CHƯƠNG HAI
“Ông nghĩ cháu sẽ ở phòng này, Jane ạ,” ông Merriman nói, mở cửa một phòng ngủ và cẩn thận cúi đầu chui vào. “Phòng nhỏ, nhưng cảnh nhìn từ cửa sổ rất đẹp.”
“Ôi!” Jane thích thú kêu lên.
Căn phòng sơn màu trắng, treo những tấm rèm cửa màu vàng rực vui mắt, và trên giường là một tấm chăn cũng màu vàng. Trần nhà dốc xuống nên một bên tường chỉ cao bằng nửa bên kia, và trong phòng chỉ vừa đủ chỗ đặt giường, bàn gương và một cái ghế. Nhưng căn phòng nhỏ dường như tràn ngập ánh nắng, mặc dù bầu trời bên ngoài vẫn xám xịt. Jane đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài, trong khi Ông Merry dẫn hai anh em trai đến phòng chúng, và em nghĩ rằng khung cảnh mình nhìn thấy từ cửa sổ chính là điều tuyệt hơn cả.
Em đang đứng trên cao phía bên này bến cảng, nhìn xuống những con thuyền và đê chắn sóng, cái cầu tàu chất đầy hộp lẫn giỏ bắt tôm hùm, và nhà máy đồ hộp nhỏ xíu. Mọi sinh hoạt của cái bến cảng bận rộn đang ồn ã dưới chân em, và xa xa mé bên trái, phía ngoài tường cảng và dải đất tối sẫm tên gọi Mũi Kemare, là mặt biển. Biển giờ đang xám xịt, lốm đốm những vệt trắng. Mắt Jane rời khỏi đường chân trời phẳng lì trên mặt biển, em nhìn thẳng qua con dốc ở phía đối diện bến cảng, và thấy ngôi nhà cao hẹp mà cả nhà đã nghỉ mùa hè năm ngoái. Ngôi nhà Xám. Tất cả đã bắt đầu ở đó.
Simon gõ gõ lên cửa và thò đầu vào. “Ê, phòng này có cảnh nhìn đẹp quá nhỉ. Phòng của anh với Barney chẳng có cảnh như thế này, nhưng cũng được phết, vừa dài vừa hẹp.”
“Như một cái quan tài ấy," Barney nói giọng ồm ồm đằng sau cánh cửa.
Jane cười khúc khích. “Vào đây đi, nhìn Ngôi nhà Xám ở kia kìa. Không biết liệu bọn mình có gặp được cái ông Thuyền Trưởng gì gì ấy, người đã cho Ông Merry thuê nhà không nhỉ?”
“Toms,” Barney nói. “Thuyền Trưởng Toms. Và em muốn gặp lại Rufus, mong là nó vẫn còn nhớ em. Chó có trí nhớ rất tốt mà, phải không?”
“Cứ thử bước qua ngưỡng cửa nhà Thuyền Trưởng Toms mà xem, mày sẽ biết liền” Simon nói. “Nếu Rufus cắn mày thì tức là chó không có trí nhớ tốt.”
“Vui đấy.”
“Cái gì thế nhỉ?” Jane đột nhiên nói. “Suyt!”
Ba đứa đứng yên trong sự tĩnh lặng vỡ bởi tiếng ôtô và tiếng chim mòng biển, cùng với tiếng biển rì rầm bao trùm lên tất cả. Rồi chúng nghe thấy một tiếng gõ khe khẽ.
“Nó phát ra từ phía tường bên kia! Cái gì thế nhỉ?”
“Có vẻ như có một nhịp điệu gì đó thì phải. Anh nghĩ là mã Moóc. Ai biết mã Moóc không?"
“Em không biết,” Jane nói. “Lẽ ra anh nên đi làm hướng đạo sinh mới phải.”
“Năm ngoái bọn em phải học mã Moóc ở trường” Barney ngập ngừng nói. “Nhưng em không... khoan đã. Đấy là chữ D... cái này thì không biết... E... ờ... W... Chữ này em nhớ. Đấy, lại gõ nữa kìa. Cái quái gì mà…”
“Drew,” Simon bất ngờ kêu lên. “Ai đó đang gõ chữ ‘Drew’. Gọi bọn mình.”
