← Quay lại trang sách

Chương 24 ƠN HUỆ

Một hôm dì Du mang đến cho ta một ngạc nhiên – Huê Lan đến và mang một đứa con trong bụng. Ta khóc thật vui sướng khi được gặp lại cô. Cô cũng khóc vì buồn khi gặp ta trong tù. Đó là tháng Hai năm 1949, sau khi ta vào tù được hơn một năm. Chúng ta vẫn thư qua từ lại, năm lá thư về phía ta, ba lá thư từ Huê Lan. Cô bao giờ cũng xin lỗi, nói rằng từ ngày Gia Huy chết cô cũng chẳng biết viết thư cho ra hồn. Nhớ điều dì Du bảo ta về nỗi đau khổ của Huê Lan, ta cũng chẳng phàn nàn về những lá thư đến thật chậm, thật quá rối rắm. Trong lá thư cuối cùng, cô nói cô có một điều quan trọng muốn nói với ta – cô không nói rõ là cái gì – chỉ nói rằng cô rất hạnh phúc, cô hi vọng ta cũng thế.

Đây là cái tin của cô – cô đã tái giá – một người đàn ông tử tế tên là Quảng Anh. Đó là tên của dượng Henry Công. Ồ, lúc đó ông khác bây giờ lắm: một cái bụng thon, phẳng phiu bây giờ là cái bụng to bự, nhiều tóc đen trên cái đầu hói bây giờ, cặp kiếng của anh không quá dày. Ta không thể nói là anh đẹp trai nhưng anh rất dễ thương, cung cách nói năng rất dễ chịu – Helen có thể kể cho con nghe họ gặp nhau như thế nào sau khi Gia Huy chết. Dì ấy sẽ bảo con đó là tình yêu sét đánh. Có thể là phía anh ta. Còn ta nghĩ Huê Lan là người có đầu óc thực tiễn. Cô ta thấy có cơ hội, bèn vội vàng đón lấy, chẳng có gì sai trái trong chuyện này.

Ta nói như thế bởi vì ta biết Huê Lan yêu Gia Huy như thế nào. Cô dành cho anh một tình yêu đằm thắm cũng như tình yêu mà ta dành cho cha con. Ta nghĩ cô chỉ buồn vì Gia Huy đã không có một tình cảm như vậy dành cho cô. Cô đã có một tình yêu lớn dành cho anh còn anh thì tình cảm ấy dần dần mới trở thành tình yêu. Nhưng còn Quảng Anh thì anh say cô như điếu đổ. Bất cứ điều gì cô muốn anh đều chiều theo. Cô bảo anh giúp ta ra khỏi tù. Anh là một sĩ quan quân đội ở phía Bắc nhưng bây giờ Cộng sản đã chiếm đóng phía Bắc, đuổi tất cả những người phục vụ quân đội Tưởng Giới Thạch đi. Thế là anh và Huê Lan đến Thiên Tân, khi thành phố này bị chiếm nốt thì họ đến Thượng Hải. Anh có một người bạn học ở đây, người này có một địa vị quan trọng, nắm giữ về giáo dục ở thành phố này. Nhân vật này có rất nhiều mối quan hệ với giới chức chính quyền: luật sư, quan tòa, cảnh sát. Huê Lan nói rằng Quảng Anh chỉ cần nói một câu với ông này, câu đó sẽ được truyền qua từ người này đến người khác cho đến khi ta được trả tự do.

Ta tin cô. Ta không tìm hiểu có thật Quảng Anh quan trọng như vậy không? Có thật bạn anh lại sẵn sàng nghe anh? Khi con ở tù, một ai đó hé lên cho con một tia hy vọng, con sẽ chộp lấy. Con không quan tâm đến việc nó ở đâu mà ra.

Ta ở tù thêm hai tháng nữa, một ngày có một người đến tìm ta, nói “Giang Vi Vi, chị được tự do”. Thế thôi, ta không hỏi gì cả chẳng có ai giải thích điều gì cho ta. Ta nắm tay từng người bạn tù. Ta mong ước cuộc sống của họ sẽ tốt đẹp hơn. Khi ta định nói nhiều hơn, họ xua ta, bảo ta phải nhanh chân kẻo lỡ vận may của ta lại biến mất.

