CHƯƠNG BA
Dưới bầu trời buổi hoàng hôn, mặt biển phẳng lặng như gương. Từng đợt sóng dài chậm rãi kéo đến từ Đại Tây Dương, cuồn cuộn như những bắp cơ dưới da, dấu hiệu duy nhất chứng tỏ sức mạnh vĩ đại vô hình của đại dương đang ẩn giấu trong một đêm yên bình. Đoàn thuyền đánh cá lặng lẽ ra khơi, kéo theo sau những vệt sóng xòe rộng như đuôi cá; tiếng động cơ nổ đều đều xuyên qua bầu không khí tĩnh lặng. Jane đứng ở cuối Mũi Kemare, trên đỉnh một khối đá granít đổ xuống biển thành dốc đứng cao hơn sáu mươi mét, và ngắm những con thuyền ra xa dần. Từ chỗ này, nom chúng tựa mấy chiếc thuyền đồ chơi: một đoàn thuyền đánh cá bao nhiêu năm ròng cứ hàng tuần, hàng tháng, hàng năm, lại ra khơi trước khi trời tối để tìm cá mòi, cá thu, và săn đuổi chúng cho đến tận lúc bình minh. Mỗi năm số thuyền một ít đi, nhưng mỗi năm đoàn thuyền vẫn đều đặn rời bến.
Mặt trời dần khuất sau đường chân trời, quả cầu lớn rực rỡ tỏa ánh sáng vàng khắp cả mặt biển êm ả, và con thuyền cuối cùng cũng đã rời khỏi bến cảng Trewissick, tiếng động cơ nổ như tiếng tim đập nghèn nghẹt trong tai Jane. Khi vệt sóng cuối cùng tỏa ra và đập vào tường cảng thì mặt trời cũng vội vã hạ xuống bên dưới đường chân trời, và ánh tà dương tháng Tư bắt đầu tắt dần chậm rãi. Một cơn gió nhẹ nổi lên. Jane rùng mình, và kéo chiếc áo khoác vào sát mình hơn; bầu không khí đang tối lại bỗng trở nên se lạnh.
Như để đáp lại cơn gió đó, một tia sáng đột ngột lóe lên ở phía bên kia Vịnh Trewissick, trên mũi đất đối diện với Mũi Kemare. Cùng lúc đó một hơi ấm bất ngờ phả vào lưng Jane. Em quay ngoắt lại, và thấy mấy dáng người tối sẫm nổi lên trên nền ngọn lửa bốc cao, nơi người ta vừa đốt một đống củi rều và cành khô chất cao đã nằm chờ đêm nay trở thành lửa mừng. Bà Penhallow đã bảo với em rằng hai đống lửa hiệu này sẽ cháy cho đến khi đoàn thuyền đánh cá quay về, những ngọn lửa bốc lên suốt đêm đến khi trời rạng sáng.
Bà Penhallow: giờ lại có một bí ẩn nữa. Jane nhớ - lúc chiều hôm đó khi em đang ngồi một mình trong phòng khách, lật lật một quyển tạp chí, đợi Simon. Em đã nghe thấy tiếng hắng giọng lo lắng, và ở ngưỡng cửa bếp là bà Penhallow, tròn trịa, hồng ào, và có vẻ bồn chồn khác hẳn thường lệ.
“Lếu cháu muốn đi xem nễ kết tối lay, cưng à, thì cứ việc,” bỗng nhiên bà nói.
Jane chớp mắt nhìn bà. “Lễ kết ấy ạ?”
“Nễ kết Phù Thủy Xanh.” Cái chất giọng Cornwall luyến láy của bà Penhallow dường như càng rõ hơn bình thường. “Phải mất cả đêm cơ, nghi nễ ấy dài nắm, và thường thường thì người nạ không được nại gần đâu. Nhưng nếu cháu thấy thích thì...dù sao thì cháu cũng nà cô bé duy nhất gần gũi với ông Giáo Sư...” Bà khẽ phẩy tay như để tìm từ “Các bà ấy đều đã bằng nòng rồi, và bác sẽ rất vui được đưa cháu đi.”
“Cảm ơn bác,” Jane nói, bối rối nhưng hài lòng. “À mà... bác Stanton đi cùng được không ạ?”
“Không” bà Penhallow đáp lại dứt khoát Bà nói thêm, giọng nhẹ nhàng hơn, khi thấy lông mày Jane nhướn lên, “Bà ấy nà người lước ngoài, cháu hiểu không. Dư thế không thích hợp.”