“Chính là thằng bé đó đấy,” Jane nói. “Ngôi này là hai căn nhà nhỏ liền với nhau, vì thế hẳn là nó có căn phòng y hệt như thế này ở phía bên kia tường”
“Stanton” Barney nói.
“Đúng rồi. Will Stanton. Gõ trả lời đi, Barney.”
“Không” Barney nói.
Jane trố mắt nhìn nó. Mái tóc bạch kim của nó đã rũ xuống một bên che mất mặt, nhưng em có thể thấy môi dưới của nó bĩu ra với cái vẻ ương bướng mà em biết rất rõ.
“Tại sao lại không chứ?”
“Bây giờ thì nó thôi gõ rồi,” Barney đáp lảng.
“Nhưng tỏ ra thân thiện thì có hại gì đâu.”
“Ờ. Không. Ờ. Em cũng chẳng biết nữa... đến là bực mình. Em không hiểu sao Ông Merry lại cho nó đi cùng. Làm sao mà chúng ta có thể tìm được cách giành lại chiếc chén Thánh khi có một thằng nhóc lạ mặt quẩn quanh chứ?”
“Có lẽ là Ông Merry không thể không cho nó theo,” Jane nói. Em xõa tóc và lôi từ trong túi ra một chiếc lược. “Ý chị là, bạn của ông là ông Stanton đã thuê ngôi nhà này, và Will là cháu ông Stanton. Chỉ có vậy thôi, phải không nào?”
“Bọn mình có thể thoát được nó dễ thôi,” Simon tự tin nói. “Hoặc là giữ không cho nó lại gần. Nó sẽ sớm nhận ra là bọn mình không muốn có nó, trông nó có vẻ khá là sáng dạ đấy.”
“Ờ, nhưng ít ra chúng mình cũng phải tỏ ra lịch sự,” Jane nói. “Bắt đầu từ bây giờ... chỉ vài phút nữa là đến giờ ăn tối rồi.”
“Tất nhiên,” Simon ôn tồn đáp. “Tất nhiên rồi.”
*“Thật là một nơi tuyệt vời,” Will nói, mặt ửng hồng vui thích. “Cháu có thể nhìn thẳng ra bến cảng từ cửa sổ phòng cháu. Ngôi nhà này là của ai ạ?”
“Một ngư dân tên là Penhallow,” ông bác đáp “Bạn của Ông Merry. Hẳn hai căn nhà đã thuộc về gia đình họ khá lâu rồi, căn cứ vào cái kia.” Ông đưa tay chỉ một tấm ảnh đã ố vàng bên trên lò sưởi, đóng trong một chiếc khung cầu kỳ, trong ảnh là một quý ông thời Victoria với chiếc cổ cồn cứng đơ và bộ comlê màu sẫm. “Ông nội của ông Penhallow đấy, người ta bảo bác thế. Nhưng tất nhiên là hai căn nhà đã được tân trang. Có thể thuê riêng từng căn, hoặc là thuê cả hai... hai bác đã thuê cả hai khi Merry quyết định mời bọn trẻ nhà Drew đến. Cả hai nhà sẽ cùng ăn với nhau ở đây.”
Ông đưa tay khoát một vòng quanh căn phòng vui tươi với những giá sách, ghế bành và đèn bàn, cái mới cái cũ, với một cái bàn lớn và tám chiếc ghế có lưng tựa cao sang trọng
“Bác biết ông Lyon đã lâu chưa ạ?” Will tò mò hỏi.
“Khoảng một hai năm gì đó,” ông Bill Stanton nói, vươn vai trong chiếc ghế tựa ông đang ngồi, những viên đá kêu lanh canh trong chiếc cốc ông cầm trong tay. “Mình gặp ông ấy ở Jamaica, phải không, Fran? Hai bác đang đi nghỉ…bác chưa bao giờ tìm ra được là hồi đó Ông Merry cũng đang đi nghỉ hay là có công chuyện gì.”