Trước khi ta ra cổng, một nhân viên quản giáo đưa cho ta một tờ giấy bảo ký và ta có thể ra về. Trong tờ giấy ấy, ở cái đoạn nói rằng ta được giải phóng, một ai đó đã ghi vào: “Xử sai”. Con có thể hình dung ta cảm thấy như thế nào không? Hơn một năm trời ta ngồi tù chỉ vì một nhầm lẫn. Ta hạnh phúc, phát khóc lên vì tự do. Ta cũng rất giận dữ nữa. Dì Du đang đợi ta ở bên ngoài. Chúng ta đi lên xe buýt – chúng ta đi về nhà – về căn hộ đã sống chung với Jimmy. Trên đường về ta nhìn thành phố với biết bao thay đổi. Ngân hàng, cửa hiệu, trường học, nhà hàng – bao nhiêu chỗ bị đóng cửa. Nhiều chiếc xe hơn chạy trên đường, đầy những người, đồ đạc, lèn chặt đến nỗi quần áo thò cả ra ngoài cửa xe.

Người ta thường nói rằng ngày ngày có hàng trăm, ngàn người nườm nượp đến, đi trên đường Nam Kinh này. Cái ngày ta ra khỏi tù, phải có đến hàng trăm ngàn người đẩy những chiếc xe với một sự kết hợp lạ lùng của mọi vật, bao gạo với áo khoác lông chồn, hoặc đại loại như vậy. Dì Du nói rằng tất cả bọn họ đều chạy ra ga xe lửa hoặc ra bến tàu để bỏ đi Quảng Đông hay Hồng Kong trước khi quân Cộng sản đến.

Huê Lan đang nấu cơm thì ta về đến nhà. Cô chạy ra, vỗ vào đôi má gày gò của ta và bảo: “Có thể tài nấu nướng của em không bao giờ bằng của chị. Nhưng hôm nay em nghĩ chị sẽ có một bữa ăn ngon hơn tất cả những bữa chị đã nếm trong những ngày qua.” Chồng mới của cô đưa ta đến ghế sofa bảo ta nằm nghỉ một chút. Ta hết lòng cảm ơn anh.

“Quảng Anh, nếu không có sự giúp đỡ của anh”– Anh gạt đi. “Không cần nói gì hết”.

“Chị đã ở đây”, anh đáp. “Đó mới là vấn đề. Những chuyện khác đã qua rồi”. Quả vậy, anh rất lịch sự. Vì thế ta cũng lịch sự một cách kệch cỡm. “Tôi biết là có nhiều rắc rối. Tôi bao giờ cũng mắc nợ anh. Nếu anh có bao giờ cần đến sự giúp đỡ từ người bạn Giang này, xin anh đừng ngại. Mỗi lần tôi có thể làm gì cho anh, là chỉ cộng thêm vào niềm vui của tôi thôi”.

Mặt anh đỏ dừ lên. Thật khiêm tốn, ta nghĩ. Bây giờ thì Huê Lan cất tiếng véo von như một con chim đang cao hứng. “Em đã nói chị nghe chưa? Chỉ một lời, đó là tất cả điều Quảng Anh đã làm. Anh ấy biết nhiều người, toàn là những người quan trọng. Tất nhiên em phải giục giã anh. Tại sao lại để chậm trễ. Hãy giải phóng cho chị ấy, nhanh lên”.

“Đừng nói nữa”, dì Du nói. “Đi ăn thôi, cô bé này gầy đến nỗi gió thổi bay”. Điều đó đúng. Ta sụt ít nhất là bốn, năm kí so với năm ngoái, lúc đó ta rất gầy.

Bữa ăn đón mừng ta trở về rất đơn giản: rau dền luộc với nấm đen nhỏ cắt búp, trứng chiên với món thịt heo, cá chỉ vàng chiên, canh đầu cá. Chỉ có thế, ba món canh cho bốn người ăn, khẩu phần cho một người rất ít. Ta nghĩ dì Du hiểu cái nhìn của ta khi món cuối cùng nhanh chóng hết.

“Bữa ăn này rất đặc biệt”, bà giải thích.

“Ồ!” Ta an ủi. “Mọi thứ đều ngon quá mức tưởng tượng”.

“Phải, nhưng dù sao con cũng nên biết, chúng ta chưa bao giờ được ăn như thế này nhiều tháng rồi”.

“Tiền giấy bây giờ như giấy lộn”, Huê Lan nói. “Nếu chị mua một bao gạo – có thể chị phải trả đến 6 triệu đồng tiền mới. Thật quái gở! Tiền bây giờ cân nặng hơn gạo!”

“Vậy thì làm sao mọi người có tiền mua thức ăn tối nay?” ta hỏi.

“Dì bán một chiếc vòng ngọc thạch nhỏ”, dì Du nói, khi bà thấy cái nhìn sửng sốt của ta, bà nói thêm. “Chỉ có cách ấy. Đó là tất cả những gì chúng ta có thể giữ. Đó là những vật duy nhất con có thể dùng để trao đổi. Nếu họ biết con dùng vàng hoặc đô Mỹ trên đường phố, con có thể bị giết. Bọn Quốc dân Đảng sẽ bắn vào đầu con. Khi quân cách mạnh đến họ cũng có thể làm thế”.