Đứng trên đỉnh mũi đất, mắt nhìn vào đống lửa, Jane nhớ lại sự dứt khoát thẳng thừng trong những lời ấy. Em đã chấp nhận lời tuyên bố đó, và sau khi ăn tối xong đã đi ra mũi đất với bà Penhallow mà thậm chí không giải thích gì với bà Fran Stanton.
Thế nhưng vẫn chẳng ai cho em biết chuyện gì sẽ xảy ra cả. Chẳng ai cho em biết cái vật gọi là Phù Thủy Xanh sẽ trông như thế nào, hay nó sẽ được kết nên ra sao, hay người ta sẽ làm gì với nó. Em chỉ biết rằng nghi lễ sẽ mất cả đêm, và kết thúc khi các ngư dân trở về nhà. Jane lại rùng mình. Đêm đang buông xuống, và em không ưa buổi đêm ở Cornwall chút nào; chúng chứa đựng quá nhiều điều bí ẩn.
Những bóng đen lướt qua các tảng đá xung quanh em, nhảy nhót và biến mất trong khi các ngọn lửa bập bùng cháy. Theo bản năng tìm kiếm bầu bạn, Jane đi đến gần quầng sáng xung quanh đống lửa; thế nhưng chỗ này cũng chẳng kém phần đáng sợ; bởi vì giờ đây những hình thù nọ lại thò ra thụt vào ở rìa bóng tối, ngoài tầm mắt, và em đột nhiên cảm thấy thật yếu đuối. Em chần chừ đứng lại, sợ hãi vì sự căng thẳng trong bầu không khí.
“Nại đây, cháu” giọng nói dịu dàng của bà Penhallow vang lên bên cạnh em. “Nại đây.” Có một thoáng thúc bách trong giọng bà. Bà vội vã túm lấy cánh tay Jane và kéo em sang một bên. “Đến núc nàm nễ kết rồi,” bà nói. “Cháu phải tránh xa ra đấy nhớ."
Và rồi bà lại biến đi, để lại Jane một mình gần một nhóm phụ nữ đang bận bịu với cái gì đó chưa thành hình. Jane tìm thấy một tảng đá và ngồi xuống; em ngắm nhìn họ trong hơi ấm của đống lửa. Ở đó có rất nhiều phụ nữ, đủ mọi lứa tuổi: các cô gái trẻ mặc quần bò và áo len, những người khác thì mặc váy màu sẫm dài như áo măng tô, và đi những đôi ủng cao nặng nề. Jane có thể nhìn thấy một đống đá lớn, mỗi tảng to bằng đầu người, và một đống cành cây xanh còn cao hơn thế - em đoán là cành táo gai – còn nguyên lá nên chắc hẳn không phải dùng để đốt lửa. Nhưng em không hiểu hai thứ này dùng để làm gì.
Rồi một người phụ nữ cao lớn đứng lên phía trước những người còn lại, giơ cao một tay lên. Bà gọi tên một thứ gì đó mà Jane không hiểu nổi, và ngay lập tức những người phụ nữ kia bắt đầu vào việc, chia thành từng nhóm nhỏ, trật tự một cách kỳ lạ. Một số người thì lấy một cành cây, bứt hết lá và nhánh con rồi bẻ thử xem có mềm dẻo không, một số người khác sau đó cầm lấy cành cây ấy, và bằng những động tác mau lẹ thuần thục, đan nó vào với các cành cây khác và dần dần tạo thành một thứ khung...
Một lát sau cái khung bắt đầu trở thành một cái ống khổng lồ. Họ bứt hết lá, uốn cong và đan đan kết kết một hồi lâu. Jane sốt ruột cựa quậy. Một số cành có lá khác với lá táo gai. Em không ngồi đủ gần để biết được chúng là loại lá gì, nhưng không có ý định chuyển chỗ. Em cảm thấy mình chỉ được an toàn khi ngồi đây, gần như vô hình trên tảng đá này, không bị ai nhận thấy, và ngắm nhìn từ một khoảng cách xa.
Đột nhiên em thấy đứng bên cạnh mình là người phụ nữ cao lớn có vẻ chỉ huy tất cả. Nhìn xuống em là cặp mắt sáng trên khuôn mặt gầy guộc, trùm trong chiếc khăn buộc lại dưới cằm. “Jane Drew phải không” người phụ nữ nói, với chất giọng Cornwall khó nghe lạ thường. “Một trong số mấy đứa trẻ đã tìm ra chiếc chén Thánh.”