“Có công chuyện” vợ ông nói, bà đang bận rộn sắp bát đĩa lên bàn. Bà là một phụ nữ điềm tĩnh và trắng trẻo, cao ráo và chậm chạp: hoàn toàn không giống như những gì Will vẫn tưởng tượng về một người Mỹ. “Ông ấy đi khảo sát cái gì đó cho chính phủ. Ông ấy là giáo sư ở Đại học Oxford,” bà nói với Will vẻ kính nể. “Một người rất, rất thông minh. Và cũng rất dễ mến... ông ấy đã đến tận Ohio để ở với hai bác mấy ngày vào dịp thu vừa rồi, nhân dịp đến giảng bài ở Yale.”
“À,” Will tư lự nói. Cậu không kịp hỏi gì thêm vì có tiếng động lớn đột ngột phát ra từ bức tường bên cạnh cậu. Một cánh cửa gỗ lớn mở ra, suýt nữa thì va vào lưng cậu, và ở khung cửa là Merriman, đang đóng lại cánh cửa y hệt thế bên ngoài nó.
“Đây là nơi hai căn nhà nối với nhau,” Merriman nói, nhìn xuống vẻ mặt kinh ngạc của Will và hơi mỉm cười. “Khi hai căn nhà được thuê riêng thì họ sẽ khóa cả hai cửa.”
“Sắp có bữa tối rồi,” Fran Stanton nói với chất giọng kéo dài dịu dàng của bà. Bà vừa dứt lời thì một phụ nữ nhỏ bé phốp pháp có búi tóc bạc đi vào phòng sau lưng bà, bưng theo một cái khay lách cách những chén và đĩa.
“Xin chào Giáo Sư,” người phụ nữ nhỏ bé nói, mỉm cười với Merriman. Will thấy mến khuôn mặt bà ngay tức thì: mọi đường nét trên đó dường như đều được tạo ra bởi nụ cười.
“Xin chào, bà Penhallow.”
“Will,” bác của cậu bảo, “đây là bà Penhallow. Bà ấy và ông nhà là chủ hai căn nhà này. Đây là cháu tôi, Will.”
Bà cười với cậu và đặt chiếc khay xuống “Mừng cháu đã đến Trewissick, cưng à. Hai bác sẽ đảm bảo cho cháu có một kỳ nghỉ ní thú, cùng với ba đứa quỷ con kia.”
“Cảm ơn bác ạ,” Will nói.
Cánh cửa ngăn cách bật mở, và ba đứa trẻ nhà Drew đi vào.
“Bác Penhallow! Bác có khoẻ không ạ?”
“Bác có thấy con Rufus ở quanh đây không ạ?”
“Lần này bác trai sẽ đưa chúng cháu đi câu cá chứ ạ?”
“Cái bà Palk kinh khủng ấy có còn đây không ạ? Cả thằng cháu của bà ta nữa?”
“Chiếc thuyền Thạch Nam Trắng thế nào rồi ạ?”
“Từ từ, từ từ thôi,” bà cười nói.
“Thôi được,” Barney nói. “Bác trai thế nào ạ"
“Ông ấy vưỡn khỏe. Giờ thì nại đang trên thuyền rồi, tất nhiên. Các cháu ngồi đây chờ một nát trong khi bác đi sửa soạn bữa tối.” Bà hối hả đi ra
“Bác thấy ba đứa các cháu có vẻ biết rõ nơi này nhỉ.” Bill Stanton nói, khuôn mặt tròn của ông đầy vẻ nghiêm nghị.
“Ồ, vâng." Barney tự hào đáp. “Ở đây ai cũng biết chúng cháu.”
“Chúng cháu sẽ phải đi gặp lại nhiều bạn cũ lắm” Simon nói hơi to quá, mắt liếc nhìn Will.
“Đúng, trước kia chúng đã đến đây rồi. Hè năm ngoái chúng đã ở đây hai tuần” Merriman nói. Barney cáu kỉnh nhìn ông. Khuôn mặt hằn đầy nếp nhăn của ông có vẻ hoàn toàn bình thản.
“Ba tuần chứ ạ,” Simon sửa lại.
