm xong bài tập, chúng ta xé những tờ báo thành từng mảnh để dùng làm giấy vệ sinh.
Ta cũng dạy họ cách ăn nói, đi đứng làm sao cho đúng cách, như ta đã dạy cô ca sĩ - vũ nữ Minh ở Côn Minh. Ta đã kể cho con nghe về chuyện đã xảy ra với cô chưa nhỉ? Ôi, thật đáng buồn. Một hôm, trong khi xé những tờ báo cũ ta chợt nhìn thấy hình cô. “Cô Vàng Anh”, bài báo viết, “chết ở tuổi 33”. Ta rất ngạc nhiên khi nhìn thấy ảnh cô, ta cũng ngạc nhiên khi biết cô dùng cái tên mà ta đã đặt cho cô. Ta cũng ngạc nhiên khi biết tuổi cô. Bây giờ khi ta tìm lại cô, ta rất buồn vì biết cô đã chết. Cô trở thành một ca sĩ ở một phòng trà nổi tiếng ở Thượng Hải, cô cũng không nổi tiếng lắm chỉ được biết đến chút chút thôi. Nhưng người ta đưa hình cô lên báo bởi vì cô chết rất bi thảm, trong một đêm đông giá rét.
Cô đi bộ trên bến cảng, mặc một chiếc áo dạ hội sang trọng, không bao tay, không áo khoác. Người ta chăm chăm nhìn cô, những người phu khuân vác, những người đánh cá. Rồi cô cất tiếng hát. Người ta nghĩ cô thật là điên nhưng cuối cùng họ vỗ tay vì lịch sự. Cô cúi chào, vẫy tay trong khi lùi lại như cô vẫn làm trên sân khấu. Cô mỉm cười, cảm ơn. Rồi cô nhảy qua thanh rào chắn lao mình xuống dòng sống buốt giá đêm đông.
Nhà báo nói, theo một người quen của cô, có một chuyện gì đó làm tan nát trái tim cô, không nói rõ là chuyện gì. Nhưng đọc bài báo, tự ta biết. Một lần ta nghĩ cô cũng giống như ta chỉ có điều là mạnh mẽ hơn. Nếu điều đó đúng thì điều gì sẽ xảy ra cho ta?
Ta nghĩ về điều đó trong rất nhiều ngày.
Thực ra, ta nghĩ về nhiều chuyện. Ngày ngày ta ngồi trên những chiếc ghế làm việc với những người phụ nữ khác. Chúng ta làm việc tám tiếng một ngày, không có ngoại lệ. Chúng ta làm những hộp diêm nhỏ, cắt, gấp, dán, mỗi một việc cứ làm đi làm lại mãi. Trước khi vào tù ta chưa bao giờ nghĩ một ai đó phải làm những chiếc hộp này để cho diêm vào. Ta chưa bao giờ nghĩ một vật nhỏ nhoi chả ra gì lại là sự hành hạ đối với một ai đó. Công việc thật nhàm chán. Vì thế ta cố nghĩ ra một cách để làm những chuyện đó, gấp nắp hộp trước sau đó dán lại hoặc có thể xếp chúng theo một kiểu bất kì nào để giữ cho đầu óc ta bận rộn. Khi trí óc của con không có gì để tập trung thì là lúc các ý nghĩ xấu xuất hiện. Ta nhớ một lần ta nhận được một lá thư của Jimmy. Ta dừng tay trong vài phút để đọc to lá thư cho các bạn tù làm việc cùng một ghế với ta nghe. Họ bao giờ cũng cảm thấy hứng thú khi ta nhận được một lá thư máy bay đặc biệt, bởi vì họ thậm chí chẳng bao giờ nhận được một lá thư thường. Tất nhiên cũng bởi vì họ không biết đọc. “Cô vợ bé bỏng thân yêu của anh”, ta đọc, tất cả các cô gái thở dài! Tiếp đó ta đọc cho họ nghe những điều quen thuộc.
Anh yêu ta nhiều như thế nào, các cô cười ngặt nghẽo. Anh cầu nguyện cho ta hàng ngày như thế nào, họ thở dài xao xuyến. Anh nghĩ đầu anh sẽ bốc cháy về học hành quá nhiều, họ cười khúc khích.