“Chúng ta không còn tiền à?” ta hỏi dì Du. “Dì không nói thế. Dì nói rằng không nên để họ biết là con trao đổi trên đường phố bằng vàng, đôla. Chúng ta vẫn còn một ít vàng từ số tiền con gửi trong nhà băng. Chúng ta vẫn còn gần 200 đô, tiền của Jimmy Louie. Ngoài ra chúng ta vẫn còn vòng vàng, nhẫn, một số thứ khác như bông tai chẳng hạn. Vì thực tế ra chúng ta vẫn còn may chán”. Lúc đó ta bỗng nhớ ra “Có lẽ chúng ta thậm chí vẫn còn may mắn hơn” ta nói. “Vali của con đâu?” chúng ta đi vào phòng ngủ, ta mở vali, lôi cái đáy ra. Ta đã giấu khéo đến mức ta cũng gần quên mất. Nhưng mà đây: 10 đôi đũa bạc, với sợi dây xích nối từng đôi lại.

Huê Lan và Quảng Anh bây giờ sống với chúng ta trong căn hộ mà ta từng sống với Jimmy. Họ ngủ trong phòng khách. Ta ngủ chung giường với dì Du. Đêm đầu tiên, ta không nghĩ là ta có thể ngủ được. Ta nhớ về quãng đời mình cũng trong căn hộ này chỉ hai năm về trước, khoảng thời gian hạnh phúc với Jimmy Louie và Đạm Như. Nhưng chỉ một lúc sau, dường như dì Du lay ta tỉnh dậy. Trời đã sáng, bà cười vì ta đã nằm ép sát vào tường, như ta vẫn thường ngủ trong tù.

Sau bữa ăn sáng, ta tặng Huê Lan một món quà, một đôi bông tai. Ta đặt chúng cạnh đũa ăn của cô. Chồng cô từ chối dùm vợ.

“Không, không!” Anh nói, “Không cần cảm ơn như vậy. Lấy lại đôi bông tai này đi. Không cãi cọ về chuyện này nữa”.

Ta giả vờ không nghe anh nói gì. “Thử đi”, ta bảo Huê Lan. “Tôi chỉ muốn nhìn xem chị đeo như thế nào”. Huê Lan do dự – chỉ năm giây thôi – rồi đeo chiếc vào tai.

Con có biết đôi bông tai ta đang nói không? Cái đôi mà dì Helen đeo vào những dịp long trọng ấy? Chúng có cái dáng rất đẹp hai nửa miếng ngọc thạch bọc vàng. Chúng ta gọi đó là ngọc bích hoàng gia. Con không dễ gì kiếm được cái màu xanh ấy đâu, cực hiếm, ngày càng có giá. Ta đã cho cô đôi bông tai ấy vì đã giúp ta ra khỏi tù. Đoán xem sau đó là chuyện gì? Khi dì Du và ta đi chợ ngày hôm ấy, bà nói với ta, “Đừng cho Huê Lan bất cứ món quà gì khác. Quảng Anh không muốn con nhắc anh ta về sự giúp đỡ ấy đâu”.

Ta bảo dì Du, “Anh ấy rất khiêm tốn, một người tốt, con biết thế. Nhưng con nghĩ là anh ấy rất vui sướng vì con đã cho Huê Lan đôi bông tai đó”.

“Không quà cáp gì nữa”, dì Du cứng rắn nói. “Dì ạ, họ chỉ lịch sự từ chối thôi”.

“Có thể Huê Lan thì thế, nhưng không phải Quảng Anh”. Sau đó bà kể cho ta nghe. Quảng Anh đã nói chuyện với bà tháng trước như thế nào khi ta vẫn ở trong tù. Anh vừa xấu hổ vừa ngượng ngập. Người bạn học đã từ chối nói chuyện với anh, thậm chí không thèm ra khỏi phòng làm việc để chào anh lấy một tiếng nữa. Anh sợ phải nói với Huê Lan rằng bạn anh không coi anh ra gì, thế là anh không thể giúp bạn cô sớm ra tù. “Tôi quá ngượng để nói với vợ tôi điều đó”, anh nói với dì Du. Dì Du bảo anh, “Đừng nghĩ về điều đó nữa.”

“Anh ta không giúp con à?” ta hỏi.