“Thế à? Ông xin lỗi.”
“Được quay lại đây thật là tuyệt,” Jane nói một cách xã giao. “Cảm ơn hai bác đã cho phép chúng cháu đến cùng, bác Stanton.”
“Không có gì.” Bác của Will phẩy tay. “Mọi việc sẽ ổn thỏa cả... ba cháu và Will sẽ có một khoảng thời gian tuyệt vời, và để mấy người già các bác ở lại với nhau.”
Im lặng một thoáng. Rồi Jane vui vẻ nói, mà không nhìn hai anh em mình, “Vâng, đúng thế ạ.”.
Will hỏi Simon, “Tại sao nơi này lại có tên là Trewissick?"
“Ờ” Simon bị bất ngờ lúng túng nói, “tớ cũng chẳng biết nữa. Ông có biết không, ông Gumerry?”
“Cháu hãy tự tra tìm đi,” ông dửng dưng đáp lại. “Nghiên cứu sẽ làm trí nhớ thêm nhạy bén.”
Will rụt rè nói, “Đây là nơi người ta tổ chức nghi lễ Phù Thủy Xanh, phải không?”
Ba đứa trẻ nhà Drew trố mắt nhìn cậu. “Phù Thủy Xanh? Đó là cái gì?”
“Đúng vậy đây,” Merriman nói. Ông nhìn xuống chúng, khóe miệng hơi giật giật.
“Tớ đọc được trong một cuốn sách viết về Cornwall,” Will nói.
“À,” ông Bill Stanton lên tiếng. “Will là một nhà nhân loại học cơ đấy, bố nó bảo bác thế. Các cháu cẩn thận đấy. Nó biết rất nhiều về nghi lễ và các thứ tương tự”
Will có vẻ rất bối rối. “Chỉ là một nghi lễ mùa xuân thôi mà,” cậu nói. “Họ kết một hình người bằng lá và ném nó xuống biển. Đôi khi nó được gọi là Phù Thủy Xanh, đôi khi lại gọi là Cô Dâu của Vua Mark. Một phong tục cổ.”
“À phải rồi. Giống như lễ hội hóa trang chứ gì” Barney nói vẻ coi thường. “Vào mùa hè ấy.”
“Ờ, không, không hẳn.” Will xoa xoa tai và nói như muốn xin lỗi. “Ý mình là, lễ hội hóa trang Lammas ấy chủ yếu là để thu hút khách du lịch thôi, phải không?”
“Hừ!” Simon nói,
“Anh ấy nói phải đấy,” Barney nói. “Ở lễ hội năm ngoái có nhiều khách du lịch nhảy nhót trên phố hơn là dân địa phương nhiều. Trong đó có cả em nữa.” Nó nhìn Will vẻ đăm chiêu,
“Đây rồi!” bà Penhallow kêu lên, bước vào phòng với một khay thức ăn to gần bằng người bà.
“Hẳn bà Penhallow phải biết rõ về Phù Thủy Xanh,” bà Fran Stanton nói với chất giọng Mỹ nhẹ nhàng của mình. “Có phải không, bà Penhallow?”
Bà nói vậy chỉ vì muốn giữ cho không khí được thân mật, vì tình hình có vẻ đang trở nên hơi căng thẳng. Nhưng nó lại có tác dụng ngược lại. Người phụ nữ Cornwall nhỏ bé phốp pháp đặt mạnh cái khay xuống bàn, và nụ cười biến khỏi khuôn mặt bà.
“Tôi không muốn lói đến phù thủy gì hết,” bà nói, lịch sự nhưng dứt khoát, và lại bước ra.
“Ôi, trời ơi,” bà Fran chán nản kêu lên.
Ông chồng bà bật cười. “Mụ Yankee kia, quay về nhà đi,” ông nói.
(Yankee: Chỉ người Mỹ.)
*“Cái lễ Phù Thủy Xanh này thực ra là thế nào hở ông Gumerry?” sáng hôm sau Simon hỏi vậy.
“Will đã kể cho các cháu rồi đấy thôi.”
“Tất cả những gì nó biết là từ một quyển sách nào đấy.”