Vui biết bao nhiêu khi học những vũ điệu dân gian. Ta dừng lại. Những bài học nhảy! Những cô gái này không nói gì, họ quay về với công việc của mình. Ta nhìn những ngón tay thô ráp sần sùi của mình. Ta hình dung cảnh Jimmy nắm bàn tay mềm mại của một cô gái đẹp. Làm sao anh có thể vẫn yêu ta trong lúc lại đi nhảy với một cô gái khác? Làm sao anh có thể nhắm mắt lại cầu nguyện cho ta trong khi anh quá bận rộn với việc vỗ tay, đập chân. Rồi ta hình dung rằng anh viết anh có vợ trong tờ hộ chiếu, có nghĩa là anh đã cưới một người khác chứ không thể là ta. Chẳng bao lâu sau, Jimmy đã khiêu vũ nhanh hơn, nhanh hơn trong đầu ta, một, hai, ba, từ hành lang một nhà thờ sang vòng tay của một người vợ mới!
Những suy nghĩ như thế bò vào trong óc ta, ta bị kẹt với những ý nghĩ đó, không có cách gì xua đuổi chúng. Ta chẳng biết làm gì ngoài việc chờ đợi, xem xét, chờ đợi và xem xét. Ta nghĩ có thể là ta đã chờ đợi một cách uổng công. Nhưng sau đó ta chống lại cái ý nghĩ hắc ám này, bám vào những kí ức vui vẻ, Jimmy ôm ta trong vòng tay anh đêm đêm, không bao giờ để ta đi.
Ta chẳng có khách đến thăm nhiều ngoài dì Du. Thím Lớn, thím Nhỏ chẳng có tiền để đi thăm ta thường xuyên. Peanut chỉ đến thăm ta một lần sau đó cùng mẹ Du nhỏ biến mất vào một đêm nào đó. Tất nhiên cha ta không đến. Thậm chí ông không biết ta đang ở tù nữa. Ta nghe nói rằng bây giờ ông không ngừng mơ mộng. Trí óc của ông ấy ở đâu đâu ấy. Ông nằm trên giường, mở mắt, nhắm mắt như không có chuyện gì xảy ra.
Nhưng một hôm, San Ma và Wu Ma đến thăm ta. Ta rất ngạc nhiên khi nhìn thấy họ. Nhưng rồi ta thấy họ bận đồ trắng, ta hiểu tại sao những người vợ của cha ta lại đến đây.
“Chết rồi ư?”
San Ma gật đầu còn Wu Ma thì nhìn đi chỗ khác. Cả hai bắt đầu khóc. Ta cũng khóc. Ta nhớ cái ngày cha ta đã cho ta những thỏi vàng.
“Ông ấy chết với đầu óc sáng suốt”, Wu Ma nói.
“Cuối cùng ông ấy đã trở nên mạnh mẽ”.
Ta gật đầu. Đó là những lời tốt đẹp người ta vẫn dành cho người quá cố. Ta cảm ơn họ đã đến thăm ta, cho biết tin này.
Nhưng San Ma lại nói, “Đúng thế đấy. Một điều rất lạ lùng xảy ra trước khi cha con chết. Đầu óc ông trở nên minh mẫn”.
“Đó là một phép lạ”, Wu Ma nói.
“Hoặc có thể là ông ấy lừa chúng ta trong suốt những năm qua”, San Ma nói, “giả vờ không nói được. Cha con rất bướng bỉnh trong những trường hợp như thế”.
“Một phép lạ, tôi nghĩ thế”, Wu Ma khăng khăng.
“Chuyện xảy ra như thế này”, San Ma nói. “Ta vào phòng ông ấy năm ngày trước, vào buổi sáng như thường lệ. Ta cố bón cho ông ấy món cháo lúa mạch, như mọi ngày. Ông ấy không ăn nhiều. Hàng ngày ta phải cố đấu tranh để cạy miệng ông ra đổ vào một chút cháo. Thực thế, ông ấy còn nhõng nhẽo hơn cả một đứa trẻ, không chịu ăn, làm bẩn hết cả giường. Sáng hôm ấy ta quá tuyệt vọng, ta kêu lên, “Lạy đức Phật Bà xin Người mở miệng ông ấy ra!”