Dì Du lắc đầu, “Anh ấy muốn lắm, tất nhiên. Nhưng cuối cùng, chính dì đi gõ các cửa”, bà nói. “Thực ra chẳng có gì ghê gớm cả, chỉ mất công suy nghĩ vài ngày thôi. Con xem mọi chuyện ở Thượng Hải rối beng lên như thế nào, chẳng có ai coi sóc gì hết. Ta bảo những người trong nhà giam rằng con có họ với một lãnh tụ cộng sản cao cấp – tên của người ấy, ta nói, là một điều bí mật.” Ta nói thêm, “Nếu quân Cách mạng kéo về đây thấy Giang Vi Vi trong tù – thì ôi thôi!”

“Dì nói vậy hả?”

Dì Du cười, “Con xem quyền lực là gì – đó là nắm được nỗi sợ hãi của người khác trong tay, hé nó ra cho họ xem! Vả lại điều đó có thể đúng. Có thể Peanut và mẹ Du nhỏ bây giờ trở thành những người Cộng sản quan trọng, ai biết được?”

Dì Du bắt ta phải hứa là không được nói gì với Huê Lan. Con thấy bà tuyệt thế nào chưa? Bà muốn Huê Lan tự hào về Quảng Anh. Bà nói Quảng Anh có ý định tốt, đó mới là vấn đề đáng kể. Bà không muốn để cho mọi người xem bà là một người anh hùng như thế nào. Nhưng ta biết, với bà thế là đủ. Tuy vậy, có nhiều lần, rất nhiều lần ta đã phải cắn vào lưỡi vì chuyện này. Helen nói, “Nào bây giờ em muốn xin chị trả lại một cái ơn”. Bao giờ ta cũng biết cô nói về cái gì. Henry cũng biết, nhưng theo một cách khác. Đôi khi cô ta đòi hỏi quá nhiều, như là lúc cô muốn ta giúp cô sang định cư ở Mỹ năm 1954 sau khi cô và dượng Henry bỏ chạy khỏi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Cô yêu cầu cha con và ta tiêu nhiều tiền cho cô. Liệu ta có thể nói, “Tôi thật sự không muốn đưa cho cô đôi bông tai, hãy trả lại cho tôi được không?”

Dù sao thì phần lớn thời gian ta vui mừng vì cô ở đây, Henry cũng vậy. Họ là những người tốt, ta chỉ phát điên lên khi Helen làm như thể chuyện gì cũng biết. Bây giờ thì con biết rồi đấy, dì ấy chẳng biết gì hết.

Ngày ra tù, ta viết cho Jimmy một lá thư nói rằng ta chờ anh cho ta biết anh muốn ta làm gì. Ta tự đến với anh? Hay ta chờ anh sang đây đón ta? Ta nói ta nghĩ Cộng sản sẽ mau chóng chiếm Thượng Hải, có thể là chỉ trong vòng một, hai tháng, sau khi đọc lại lá thư, ta xé đi.

Ta nhớ những lá thư của anh thay đổi như thế nào trong sáu tháng qua. Anh vẫn gọi ta là cô vợ bé bỏng. Nhưng anh không dành cả ba trang để viết về tình yêu lớn của anh dành cho ta nữa. Có vẻ như là chỉ còn hai trang về tình yêu dành cho ta, một trang về tình yêu anh dành cho Chúa. Một vài tháng sau thì chỉ còn một trang dành cho ta, hai trang dành cho Chúa.

Vì thế ta viết một lá thư giản dị. Ta nói ta đã được ra tù. Ta nói, mọi việc đang thay đổi rất nhanh ở Thượng Hải, nhanh hơn là anh có thể hình dung. Ta nói Cộng sản đang thắng thế, Quốc dân Đảng đang sẵn sàng bỏ chạy. Ai biết được tình hình tốt lên hay xấu đi. Đó là lá thư ta gửi đi. Ta quyết định phải chờ đợi. Ta kể với dì Du về những việc đã làm. Ngay lập tức dì nói, “Cái gì? Con không định làm gì ngoài việc chờ đợi ư? Cái gì đã xảy ra cho con ở trong tù vậy? Có phải con chỉ học để giữ cho chân con đặt trên sàn phòng giam không? Bất cứ ai thậm chí chỉ nghĩ rằng mình có cơ hội để rời khỏi đây, thì cũng cần đấu tranh cho cơ hội đó ngay lập tức”.

Bà lôi ta ra khỏi ghế, “Chúng ta đi ngay đến bưu điện, nếu không lá thư của con sẽ mất sáu tháng để tới tay anh ấy. Như vậy câu trả lời của anh ấy còn có nghĩa gì? Tất cả các cơ hội của con sẽ qua đi”.