“Cháu e là anh chàng này sẽ gây phiền toái cho mà xem,” Barney nói vẻ khó chịu.
Merriman nghiêm khắc nhìn xuống nó “Đừng bao giờ coi thường ai cho đến khi cháu biết rõ người đó”
Barney thanh minh “Cháu chỉ định nói là…"
“Im đi, Barney,” Jane bảo.
“Lễ kết Phù Thủy Xanh,” Merriman nói “là một nghi lễ mùa xuân cổ xưa giờ vẫn còn được tổ chức ở đây, để đón chào mùa hè và cầu cho vụ mùa lẫn đánh bắt cá bội thu. Tình cờ là chỉ một hai ngày nữa thôi nghi lễ sẽ được tiến hành. Nếu tất cả các cháu đều tỏ ra thận trọng mềm mỏng hơn một chút thì có lẽ Jane sẽ được đi xem lễ đấy.”
“Jane ấy à?” Barney hỏi. “Chỉ mỗi mình chị Jane thôi ạ?”
“Lễ kết Phù Thủy Xanh là một nghi lễ kín của ngôi làng” Merriman nói. Jane thấy giọng ông như có vẻ căng thẳng, nhưng mặt ông gần sát mái nhà ở chỗ đầu cầu thang nhỏ hẹp đến nỗi khuất hẳn trong bóng tối “Thông thường thì không có người khách lạ nào được phép lại gần. Còn về dân địa phương thì cũng chỉ có phụ nữ là được phép có mặt mà thôi."
“Trời ạ!” Simon công phẫn kêu lên.
Jane nói, “Nhưng chúng ta phải làm cái gì đó về chuyện chiếc chén Thánh chứ, ông Gumerry? Ý cháu là, đó là lý do chúng ta đến đây kia mà. Và chúng ta cũng không có nhiều thời gian”
“Hãy kiên nhẫn,” Merriman nói. “Ở Trewissick này, như các cháu còn nhớ đấy, ta không bao giờ phải đi tìm kiếm chuyện gì cả. Mọi chuyện thường sẽ tự xảy ra thôi.”
“Nếu vậy thì,” Barney nói, “cháu sẽ đi dạo một lát" Nó kín đáo ôm một tập sách mỏng vào sát người, nhưng từ trên cao tựa một ngọn hải đăng, ông Merry của nó đã nhìn thấy.
“Cháu đi vẽ à?” ông hỏi.
“Vâng ạ,” Barney miễn cưỡng đáp. Mẹ của chúng là một họa sĩ. Barney vốn luôn tỏ ra kinh hoàng khi có ai nhận định nó cũng có cái tài ấy, nhưng trong vòng mười hai tháng vừa qua nó đã bối rối nhận thấy niềm say mê hội họa đang bắt đầu lén tiến đến xâm chiếm nó.
“Cháu thử vẽ cái nhà này từ phía bên kia xem sao” Merriman bảo. “Và vẽ cả những con thuyền nữa.”
“Vâng. Nhưng tại sao ạ?”
“Ồ, ông cũng không biết,” ông lơ đễnh đáp. “Có thể sẽ có ích. Một món quà cho ai đó. Thậm chí có khi là cho ông cũng chưa biết chừng.”
*Khi vượt qua cầu cảng, Barney đi ngang qua một người đàn ông đang ngồi bên giá vẽ. Đó là một cảnh khá phổ biến ở Trewissick, giống như vô số các ngôi làng đẹp khác ở Cornwall, rất hay được các hoạ sĩ nghiệp dư lui tới. Người họa sĩ này có mớ tóc dày sẫm màu rối bù, và dáng người to ngang, vạm vỡ. Barney dừng lại và nhìn trộm qua vai ông ta. Nó chớp chớp mắt kinh ngạc. Trên giá vẽ là một bức tranh trừu tượng man rợ với những màu tươi nguyên sắc, trông chẳng có gì giống với cảnh bến cảng trước mặt họ; một bức tranh đáng ngạc nhiên, nếu đem ra so sánh với những bức vẽ màu nước nhợt nhạt, thô sơ mà mười chín trong số hai mươi họa sĩ ở bến cảng Trewissick thường cho ra đời. Người đàn ông nọ mài miệt vẽ như bị loạn óc. Ông ta nói, mà không ngừng tay hay quay lại, “Đi đi.”