Bất thình lình ông mở mắt nhìn ta với ánh mắt hiểu biết. Ta nghĩ là ông ấy có thể hiểu mình. Ta bảo ông, “Ăn một chút đi, ăn đi, ăn đi!” Ông nhìn ta rồi nói, “Vậy thì hãy cho tôi cái gì ngon lành hơn”. Như thế đấy, những lời ấy bật ra! Vậy mà trong bảy năm ông ấy không nói một câu. Ta chạy ào xuống cầu thang nhanh như đôi chân già có thể chạy được. Wu Ma gật đầu, “Bà ấy nói với ta, ta đâu dám tin”. “Chị nằm mơ thôi, cũng giống như ông ấy”, ta đã nói như thế đấy, chính xác.
“Ta bảo với người đầu bếp” San Ma nói tiếp, “lúc ấy bà Văn cũng nghe thấy, bà ta muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Thế là mọi người kéo nhau lên lầu, mang bánh bao nhân thịt, bánh ngọt, một tô mì, phòng khi ông muốn ăn. Khi ta bước vào phòng, ồ – ông ấy đang ngủ. Ta lại bảo bà ấy”, Wu Ma tiếp, “chị chỉ nằm mơ thôi”. Chợt ta nhìn thấy một cái cửa sổ mở, một ngọn gió mạnh thổi từ ngoài vào phòng. “Tại sao cửa lại mở?” Ta nói rồi lại gần đóng cửa sổ lại, ông liền thức dậy nói, “Cứ để cửa mở?”
“Chúng tôi há hốc miệng như cái cửa sổ mở”, San Ma tiếp lời, “Ta đưa cho ông cái bánh, ông ăn ngay. Người đầu bếp đưa cho ông một miếng bánh ngọt. Ông cũng ăn. Bà Văn chạy xuống cầu thang gọi chồng, con lên xem. Rồi họ kéo nhau lên”.
“Chúng ta tất cả đều chứng kiến”, Wu Ma nói. “Cha con nhìn quanh phòng, cau mày với mọi người đứng quanh. Ông nói “Cái phòng này trở thành cái gì vậy? Tại sao trông nó nhếch nhác thế? Những bức tranh của tôi đâu? Thảm của tôi đâu?”
“Ông ấy lại trở về con người ngày xưa”, bây giờ San Ma hào hứng tiếp, “kiêu hãnh, nhiều ý kiến”. Wu Ma gật đầu, “Ta bảo ông, “Tất cả mọi thứ đều thay đổi. Chẳng còn được bao nhiêu tiền để sang sửa”. Ông nói, “Sao lại không còn tiền?” Ta đáp, “Tiền mất giá dữ lắm. Ai cũng thế cả, không chỉ chúng ta. Tiền giấy ngày càng mất giá”.
Ông nói, “Tôi không nói tiền giấy. Vàng, vàng, biết chưa đồ ngốc!”
San Ma vỗ tay vào nhau, lúc ấy đoán xem chuyện gì xảy ra? Ngay lập tức, Văn Phú hỏi, “Vàng nào ta, ở đâu?” Cha con nhìn Văn Phú như thể thằng con rể của ông chỉ là một cái đầu gỗ. “Ở đây”, ông nói, “trong nhà này, tất nhiên. Những thỏi vàng dày như ngón tay của mi ấy, nặng như mi ấy”.
“Ồ! Làm gì có vàng trong ngôi nhà này”, Văn Phú đáp. Cha con nói với nụ cười nhạo báng. “Đó là vì mi không biết nơi ta cất nhiều năm trước, ta đã giấu nó”. Sau đó ông gãi ngực, “Để ta nhớ coi sau bức tường nào? Dưới sàn phòng nào?” “Ôi chao”, Wu Ma nói, “ngay lúc đó chúng ta biết việc cha con đang làm. Chúng ta đã chứng kiến kiểu cách này của ông nhiều lần rồi, rất cừ. Ông lôi ra một đầu sợi dây rồi cứ kéo, kéo mãi. Cho đến khi Văn Phú nhẩy tõm vào bẫy. Khi Văn Phú nhảy lên hỏi,” “Ở đâu? Ở đâu?” cha con xua hắn đi. “Ta mệt lắm, quay lại đây vài tiếng nữa ta nói cho mà nghe”. Rồi cha con nhắm mắt lại, quay về với những giấc mộng của mình.