Ở bưu điện dì Du và ta cố hết sức mới kiếm được một chỗ trong hàng người. Dường như tất cả mọi người đều có một thông điệp khẩn cấp, một loại cực kì cấp thiết. Sau ba, bốn giờ xếp hàng, chúng ta cũng đứng trước quầy. Ta viết địa chỉ của Jimmy cùng với lời nhắn: “Ra tù. Sẵn sàng đi. Cho lời khuyên. Vợ anh, Giang Vi Vi”. Cô nhân viên đọc qua bức điện rồi nói, “Không, nó chưa đủ cấp bách. Chị phải nói, nhanh lên, chẳng bao lâu chúng em sẽ tai nạn”.

Ta nghĩ, ai mà dạy ta thêm những từ này vào trong bức điện? Ta nhìn kĩ hơn người điện tín viên tươi cười. Đoán xem là ai? Vân Betty! Betty người đẹp. Cô không chết ở Nam Kinh. Cô giải thích rằng cái hôm ta đi khỏi món tiền 400 đô của ta được gửi đến. Cô không thể gửi trả lại được. Vì thế cô dùng số tiền đó để chạy đến Thượng Hải. Bây giờ cô có một đứa con trai đã 11 tuổi vừa thông minh vừa đẹp trai.

Chúng ta không thể nói chuyện lâu ở chỗ đông đúc này. Cô bảo cô sẽ gửi ngay bức điện của ta – thêm vào những từ mà cô gợi ý, để khiến Jimmy gửi ngay điện trả lời. “Ngay khi câu trả lời của anh ấy đến em sẽ mang đến nhà chị” ta nói.

Hai đêm sau cô tới. Ta cầm phong bì đi vào phòng ngủ và đóng cửa lại. Ta run run như dẽ. Lát sau sự run rẩy của ta biến mất. Một cái gì đó nói với ta cả khi không mở phong bì ta cũng biết câu trả lời. Ta biết mệnh duyên của ta, số phận của ta, ý muốn của Chúa. Bức điện viết: “Sáng danh Chúa. Đơn xin nhập cảnh Giang Vi Vi. Winnie vợ của Jimmy Louie, công dân Mỹ. Giấy tờ và 700 đô sẽ được gửi đến. Đi ngay lập tức.” Ngày hôm sau chúng ta bán vàng, cùng với một số nữ trang ngoài chợ đen. Sau đó ta và dì Du đi làm hộ chiếu. Chỗ này còn tệ hơn cả bưu điện! Người ta xô đẩy nhau, ai cũng la hét, những nắm tiền vẫy lên loạn xạ, người ta ùa nhau đến nghe một lời đồn rồi biến mất. Luật thay đổi như chong chóng. Con cần phải có ba nước đồng ý cho con nhập cảnh nếu con không thể trở về Trung Quốc. Ta đã có được giấy phép của Mỹ. Tất nhiên nhưng ta cần hai nước nữa. Ngày hôm ấy có ai đó nói rằng có một số cơ hội có thể là nước Pháp, ta không nhớ rõ. Dù vậy ta phải trả 200 đô cho đất nước thứ hai, bây giờ ta chỉ cần tìm thêm một nước nữa. Ngày hôm sau ta trở lại để lấy giấy tờ, một người đàn ông bảo ta. “Nước thứ hai chỉ là một tin đồn”. Thế là mất toi 200 đô của ta.

Ta không thể nhớ là ta phải đợi bao lâu trước khi tìm ra nước thứ hai rồi nước thứ ba, có thể là hai tuần. Trong thời gian ấy, ta rất nóng ruột. Ta nổi ban đỏ khắp người sau đó thì ta bồn chồn ghê gớm như đứng trên đống lửa, hệt như những con nhện đỏ sẵn sàng tung vó. Người đẹp Betty đã gửi nhiều bức điện cho Jimmy, giải thích tại sao ta bị trễ, cuối cùng, thủ tục giấy tờ cũng được hoàn tất. Nhưng ta còn phải tìm ra phương tiện đi.

Ta mua ba vé. Vé thứ nhất là vé máy bay chợ đen đến San Francisco trong vòng 10 ngày khởi hành ngày 15–5. Vé thứ hai và vé thứ ba là vé chính thức, một cái đi qua Hồng Kông ngày 27–5, cái vé kia đi qua đường Singapor ngày 3–6. Ta có ba cơ hội. Ta bảo dì Du rằng dì có thể dùng hoặc bán bất cứ vé nào còn lại. Nhưng bà nói sẽ quyết định sau. Huê Lan không muốn bỏ chạy. Cô muốn đứa con của cô được sinh ra ở Trung Hoa. Có thể con nghĩ đó là một ý ngu xuẩn. Nhưng ta biết nhiều người khác cũng nghĩ như thế: Sinh ra, chết ở Trung Hoa đó là điều tối quan trọng. Dù sao thì Huê Lan nói cô sẽ sinh con đã, rồi sẽ quyết định rời khỏi đây hay không, chuyện nhỏ. Cô đã tính sai, tất nhiên. Cô đã gặp rất nhiều khó khăn. Ta đã phải giúp cô.