Jane giật thót mình. Ý nghĩ về chiếc chén Thánh chưa bao giờ rời khỏi đầu em hẳn, nhưng em chưa từng liên hệ nó với cái nghi lễ kỳ lạ này. Nhưng người phụ nữ không nhắc đến nó nữa.
“Hãy để mắt đến Phù Thủy Xanh,” bà thân mật nói. Nghe như một lời chào vậy.
Bầu trời giờ đã gần như tối đen, chỉ còn lại một quầng sáng yếu ớt. Hai đống lửa cháy sáng rực trên hai mũi đất. Jane vội vã hỏi, không muốn để mất một người bạn trong bóng tối đơn độc, “Họ đang làm gì với những cành cây kia thế ạ?”.
“Cành dẻ để làm khung” người phụ nữ giải thích. “Cành thanh lương trà để làm đầu. Rồi thân mình thì làm bằng cành táo gai, và hoa táo gai. Bên trong có bỏ đá cho dễ chìm. Và những ai gặp chuyện đau khổ, hay không có con, hoặc những ai muốn ước điều gì, thì phải chạm vào Phù Thủy Xanh trước khi nó được ném xuống vách đá.”
“Ồ” Jane nói.
“Hãy để mắt đến Phù Thủy Xanh,” người phụ nữ dịu dàng nhắc lại, rồi bỏ đi. Bà ngoái đầu lại nói,
“Cháu cũng có thể ước một điều, nếu cháu muốn. Ta sẽ gọi cháu, khi đến lúc.”.
Jane ngồi lại đó, băn khoăn và lo lắng. Những người phụ nữ giờ có vẻ bận rộn hơn, làm việc không ngừng, ngâm nga một giai điệu lạ lùng nào đó; cái ống giờ đã nhìn rõ hình, được đan kết chặt hơn, và họ đem những tảng đá bỏ vào bên trong. Cái đầu cũng đã thành hình: một cái đầu khổng lồ, dài, vuông, không có mặt mũi. Khi bộ khung đã được làm xong, họ liền kết vào đó những cành lá xanh điểm hoa trắng. Jane ngửi thấy mùi hoa táo gai thơm sực, ngọt lịm. Không hiểu sao nó lại làm em nhớ đến biển.
*Hàng giờ đồng hồ trôi qua. Thỉnh thoảng Jane ngủ gà gật, cuộn tròn lại bên tảng đá, lần nào thức dậy em cũng thấy cái khung dường như vẫn y hệt như trước. Việc đan kết như kéo dài vô tận. Hai lần bà Penhallow đem trà nóng đựng trong một cái phích đến cho em. Bà lo lắng bảo,“Lếu cháu thấy đã xem đủ rồi thì cứ việc lói, cưng à. Đưa cháu về nhà cũng dễ thôi mà.”
“Không ạ” Jane đáp, nhìn về phía cái hình thù đầy lá xanh với những người phụ nữ vây quanh đang miệt mài làm việc. Em không thích Phù Thủy Xanh; nó làm em thấy sợ. Có cái gì đó như đe dọa trong hình thù to ngang bè bè của nó. Nhưng nó cũng như thôi miên em, em không sao rời mắt khỏi nó. Nó. Em vẫn luôn nghĩ phù thủy phải là phụ nữ, nhưng em không cảm thấy ở Phù Thủy Xanh có cái gì thuộc về phái nữ cả. Không thể xếp nó vào giới nào, cũng như một hòn đá hay một cái cây vậy.
Đống lửa vẫn đang cháy và được cẩn thận tiếp thêm củi, hơi ấm của nó thật dễ chịu trong màn đêm se lạnh. Jane đứng lên co duỗi đôi chân cứng đờ, và khi nhìn về phía đất liền, em thấy bầu trời bắt đầu nhạt đi thành màu xam xám. Trời sắp sáng rồi. Một buổi sáng mù sương: những giọt sương nhỏ xíu đã bắt đầu phả vào mặt em. Em có thể thấy nổi bật trên nền trời đang sáng dần là những cột đá dựng đứng của Trewissick, cả năm cột, tựa như những ngón tay cổ kính chỉ lên trời, nằm ở giữa Mũi Kemare. Em nghĩ thầm: Phù Thủy Xanh cũng giống thế. Nó làm mình nhớ đến những cột đá này.