Barney nấn ná lại một lát. Bức tranh quả thực là mạnh mẽ, một sức mạnh kỳ quái khiến nó bỗng dưng thấy sờ sợ.
“Đi đi,” người đàn ông kia nói to hơn.
“Cháu đi đây,” Barney nói, lui lại một bước “Nhưng sao ở chỗ góc trên kia lại là màu xanh lá cây? Sao không phải là xanh da trời? Hay là một sắc xanh lá cây đẹp hơn?”
Nó thấy khó chịu trước cái đường dích dắc khủng khiếp tạo ra bởi một sắc độ hết sưc kinh khủng, một sắc xanh vàng ệch như mù tạt, hút hết sự chú ý của người xem khỏi phần còn lại của bức tranh. Người đàn ông bắt đầu càu nhàu như một con chó gầm gừ, và đôi vai rộng của ông ta cứng lại. Barney vội bỏ chạy. Nó tự nhủ một cách bướng bỉnh, “Nhưng cái màu đó chẳng hợp lý tẹo nào.”.
Sang đến phía bên kia bến cảng, nó ngồi lên một bức tường thấp, phiến đá dốc đứng của mũi đất ở sau lưng. Ở đây không còn thấy ông họa sĩ cáu bẳn nọ nữa, ông ta đã khuất sau hàng đống thùng cá quen thuộc của cầu cảng. Barney chuốt nhọn chiếc bút chì bằng con dao gấp của mình và bắt đầu vẽ. Bức ký họa một chiếc thuyền đánh cá đơn độc không được như ý muốn, nhưng đường nét của toàn bộ bến cảng được phác thảo khá ổn, và Barney liền chuyển từ bút chì sang chiếc bút mực ngòi mềm kiểu cũ mà nó đặc biệt ưa thích. Sau đó nó bắt đầu vẽ rất nhanh, hài lòng với bức tranh, mê mải với từng chi tiết nhỏ, nhận thức được... cái nhận thức hãy còn mới mẻ, mới có từ mùa xuân này... rằng một điều gì đó trong bản thân mình đang được truyền qua những ngón tay. Tựa như một phép màu. Ngẩng đầu lên lấy hơi, nó dừng lại, và giơ bức tranh ra xa ngắm nghía.
Và, không một tiếng động, một bàn tay to tướng xỏ trong ống tay áo đen thò ra từ một bên và giật lấy tập giấy ký hoạ. Barney chưa kịp quay đầu lại thì đã nghe thấy tiếng giấy bị xé đánh xoạc một cái. Rồi tập giấy bị ném trở lại xuống dưới chân nó, lăn qua lăn lại trên mặt đất. Có tiếng chân chạy. Barney nhảy bật dậy, kêu lên phẫn nộ, và nhìn thấy một người đàn ông đang chạy dọc dải đất rìa bến cảng, bức tranh xé từ tập giấy trắng nổi bật trên bộ quần áo đen của hắn. Đó chính là gã hoạ sĩ tóc dài cáu bẳn mà nó đã nhìn thấy lúc nãy.
“Này!” Barney giận dữ hét lên “Quay lại đây”
Không hề liếc nhìn lại, gã đàn ông chạy vòng qua khúc quanh ở cuối bức tường cảng. Hắn đã chạy trước được một quãng xa, và đường ở bến cả lại lên dốc. Barney lao đến chỉ vừa kịp nghe thấy tiếng một chiếc ôtô rồ máy phóng đi. Nó quay ngoắt lại phía con đường, và đâm sầm vào một người đang đi lên dốc.
“Hự!” người lạ mặt hức lên một tiếng khi bị xô phải. Rồi người đó lấy lại hơi. “Barney!”
Đó chính là Will Stanton.
“Một gã đàn ông” Barney thở hổn hển, đưa mắt nhìn xung quanh. “Một gã mặc áo len đen.”