Mọi thứ đã đâu vào đấy. Ta làm một việc cuối cùng, một việc hết sức ngu xuẩn. Ta vẫn muốn có một tờ giấy li dị với Văn Phú. Đó là niềm kiêu hãnh của ta, ta không hiểu tại sao ta không cho chuyện này qua được, tại sao ta không thể đến Mỹ, quên tất cả những chuyện khác? Nhưng vào lúc đó ta thuyết phục mình rằng ta sẽ không bao giờ có được sự thanh thản trong lòng, cho đến khi ta giải quyết xong chuyện này.

Ta không nghĩ mình thiếu cảnh giác. Ta đã có được tờ giấy của tòa án rằng ta bị xử oan. Ta đã có dì Du, một bức điện nói rằng ta là vợ của Jimmy Louie, ta có một kế hoạch hoàn hảo. Đây là những điều đã xảy ra. Betty người đẹp gửi một bức điện khẩn cho Văn Phú. “Một gói hàng đặc biệt chuyển đến cho ông bà Văn Phú. Yêu cầu cả hai kí nhận. Đến vào lúc hai giờ chiều ngày 10-5, mang theo bức điện, giấy tờ đến trạm bưu điện trên đường Quang Chi”.

Con nghĩ là một thằng tham lam có thể cưỡng lại một bức điện như thế sao? Vào lúc hai giờ hắn đến cùng với người đàn bà mới của hắn. Cả hai ra sức chen lấn để tới được quầy. Huê Lan, dì Du và ta đứng phía trong quan sát. Betty người đẹp lấy ra một tờ giấy, đi đến chỗ bưu phẩm ở đằng sau, nháy mắt với ta. Khi cô làm thế, cô đặt gói bưu phẩm lên quầy, yêu cầu Văn Phú và vợ hắn kê vào tờ giấy biên nhận tên tuổi họ. Nhưng trước khi hắn làm thế cô lấy lại tờ biên nhận, nhìn chằm chằm vào cái tên. “Văn Phú?” cô nói bằng giọng ngờ vực. “Tôi nhớ là đã gặp anh ở Nam Kinh nhiều năm về trước phải không? Anh không cưới chị Giang ư?” Văn Phú dán mắt vào gói bưu phẩm. “Không còn nữa”, hắn đáp. “Đây là vợ anh hả?” Vân Betty hỏi, nhìn người đàn bà to lớn có vẻ hống hách đứng cạnh Văn Phú, “tôi không thể giao gói này cho bất cứ ai ngoài Văn Phú và vợ chính thức của anh ta”. “Đây là vợ tôi”, hắn nói một cách nóng nảy, “tôi đã li dị người kia”.

“Tất nhiên tôi là vợ anh ấy”, người đàn bà có vẻ hống hách nói, “Cô là cái thá gì mà dám hỏi chúng tôi về điều đó?” Lúc ấy ta hiện ra, dì Du và Huê Lan theo sau. “Anh đã thừa nhận điều đó”, ta hét lên, “nào bây giờ chúng tôi đã có nhân chứng”. Đám đông trong bưu điện tò mò vây quanh chúng ta. Văn Phú trừng trừng nhìn ta như thể ta là một bóng ma. Ta đưa cho hắn tờ giấy li dị để ký. Mọi thứ đã được viết sẵn. Nó bắt đầu bằng câu ta, Văn Phú li dị từ năm 1941, việc này xảy ra ở Côn Minh. Nó nói rằng hắn không thừa nhận ta là vợ, ta cũng không thừa nhận hắn là chồng, cuối cùng là 3 chữ ký của ta, Huê Lan và dì Du.

“Anh kí vào đây”, ta nói.

Ta có thể nói là người đàn bà hống hách này không có vẻ vui gì khi gặp ta “Các người làm trò gì với chúng tôi thế này?” mụ nói.