Khi em lại quay về phía biển thì Phù Thủy Xanh đã được hoàn thành. Đám phụ nữ đã rời khỏi hình thù to lớn ấy; họ ngồi bên đống lửa, ăn bánh sandwich, cười nói và uống trà. Khi Jane ngắm cái hình thù khổng lồ mà họ đã kết nên bằng lá và cành cây, em không sao hiểu nổi vẻ vô tư lự của họ. Bởi vì em đột nhiên nhận ra, trong ánh bình minh lạnh lẽo, rằng không hiểu vì sao, cái hình thù câm lặng này lại chứa đựng trong nó nhiều quyền lực hơn bất kỳ sinh vật hay đồ vật nào mà em đã từng biết. Ở nó có cả sấm sét, bão tố và động đất, và mọi sức mạnh của mặt đất lẫn biển cả. Nó nằm ngoài Thời Gian, không hề bị ràng buộc, không có tuổi tác, ngoài mọi ranh giới giữa cái thiện và cái ác. Jane nhìn nó không chớp mắt, kinh hoàng, và từ cái đầu không có mắt của mình Phù Thủy Xanh nhìn lại em. Em biết là nó sẽ không chuyển động được, cũng không thể sống lại được. Nỗi kinh hoàng của em không phải do hoảng sợ, mà là do em bỗng nhiên cảm thấy ở hình thù ấy một nỗi cô đơn khủng khiếp, vô bờ bến. Quyền năng vô tận chỉ có được nhờ sự cô lập vô tận. Khi ngắm nhìn Phù Thủy Xanh, em cảm thấy kính sợ ghê gớm, và cả một thoáng thương hại nữa.
Nhưng nỗi kính sợ, nảy sinh từ sự kinh ngạc của em trước một quyền năng không thể tưởng tượng nổi như thế, vẫn mạnh mẽ hơn bất kỳ cái gì khác.
“Vậy là cháu đã cảm thấy nó rồi.” Người chỉ huy nhóm phụ nữ lại đang đứng cạnh em; những lời nặng nề, không hề lên cao ở cuối câu mà bà vừa thốt ra không phải là một câu hỏi. “Chỉ rất ít phụ nữ cảm thấy được nó. Hay là các cô gái cũng vậy. Rất ít. Chẳng có ai trong số đó cảm thấy gì, chẳng một ai cả.” Bà ra hiệu về phía nhóm phụ nữ vui vẻ đang ngồi đằng xa, vẻ coi thường. “Nhưng người đã từng cầm chiếc chén Thánh trong tay có thể cảm thấy được rất nhiều điều... Lại đây. Cháu hãy ước một điều đi."
“Ôi không ạ.” Jane vội lùi lại ngay theo bản năng.
Cùng lúc đó một nhóm bốn cô gái rời khỏi đám đông và chạy tới bên cái hình người kết bằng lá to lớn, tối sẫm. Họ đang cười khúc khích đến rung cả người, cô nọ gọi cô kia; một cô, to cao hơn và ồn ào hơn ba cô còn lại, chạy tới ôm chặt lấy cái thân hình bằng cành táo gai vươn cao bên trên đầu cô ta.
“Hãy ban cho chúng tôi những người chồng giàu có, hỡi Phù Thủy Xanh, chúng tôi cầu xin người!” cô ta kêu lên.
“Nếu không thì ban cho chị ta anh chàng Jim Tregoney ấy!” một cô khác hét. Họ cùng cười rú lên và quay trở lại chỗ những người khác.
“Đó!” người phụ nữ nói. “Kẻ xuẩn ngốc còn không bị làm hại, mà phần lớn bọn họ đều như thế cả. Và vì thế người hiểu biết cũng chẳng sao đâu. Cháu lại đây đi.”
Bà bước đến bên cái hình thù to lớn lặng câm, đặt một tay lên nó và nói điều gì đó mà Jane không nghe thấy được.
Một cách sợ sệt, Jane đi theo bà. Khi lại gần Phù Thủy Xanh, em lại cảm thấy sức mạnh phi thường của nó, nhưng cũng cảm thấy cả nỗi cô đơn vô cùng nữa. Nỗi u uẩn dường như lơ lửng trên nó như một màn sương. Em đưa tay ra nắm lấy một cành táo gai, rồi ngưng lại. “Ôi,” em thốt lên, “tôi ước gì người được hạnh phúc.”