“Có một người đàn ông chạy lên khỏi bến cảng ngay trước em” Will nhíu mày nói. “Ông ta nhảy lên một chiếc xe và lái đi theo hướng đó.” Cậu chỉ về phía ngôi làng.
“Chính là hắn đấy," Barney nói. Nó bực bội nhìn chằm chằm theo con đường trống trơn
Will cũng nhìn theo, tay vặn vẹo cái khoá kéo ở áo khoác. Cậu nói với vẻ mạnh mẽ không ngờ " Mình ngu quá, ngu quá, mình biết là thể nào có chuyện…chỉ không tỉnh táo, đang mải nghĩ đến…” Cậu lắc đầu như muốn hất một cái gì ra. “Hắn đã làm gì?”
“Hắn như dở người ấy. Điên khùng.” Barney gần như không còn nói nổi nữa vì tức giận. “Em đang ngồi vẽ dưới kia, thì bỗng dưng hắn từ đâu xuất hiện, xé bức tranh ra khỏi tập giấy vẽ của em và bỏ chạy. Người bình thường thì ai làm thế làm gì?”
“Em có biết hắn không?”
“Không. Ờ, thật ra là em có nhìn thấy hắn, nhưng mới chỉ hôm nay thôi. Hắn ngồi vẽ dưới bến cảng với một cái giá vẽ.”.
Will toét miệng cười. Một nụ cười thật ngớ ngẩn, Barney nghĩ. “Nghe thì có vẻ như hắn cho là bức tranh của em đẹp hơn tranh của hắn.”
“Ồ, thôi đi,” Barney sốt ruột nói.
“Ờ, thế tranh của hắn trông ra sao?”
“Rất lạ. Trông kỳ quái lắm.”
“Đấy, thấy chưa.”
“Thấy cái quái gì. Nó rất kỳ lạ, nhưng cũng đẹp, đẹp theo kiểu bệnh hoạn ấy.”
“Trời ơi,” Will nói, mặt bỗng đờ ra. Barney quắc mắt nhìn vào khuôn mặt tròn với mái tóc nâu dày của cậu, và càng thấy bực mình hơn bao giờ hết. Nó bắt đầu nghĩ cách chuồn đi.
“Hắn có một con chó trong xe,” Will lơ đãng nói.
“Một con chó ấy à?”
“Sủa như điên. Em không nghe thấy à? Nó nhảy loạn lên nữa. Suýt nữa thì nó đã nhảy ra khỏi xe khi hắn ta trèo lên. Mong là nó không nhai mất bức tranh của em.”
“Em nghĩ là nó sẽ nhai thôi,” Barney lạnh lùng nói.
“Một con chó rất đẹp,” Will nói tiếp, vẫn với cái giọng lơ đễnh, mơ màng như vậy. “Giống chó săn lông xù của Ireland, lông đỏ rực. Người tử tế chẳng ai lại nhốt một con chó như thế trong xe cả.”
Barney đứng sững như trời trồng, nhìn cậu. Ở Trewissick chỉ có một con chó duy nhất như vậy. Đột nhiên nó nhận ra rằng ngay phía bên kia đường là ngôi nhà cao màu xám quen thuộc. Cùng lúc đó, cánh cổng bên ngách ngôi nhà bật mở, và một người đàn ông bước ra: một ông già to khoẻ, có bộ râu xám ngắn, đang tựa vào một cây gậy. Ông đứng trên đường, thọc hai ngón tay vào miệng và huýt lên một tiếng hai nốt sắc gọn. Rồi ông gọi, “Rufus? Rufus?”
Barney vội vã chạy ngay về phía ông. “Thuyền Trưởng Toms? Ông là Thuyền Trưởng Toms phải không ạ? Ông ơi, cháu có biết Rufus, cháu đã giúp trông nó hè năm ngoái, và cháu nghĩ là có người đã bắt mất nó rồi. Một gã đàn ông đã nhốt nó trong xe ôtô và lái đi, một gã đàn ông tóc dài mặc đồ đen, hắn đáng sợ lắm.” Nó ngừng lại. “Tất nhiên, nếu đó là người quen của ông thì...”