“Văn Phú đã làm gì?” Wu Ma hỏi, “hắn lẩm bẩm, “ Lão già này điên rồi!” nhưng chúng ta thấy cha con nó xuống dưới nhà. Chúng ta nghe tiếng họ đập tường, sàn nhà để tìm vàng”.
“Ba tiếng sau”, San Ma nói với giọng run rẩy, “chúng ta lên trên phòng cha con nhưng ông đã đi. Thật đau lòng! Ta lay ông hồi lâu, hỏi, “Cái gì thế này! Ông chỉ đến thăm chúng tôi một chút lại vội vã ra đi, không đoái hoài đến mụ vợ già này của ông ư?”
“Chúng ta khóc rất thảm thiết”, Wu Ma tiếp lời, “còn Văn Phú, nó rất độc ác, độc ác đến mức không tin được! Cha con vẫn còn nằm đấy, thân thể vẫn còn ấm mà nó đã bắt đầu phá nhà ngay chỗ ông nằm. Thật là xấu xa!”
“Bây giờ”, San Ma nói, “sau năm ngày, tất cả những bức tường, sàn nhà trong phòng ngủ của cha con đều bị cạy lên. Văn Phú sẵn sàng làm thế với các phòng khác.”
“Chúng ta chẳng thèm quan tâm đến những việc xảy ra trong ngôi nhà này”, Wu Ma thủng thẳng nói. “Nó có giật cả ngôi nhà đổ xuống chúng ta cũng không quan tâm. Ngày mai chúng ta sẽ rời khỏi đây đi Yên Thái sống ở nhà em trai ta. Cậu ấy đã đề nghị như thế và chúng ta nhận lời”. Bà kết thúc với một vẻ thỏa mãn trên mặt. Hai người vợ của cha nhìn ta chờ ta nói gì. Bao nhiêu cảm xúc chạy nháo nhào trong ta: đau khổ vì cha chết, căm thù Văn Phú, nỗi buồn phải xa San Ma, Wu Ma. Tất cả chúng ta mới yếu đuối, vô phương hi vọng làm sao.
“Ối!” ta thốt lên, “cái chén đắng cay này thật là khó nuốt. Chẳng còn gì để lại trong lúc các mẹ tuổi già sức yếu. Thật đáng buồn. Tất cả vàng bạc của chúng ta rơi vào tay một người xấu như thế. Thật dễ sợ ”. San Ma cau mày, “Chẳng có vàng bạc gì trong nhà này. Con có nghe chúng ta nói gì không? Chúng ta biết cha còn mà. Tại sao ông lại để vàng cho kẻ mà ông ghét. Ông thức dậy để lại cho Văn Phú một lời nguyền”.
“Nhưng căn nhà bị phá hủy chẳng vì cái gì!” Ta kêu lên.
“Chẳng vì cái gì ư?” San Ma nói. “Con nghĩ là chúng ta không đau khổ khi phải sống chung với Văn Phú sao? Con nghĩ là chỉ có con là người bị hắn hại sao? Bây giờ thì cha con để cho hắn chạy mòng mòng. Bây giờ thì hắn đuổi theo giấc mơ của cha con. Bây giờ thì ngôi nhà này sẽ đổ sập lên đầu hắn. Không phải là không vì cái gì đâu!”
Đây là bức điện ta gửi cho cha con hỏi xem ta có thể đến Mỹ, trở thành vợ anh không? Con xem anh đã giữ gìn nó, anh đã vui sướng khi nhận được nó như thế nào. Nhưng bức điện anh trả lời ta thì không có ở đây.
Bây giờ ta sẽ trả lời con tại sao. Đó là điều ta đã phải sợ hãi khi nói với con. Đó là điều mà bao giờ ta cũng muốn quên đi.
[1] Nguyên văn: Sincerely your truly, Peddy.