Vừa nói em vừa nghĩ: thật là trẻ con biết bao, khi mà mày có thể ước bất kỳ điều gì, thậm chí là ước lấy lại được chén Thánh, cho dù tất cả là vớ vẩn đi chăng nữa thì ít ra mày cũng có thể thử…Nhưng người phụ nữ Cornwall có cặp nghiêm nghị lại đang nhìn em với một vẻ tán đồng pha lẫn ngạc nhiên kỳ dị.
“Một điều ước nguy hiểm!” bà nói. “Bởi vì trong khi người này có thể tìm thấy hạnh phúc trong những điều vô hại, kẻ khác lại chỉ thấy được niềm vui bằng cách gây tổn thương. Nhưng cũng có thể nó sẽ đem đến những điều tốt lành.”
Jane không nghĩ ra được câu gì để đáp lại cả. Bỗng nhiên em cảm thấy hết sức ngớ ngẩn.
Thế rồi em tưởng như vừa nghe thấy một tiếng ì ầm ở phía ngoài biển; em liền quay lại. Người phụ nữ cũng nhìn ra khơi, nơi một dải chân trời xám vừa mới hiện ra. Trên mặt biển tối sẫm lấp lánh ánh đèn, trắng, đỏ và xanh. Những ngư dân đầu tiên đang trở về nhà.
Sau này, Jane không nhớ mấy về quãng gian chờ đợi dài dằng dặc ấy. Trời rất lạnh. Chậm, thật chậm, những chiếc thuyền đánh cá tiến lại gần hơn trên mặt biển màu đá xám đang lấp lánh trong ánh bình minh lạnh lẽo. Thế rồi, khi cuối cùng chúng cũng đến gần cầu tàu thì ngôi làng mới như bừng tỉnh giấc. Đèn sáng lóe và những giọng nói vang lên trên đê chắn sóng, động cơ tàu nổ bình bịch; tiếng hò hét, tiếng cười và tiếng dỡ cá hối hả làm náo động cả không gian. Trên trời tất cả lũ mòng biển chao liệng và rít lên, chúng cũng dậy sớm mong kiếm chác được chút gì đó, lượn vòng thành một đám mây lớn trắng xóa quanh đoàn thuyền, sẵn sàng lao xuống tìm những con cá bị vứt bỏ. Sau này, Jane chỉ nhớ rõ nhất là những con mòng biển.
Từ bến cảng đi lên, khi cá đã được dỡ khỏi thuyền, xe tải đã lên đường ra chợ và thùng được chuyển vào nhà máy đồ hộp nhỏ... khi ấy từ bến cảng đi lên là một đoàn ngư dân. Cũng có cả những người khác nữa, công nhân nhà máy, thợ cơ khí, chủ cửa hàng và nông dân, tất cả cánh đàn ông của Trewissick, nhưng dẫn đầu đoàn người dài ấy là những ngư dân mặc áo len màu sẫm mắt thâm quầng, cằm tua tủa râu chưa cạo, những ngư dân mệt mỏi đầy mùi cá. Họ đi lên mũi đất, vui vẻ cất tiếng gọi đám phụ nữ. Không cuộc gặp gỡ nào có thể kém lãng mạn hơn thế, Jane nghĩ, trên đỉnh mũi đất này, trong cái lạnh sau cả đêm không ngủ, dưới ánh sáng xám xịt nhợt nhạt của buổi bình minh. Nhưng tất cả bọn họ đều hết sức thoải mái.
Đống lửa vẫn còn cháy, lớp củi cuối cùng vừa mới bắt lửa bùng lên. Đám đàn ông quay lại quanh đó, xoa tay vào nhau cho ấm, những giọng nói trầm trầm của họ vang lên trong tai Jane thật ồn ào và khó nghe so với tiếng trò chuyện nhẹ nhàng hơn của cánh phụ nữ mà em đã nghe suốt đêm qua.
Trên trời đám mòng biển bay con cao con thấp, băn khoăn, khấp khởi hy vọng. Giữa sự huyên náo ấy là Phù Thuỷ Xanh, to lớn và câm lặng, bị ánh sáng và tiếng ồn thu nhỏ lại một chút nhưng vẫn đầy đe doạ và đáng sợ. Bất chấp những lời bông đùa qua lại đám đàn ông và phụ nữ, tất cả đều tỏ ra kính trọng cái hình thù đầy lá kỳ quái ấy một cách lạ lùng: rõ ràng là không ai muốn coi thường Phù Thủy Xanh cả. Vì một lý do gì đó, điều này khiến Jane cảm thấy nhẹ nhõm hơn.