“Chẳng có trò gì”, ta nói, “nếu hắn không kí tôi cũng cóc cần. Tôi có giấy tờ nói rằng tôi bị tù oan, một tuần nữa tôi sẽ đi Mỹ với tư cách là vợ của một người khác. Nhưng không có tờ giấy này, cô sẽ không có vị trí gì ở Trung Hoa. Cô sẽ mãi mãi chẳng là gì ngoài một con hầu hạng bét của hắn”. Mọi người trong bưu điện cười. Con mụ phát điên lên. “Kí vào, giải quyết xong với nó”. Mụ ra lệnh cho Văn Phú. Hắn không nhúc nhích. Hắn không nói gì với ta hết. Hắn vẫn nhìn ta một cách độc ác. Nhưng rồi hắn cười, nụ cười của hắn ngoác ra hơn, đểu giả hơn. Hắn cười thành tiếng sau đó kí tên vào, đóng dấu lên. Hắn vung tay lên, “Đây, xong rồi”. Hắn đưa lại tờ giấy, nhìn quanh, cười khẩy. Người đàn bà chộp lấy cái gói trên quầy một cách vội vã rồi bỏ đi. Con xem vợ mới của hắn ngu ngốc như thế nào, mụ đã lấy cái gói mà ta nhét vào đấy đầy những cục phân lừa khô. Thế là ta đã có được tờ giấy li dị. Con có thể lên án ta vì những chuyện xảy ra sau đó không?

Có thể hắn rình quanh nhà chúng ta nhiều tiếng đồng hồ, thậm chí có thể nhiều ngày. Bởi vì hắn đợi cho đến khi ta chỉ có một mình. Ta nghe có tiếng gõ cửa. Ta thậm chí cũng không nghĩ là ta phải thận trọng. Ta mở cửa. Hắn đứng đó, đạp tung cánh cửa, đạp ta xuống sàn lăm lăm khẩu súng trên đầu ta.

Hắn chửi bới ta. Nói rằng ta sẽ không bao giờ thoát khỏi hắn dù ta có lên đến mặt trăng. Thấy cái vali ta đang soạn đồ, hắn quăng nó qua căn phòng, tất cả quần áo, vé máy bay, giấy tờ quan trọng của ta bay ra ngoài. Hắn nhặt một tờ giấy cuộn lại thành một ống nhỏ, mở sợi dây băng cột ngoài. Đó là tờ giấy li dị, tờ giấy đã làm nhục hắn. Hắn xé nó ra thành từng mảnh nhỏ, bảo ta, “Nào bây giờ thì mày cũng chỉ là con điếm, mày bao giờ cũng là như thế”. Hắn nhặt một tờ giấy khác. Đó là bức điện của cha con. Hắn đọc to lên bằng một giọng chế nhạo. Hắn cũng xé nốt, tung lên trời nói rằng lời hứa của Jimmy cũng trống rỗng như là khoảng không nơi những mảnh giấy đang bay lên. Sau đó hắn tìm thấy visa, những chiếc vé máy bay của ta kể cả chiếc vé cho chuyến đi hôm sau. Ta kêu lên thảm thiết. Ta năn nỉ hắn đừng xé vé máy bay. Hắn thẩy vé lên thẩy xuống trong tay như thể hắn đang ước lượng vàng. “Tại sao tao lại xé. Tao có thể bán được cả một đống tiền”. Ta khóc than, van xin hắn hãy để cho ta đi. Hắn đặt visa, vé máy bay lên chiếc bàn bên cạnh. Hắn túm tóc ta giật đầu ta lên, nói, “Lạy tao, lạy tao để tao cho phép mày làm vợ tao”. Hắn vẩy khẩu súng cạnh ta trên chiếc bàn, ta nhìn thấy tất cả cơ hội của ta, những chiếc vé máy bay. Trước mặt, ta nhìn thấy khẩu súng, sự sống chẳng mấy chốc rời bỏ ta mà đi. Ta biết có thể hắn nói láo. Nếu ta vâng lời hắn, có thể hắn vẫn lấy vé của ta, hắn có thể lấy đi cuộc đời ta. Ta có thể làm gì? Ta yếu đuối. Ta mạnh mẽ. Ta đã hy vọng. Ta không thể từ bỏ hy vọng của mình. Thế là ta đã van xin hắn. Cuối cùng ta đã đúng. Hắn nói láo. Hắn lấy vé máy bay của ta cho vào trong túi quần. Sau đó hắn đi vào buồng tắm, để lại ta nằm khóc trên sàn. Nhưng rồi ta nhìn thấy khẩu súng trên bàn. Ta chộp lấy, ghì giữa hai bàn tay, la lên gọi hắn quay lại.

Nhìn thấy ta với khẩu súng, đôi mắt hắn mở to, sau đó hắn cau mày, “Mày không biết bắn súng đâu”, hắn châm chọc.

“Tao sẽ học để giết mày”, ta nói.

“Tao chỉ lừa thôi”, hắn nói, “súng không có đạn. Tao chỉ muốn dọa mày thôi”.