Ông già có chòm râu xám chăm chú nhìn Barney. “Không” ông nói, chậm rãi, thận trọng. “Ta không quen người nào như thế. Nhưng có vẻ như cháu biết Rufus thật. Và căn cứ vào mái tóc cháu thì ta đoán cháu là cậu cháu út của Merriman. Một người thuê nhà của ta, hè năm ngoái, đúng không? Đám trẻ con tinh mắt ấy.”
“Đúng thế ạ.” Barney mỉm cười. “Cháu là Barnabas. Barney.” Nhưng có một điều gì trong thái độ của Thuyền Trưởng Toms khiến nó bối rối: dường như cùng lúc đó ông cũng đang trò chuyện với ai khác nữa. Ông già thậm chí còn không nhìn nó, ông như đang nhìn trân trân vào mặt nước, vô cảm, chẳng nhìn cụ thể vào cái gì, chìm đắm trong những suy nghĩ của riêng mình.
Barney đột nhiên nhớ tới Will. Nó quay lại... và kinh ngạc khi thấy Will cũng đang đứng gần nó, đờ đẫn nhìn chẳng vào cái gì cả, mặt vô cảm, như đang lắng nghe. Mọi người làm sao thế nhỉ? “Đây là Will Stanton ạ” nó nói thật to với Thuyền Trưởng Toms.
Khuôn mặt có bộ râu xám không hề thay đổi thái độ. “Phải,” Thuyền Trưởng Toms khẽ nói. Rồi ông lắc đầu, có vẻ như vừa tỉnh dậy. “Cháu nói đó là một người mặc đồ đen à?”.
“Hắn ta là một họa sĩ ạ. Rất xấu tính, cháu chẳng biết hắn là ai nữa. Nhưng Will đã nhìn thấy hắn lái xe đi với một con chó có vẻ y hệt Rufus... và lại ngay trước cửa nhà ông...”
“Ta sẽ đi dò hỏi xem sao” Thuyền Trưởng Toms an ủi nó. “Nhưng vào đây, vào đây, cả hai cháu. Cháu hãy dẫn bạn đi xem Ngôi nhà Xám đi, Barnabas. Ta phải tìm chìa khoá... lúc nãy ta đang bận làm vườn...” Ông lần mò trong túi, vỗ vỗ một cách vô ích lên chiếc áo khoác bằng cánh tay không cầm gậy. Rồi họ đi đến cửa trước.
“Cửa mở rồi!” Will nói sắc gọn. Giọng cậu rất dứt khoát, khác hẳn với những lời lắp bắp không ra đầu đuôi gì của cậu ban nãy, và Barney chớp chớp mắt kinh ngạc.
Thuyền Trưởng Toms dùng cây gậy đẩy cánh cửa khép hờ ra, và khó nhọc bước vào. “Đây là cách tên đó đưa được Rufus ra ngoài. Mở cửa trước trong khi ta đang ở phía sau... Ta vẫn không tìm thấy chiếc chìa khóa đó.” Ông lại bắt đầu lần mò trong túi.
Đi theo ông, Barney thấy có cái gì sột soạt dưới chân, nó cúi xuống và nhặt lên một tờ giấy trắng “Ông quên không lấy...” Nó bỗng im bặt. Trên mẩu giấy có mấy dòng ngắn ngủn, viết bằng chữ to. Chỉ liếc qua một cái là nó đã đọc được hết. Nó chìa tờ giấy ra cho ông thuyền trưởng, nhưng chính Will, cái cậu Will lanh lợi kỳ lạ này, lại cầm lấy và đứng nhìn chằm chằm vào tờ giấy cùng với ông già, hai cái đầu gần sát nhau, một trẻ một già, một tóc nâu một tóc bạc.
Bức thư được ghép bằng chữ in to cắt từ báo và dán rất cẩn thận lên tờ giấy.
Thư viết, “NẾU MUỐN CON CHÓ CỦA MI CÒN SỐNG QUAY VỀ, THÌ HÃY TRÁNH XA PHÙ THỦY XANH”