Em trông thấy dáng người cao lớn của ông Merriman ở rìa đám đông người Cornwall, nhưng không tìm cách lại gần ông. Đây là lúc để ngồi chờ xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp. Cánh đàn ông hình như đã gom lại thành một nhóm, và đám phụ nữ rời ra xa. Đột nhiên bà Penhallow lại ở bên cạnh Jane.
“Nại đây, cưng, để bác chỉ cho chỗ đứng. Lày nhé, khi mặt trời nên, đám đàn ông sẽ lém Phù Thủy Xanh qua vách đá xuống biển.” Bà mỉm cười với Jane, nửa nghiêm túc, nửa như ngượng ngùng muốn nói lời xin lỗi. “Để cho may mắn ý mà, và để cầu một vụ đánh bắt và một vụ mùa bội thu lữa. Người ta bảo vậy... Dưng bác cháu ta phải đứng cho xa ra, để tránh đường các ông ấy chạy.” Bà vẫy tay ra hiệu, và Jane đi theo bà rời khỏi Phù Thủy Xanh để đến đứng bên rìa mũi đất. Em chỉ láng máng hiểu chuyện này nghĩa là thế nào.
Đám đàn ông đã bắt đầu vây quanh Phù Thuỷ Xanh. Một vài người cố tình chạm vào nó cho người khác thấy, cười, và hét lên thật to điều ước của mình. Lần đầu tiên, dưới ánh ngày đang rạng, Jane mới nhận thấy cái hình thù to ngang kết bằng lá ấy đã được dựng trên một thứ bục, giống như một cái khay khổng lồ làm bằng những tấm ván, và rằng cái bục này có bánh xe ở bốn góc, được chèn cẩn thận bằng mấy hòn đá to. Vừa gọi nhau vừa hò reo, những người đàn ông lôi đá ra khỏi bánh xe, và Jane thấy cái hình nhân trên đó lảo đảo khi chiếc bục chuyển động. Phù Thủy Xanh có lẽ cao gấp đôi người thường, nhưng to ngang so với chiều cao, và cái đầu vuông lớn tướng cũng to gần bằng thân người nó. Nó trông chẳng giống người chút nào. Jane nghĩ rằng trông nó giống mô hình một giống loài đáng sợ không ai biết, đến từ một hành tinh khác, hay từ một khoảng xa xôi vô định nào đó trong quá khứ của chính loài người.
“Hò dô ta nào!” một người hô lên. Những người đàn ông đã buộc dây vào bốn bên chiếc bục; họ đi vòng quanh, ôm chỗ này, giữ chỗ kia, thận trọng đẩy cái hình thù đang chao đảo về phía cuối mũi đất. Phù Thủy Xanh nhào về phía trước. Jane có thể ngửi thấy mùi hoa táo gai sực nức. Những bông hoa dường như sáng rực lên, những cành cây trên thân người Phù Thủy Xanh gần như phát sáng, và em nhận ra rằng ở phía đất liền, bên trên những cánh đồng hoang phía ngoài Trewissick, mặt trời đã mọc. Ánh nắng vàng tỏa xuống đầu họ; đám đông reo vang, và cái bục với hình người kết bằng lá xanh trên đó được đẩy đến gần đám đá tảng ở mép vực.
Đột nhiên có một tiếng la the thé như tiếng thét, vang lên bên trên đám đông; Jane giật thót mình, quay lại thấy có mấy người đang xô lấn ở bên rìa đám đông. Một người đàn ông dường như đang cố chen vào; em thoáng thấy một mái tóc sẫm màu, một khuôn mặt cau có giận dữ, và rồi đám người lại khép lại.
“Chắc nại nà một phóng viên ảnh, bác đoán thế,” bà Penhallow nói, giọng nói dịu dàng của bà có một thoáng tự đắc. “Không được phép chụp ảnh Phù Thủy Xanh, dưng lăm lào cũng có một hai người đến. Các chàng trai trẻ sẽ xử ní họ thôi.”
Jane nghĩ rằng các chàng trai trẻ hẳn đã xử lý ra trò kẻ xâm phạm năm nay, căn cứ vào việc cái thân hình quằn quại của hắn bị đẩy đi nhanh ra sao. Em lại nhìn quanh tìm ông Merriman, nhưng hình như ông đã biến mất. Và tiếng nói của đám đông bỗng thay đổi khiến cái nhìn của em bị hút trở lại đầu Mũi Kemare.