“Vậy thì tại sao mày lại sợ như thế?” ta hỏi, vẫn chĩa súng vào hắn, nóng bừng lên vì một cơn cuồng nộ ngút trời. Ta thực sự muốn giết hắn, ta không nghĩ gì đến bằng chứng ngoại phạm hay là tù đày, hay cách thức để trốn thoát. Ta chỉ muốn giết hắn. Có thể ta đã làm được điều đó nếu Huê Lan không mở cửa bước vào, đánh mất phép màu của ta. “Trời ơi”, cô ta kêu lên, “chuyện gì xảy ra thế này?” “Hắn lấy cắp vé máy bay của tôi”, ta nói. Ta không nói gì đến vụ hãm hiếp mặc dù bất cứ người thông minh nào cũng có thế nhìn thấy điều ấy: tóc tai ta xổ tung, chiếc váy bị xé rách, Văn Phú kéo lại dây kéo quần.

“Vé ở đâu?” Huê Lan hỏi.

“Trong túi quần hắn”, ta nói. Sau đó ta nảy ra một ý. Ta chĩa súng vào Văn Phú, “Cởi quần ra đưa cho Huê Lan”.

Văn Phú trừng trừng nhìn ta. Ta bóp cò, nghĩ rằng chỉ bắn xuống sàn dọa hắn chơi. Nhưng khẩu súng giật tay ta lại, viên đạn sượt qua đầu Văn Phú cắm vào bức tường sau lưng hắn. “Mày có điên không?” cả hắn và Huê Lan cùng bật lên một lúc.

“Phải tao điên”, ta hét lên, “cởi quần ra!” Ta nẩy cò một lần nữa. Lần này viên đạn cắm xuống sàn. Hắn lóng ngóng cởi quần rồi ném cho Huê Lan, cô tìm thấy vé, giơ lên cho ta vẻ chiến thắng.

“Nào bây giờ ném quần ra ngoài cửa sổ”, ta bảo Huê Lan. Cô chỉ chần chừ một giây, có lẽ nghĩ rằng có thể ta cũng bắn cô bèn vội vã ném quần xuống đường.

“Còn mày đi mà tìm cái quần bẩn thỉu của mày”, ta bảo Văn Phú, hắn chạy ra khỏi cửa chửi bới đe dọa rằng ta sẽ không bao giờ thoát khỏi tay hắn. Ngay khi hắn đi khỏi Huê Lan phá ra cười. Helen thường nói về cái ngày này với ta cho đến khi ta bảo đừng nhắc nhở ta về điều đó nữa. Tại sao ta muốn nhớ cái ngày này? Tại sao ta lại phải nghe câu chuyện của dì ta về cái ngày này như thể nó là một chuyện tếu?

“Ồ”, dì ta vẫn nói, “nhớ Văn Phú cố ăn cắp vé máy bay của chị như thế nào không? Nhớ chị đã chĩa súng bắt hắn phải trả lại vé không? Nhưng súng bị cướp cò, một tai nạn! Hắn sợ vãi đái. Ôi tôi vẫn có thể nhìn thấy mặt hắn – hắn hầu như muốn nhảy ra cửa sổ với cái quần của hắn, sáng hôm sau chị đã ở trên máy bay, thật may mắn cho chị”. Điều đó đúng. Thật may mắn cho ta. Sáu ngày sau ta đã ở Mỹ với cha con. Năm ngày sau đó lá cờ cách mạng phất phới bay ở Thượng Hải. Không một chuyến bay hoặc một chuyến tàu nào được phép rời bến. Con thấy đấy những chiếc vé kia là vô dụng. Ta đã rời Thượng Hải ngay trước khi quá trễ. Ở Mỹ, ta gặp lại cha con, cả hai chúng ta đều thay đổi, nhưng tình yêu của chúng ta vẫn thế, tuy bây giờ anh còn tình yêu dành cho Chúa. Anh bao giờ cũng sẽ nói tiếng Anh còn ta thì không.

Đêm đến, anh ôm ta giống như anh đã làm ở Thượng Hải, “Đội ơn Chúa chúng ta sẽ không bao giờ xa cách nữa”. Tuy vậy ta vẫn thường khóc trong những giấc mơ. “Hắn tìm thấy em, hắn bắt em!” Cha con sẽ nói, “Cưng ơi, suỵt, đừng nghĩ về điều đó nữa bây giờ em đang ở Mỹ”.

Thế là ta không bao giờ bảo anh chuyện đó. Ta không bao giờ bảo bất cứ ai. Chín tháng sau, có thể là ít hơn một chút, ta sinh ra một đứa bé, ta có con trong đời.