Lại có một giọng khác, lần này là những lời quen thuộc của tuổi thơ. “Một chuẩn bị... hai sẵn sàng... ba ném!” Jane thấy giờ người ta chỉ còn giữ những sợi dây ở hai bên và cuối chiếc xe đẩy, mỗi sợi khoảng một tá đàn ông. Khi mệnh lệnh cuối cùng vang lên đám đông liền rì rầm xáo động, những người đàn ông chạy tới trước và sang hai bên, Phù Thuỷ Xanh lao tới mỗi lúc một nhanh trước mặt họ. Bằng một động tác nhanh, phức tạp, người ta đẩy chiếc bục về phía trước qua mép vực, rồi lập tức giật dây lại để giữ bục khỏi rơi theo.
Và cái hình thù to lớn kết bằng cành lá của Phù Thủy Xanh, không có dây giữ lại, bị ném lên không trung và rơi xuống dưới đầu Mũi Kemare. Trong một khoảnh khắc nó còn ở đó, hiển hiện, đang rơi, giữa màu xanh trời biển và cây lá, giữa bầy mòng biển đang lượn vòng kêu rít, rồi biến mất, lao thẳng xuống dưới bằng sức nặng của những hòn đá trong người. Một thoáng im lặng như thể toàn bộ Cornwall đều nín thở, và rồi họ nghe thấy nước bắn lên đánh “ùm.”
Tiếng hoan hô và hò reo vang vọng khắp mũi đất. Mọi người đổ xô đến bên mép vực, nơi những người giữ dây đang chậm rãi kéo chiếc xe đẩy lên khỏi đám đá. Sau khi liếc nhìn qua mép vực, họ vây lấy đám đàn ông đang thở hổn hển và hoan hô họ suốt dọc đường quay trở lại Mũi Kemare. Khi đám đông ở gần đám đá đã thưa dần, Jane mới trèo lên mép vực, thận trọng nhìn xuống.
Phía dưới, mặt biển đang chậm rãi thả từng đợt sóng lớn vào chân vách đá như thể chẳng có gì xảy ra. Chỉ có một vài nhánh táo gai nổi lềnh bềnh trên vật nước, dập dềnh cùng sóng, trôi ra rồi lại trôi vào.
Bỗng thấy chóng mặt, Jane rời khỏi đám đá và đi đến gần đám đông người làng Trewissick đang hò reo vui vẻ. Giờ không còn mùi hoa táo gai nữa, chỉ có mùi khói và cá pha trộn. Đống lửa đã tàn, mọi người đang bắt đầu quay trở về làng.
Jane nhìn thấy Will Stanton trước khi cậu ta nhìn thấy em. Bên cạnh em, một đám ngư dân đang rời đi, và Will đứng đó, nổi bật trên nền trời buổi sớm xám xịt, mớ tóc thẳng màu nâu rủ xuống lông mày, cái cằm chìa ra theo một kiểu mà trong một thoáng em thấy giống Merriman một cách kỳ lạ. Cậu bé người Buckinghamshire ấy đang đứng bất động nhìn ra biển, chìm đắm trong những suy nghĩ riêng tư dữ dội nào đó. Rồi cậu ta quay đầu lại và nhìn thẳng vào em.
Cái vẻ dữ dội đã biến thành một nụ cười lịch sự thân mật nhanh đến nỗi Jane cảm thấy nó không được tự nhiên. Em nghĩ: bọn mình đã tỏ ra lạnh lùng với nó như thế, nó không thể thấy vui đến vậy khi nhìn thấy mình được.
Will đi về phía em. “Chào,” cậu nói. “Cậu đã ở đây cả đêm à? Có hay không?”
“Nghi lễ dài lắm,” Jane trả lời. “Phần hay gần như bị loãng ra. Và Phù Thủy Xanh thì…” Em ngừng lại.
“Thế nó kết như thế nào?”
“Ồ. Rất đẹp. Đáng sợ nữa. Tớ không biết.” Em biết em không bao giờ có thể miêu tả lại nó được, dưới ánh sáng ban ngày rõ ràng minh bạch như thế này. “Cậu có đi cùng với Simon và Barney không?”
“Không” Will nói. Cái nhìn của cậu ta lướt qua em. “Hai anh em... đang bận... ở đâu ấy. Chắc là họ đi cùng với bác cậu.”
“Tớ đoán là Simon và Barney đang tránh cậu đấy,” Jane nói, kinh ngạc vì sự thật thà của mình. “Họ không thể làm khác được, cậu hiểu không. Tớ nghĩ là chuyện này sẽ không kéo dài đâu, một khi họ đã quen với cậu. Có chuyện khác đang khiến hai anh em bận tâm, cậu thấy đấy, không liên quan gì đến cậu đâu...”
“Không sao,” Will nói. Trong một thoáng Jane thấy cậu toét miệng cười cho em yên lòng; rồi lại đưa mắt nhìn đi nơi khác. Em có một cảm giác ngượng ngùng rằng mình đang phí lời vô ích; rằng sự khiếm nhã của ba anh em nhà Drew không hề khiến Will Stanton bận tâm chút nào. Em vội nói huyên thuyên để giấu đi vẻ bối rối.
“Khi các ngư dân và mọi người khác từ bến cảng đi lên thì rất tuyệt. Và chỗ nào cũng thấy mòng biển... và tớ nhìn thấy cả ông Gumerry nữa, nhưng hình như ông lại bỏ đi rồi. Cậu có nhìn thấy ông không?”
Will lắc đầu, thọc tay sâu vào túi chiếc áo khoác da đã sờn của mình. “May là ông ấy đã cho bọn mình cơ hội được lên đây. Thường thường họ luôn tìm đủ mọi cách để ngăn không cho khách du lịch lại gần mà.”
Jane chợt nhớ ra và nói: “Có một phóng viên nhiếp ảnh đã tìm cách đến gần Phù Thuỷ Xanh khi họ đang đẩy nó đến mép vực. Đám thanh niên đã lôi ông ta đi. Ông ta la hét như gì ấy.”
“Một người da ngăm đen phải không?”
“Ờ, phải, đúng thế. Ít ra là tớ nghĩ thế" Em nhìn cậu ta chằm chằm.
“À,” Will nói. Khuôn mặt tròn trịa dễ mến của cậu lại đờ ra. “Đó là trước hay sau khi cậu nhìn thấy Merriman?"
“Sau” Jane bối rối trả lời.
“À,” Will lại nói.
“Chị Jane!” Barney chạy tới, thở không ra hơi, đôi ủng quá cỡ đập lật phật vào chân, với Simon theo sát phía sau. “Thử đoán xem bọn em đã làm gì nào, bọn em đã gặp bác Penhallow trai và bác ấy cho bọn em lên thuyền Thạch Nam Trắng, và bọn em giúp các bác ấy dỡ cá...”
“Ui!” Jane vội lùi lại. “Chị thấy rồi!” Mũi nhăn lại trước hai cái áo len dính đầy vẩy cá của chúng, em quay về phía Will.
Nhưng Will không còn ở đó nữa. Đưa mắt nhìn quanh, em chẳng thấy bóng dáng cậu ta đâu cả.
“Cậu ấy biến đi đâu rồi?” em nói.
Simon hỏi, “Ai đã biến đi đâu cơ?”
“Will Stanton vừa ở đây xong. Nhưng cậu ta đã biến mất. Anh không nhìn thấy cậu ta à?”.
“Chắc bọn anh làm nó sợ chạy mất rồi.”
“Này, anh biết không, bọn mình phải tử tế hơn với anh ấy chứ.” Barney nói.
“Được, được, được,” Simon bao dung nói. “Bọn mình sẽ giúp cho nó vui vẻ. Dẫn nó đi leo núi hay là gì đấy. Nào, Jane, kể cho bọn anh nghe về Phù Thủy Xanh đi.”
Nhưng Jane không để ý nghe nó nói. “Lạ thật,” em chậm rãi lên tiếng. “Em không định nói chuyện Will biến đi, mà là một điều cậu ta đã nói. Cậu ta mới biết ông Gumerry có ba ngày, và cậu ta vốn khá là lịch sự. Thế nhưng vừa rồi khi cậu ta nhắc đến ông mà không suy nghĩ gì, khi mà lời lẽ cứ tự nhiên buột ra lúc ta không để ý ấy... cậu ta lại không gọi ông Gumerry là “ông của các cậu hay là Giáo Sư Lyon như bình thường vẫn gọi. Cậu ta gọi ông là ‘Merriman’. Cứ như thể hai người bằng tuổi nhau ấy.”