← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI BA

Trên sân trang trại, đằng trước nhà, một phiến đá granit tròn lớn được đặt xuống nền đất: một cái thớt cối cũ, đã mòn vẹt cả, xung quanh cỏ mọc đầy. Trên bề mặt xám lốm đốm trắng của nó, họ đặt chiếc chén Thánh xuống, và đứng quây lại trong khi Merriman lấy cái ống chì nhỏ méo mó đựng bản viết cổ trong túi ra. Ông dốc ống lấy ra cuộn giấy da, mép giấy đã sờn nứt, và trải nó ra trên mặt phiến đá gồ ghề.

“Và đây là lần thứ hai chúng ta có thể đọc nó.” ông nói.

Lũ trẻ nhặt mấy viên sỏi nằm giữa đám cỏ và nhẹ nhàng đặt chúng lên các mép để giữ cho tấm giấy da nằm phẳng. Rồi không đợi bảo chúng cùng tự động lùi sang một bên, nhường chỗ cho Merriman và Thuyền Trưởng Toms săm soi chiếc chén Thánh và bản viết cổ.

Barney, đứng cạnh Merriman, đột nhiên nhận ra là Will đang đứng im lặng và bất động sau lưng nó. Nó vội tránh sang bên. “Đây,” nó bảo. “Anh đứng đây.”

Chiếc chén Thánh bằng vàng lấp lánh dưới ánh mặt trời, những nét chạm khắc trên thân chén vẫn còn rõ ràng và sạch sẽ, nhưng bề mặt vàng nhẵn mịn bên trong thì lại ám màu đen xỉn, đúng như lời Simon đã kể. Giờ đây, lần đầu tiên trong đời, Will mới được tận mắt nhìn những nét chạm trổ tinh tế nằm sát nhau, tận mắt ngắm những ô vuông khắc đầy những bức tranh sống động hình người đang chạy, chiến đấu, nấp sau các tấm khiên: những người đàn ông mặc áo dài thắt ngang lưng đội loại mũ sắt kỳ lạ, đang huơ cao gươm và khiên mộc. Các bức tranh ấy đánh thức trong cậu ký ức thẳm sâu về những điều mà cậu thậm chí còn không nhớ là mình đã từng biết. Cậu nhìn kỹ hơn những con chữ đan xen giữa các hình người, và nhìn ô vuông cuối cùng trên chiếc chén, toàn bộ chạm những dòng chữ bằng thứ tiếng mật mã mà không học giả đương thời nào có thể hiểu được. Và cũng như hai Cổ Nhân kia, cậu bắt đầu cẩn thận nhìn từ các ký hiệu trên bản viết cổ sang các ký hiệu trên chiếc chén, và dần dần những dòng chữ đan xen kia trở nên rõ nghĩa.

Will thấy mình thở gấp hơn, khi ý nghĩa của những dòng chạm khắc bắt đầu thành hình trong óc cậu. Mắt không rời bản viết cổ, Merriman đọc chậm rãi, khó khăn, như thể ông đang đánh vần một bài học rất phức tạp:

Trong ngày vong nhân, khi năm sắp tàn,

Người trẻ nhất mở ra ngọn đồi cổ nhất,

Qua điểu khẩu nơi làn gió chìm khuất

Ở nơi đó ngọn lửa sẽ bùng lên

Từ người đó, người thiếu niên ô thước

Và đôi mắt bạc nhìn thấy được phong ba,

Rồi cây đàn hạc vàng sẽ về tay Ánh Sáng.

Ông dừng lại, mặt căng thẳng vì tập trung. “Không dễ dàng gì” ông lẩm bẩm một mình. “Khó mà theo kịp những mẫu tự này.”

Thuyền Trưởng Toms tựa vào cây gậy nặng của mình và nhìn kỹ một ô vuông khác trên chiếc chén Thánh. Ông đọc khẽ, giọng ông như nâng niu từng từ:

Bên hồ nước đẹp tươi những Người Ngủ nằm đó,

Trên đường Cadfan nơi chim cắt gọi nhau;

Dù sát khí từ bóng ma Vua Xám có âm thầm giáng xuống,

Đàn hạc vàng du dương vẫn sẽ mãi dẫn đường

Đánh thức Người Ngủ lệnh cho họ phải đi.

Will quỳ xuống bên cạnh phiến granít và xoay chiếc chén Thánh lại. Cậu chậm rãi đọc to:

Khi ánh sáng từ miền đất bị lãng quên quay trở lại,

Sáu kẻ Người Ngủ lên ngựa, sáu Dấu Hiệu cháy bùng,

Và tại nơi cây hạ chí vươn cao

Thanh gươm Pendragon sẽ quy hàng Bóng Tối.

Merriman đứng thẳng lên. “Và dòng chữ cuối cùng sẽ là lời thần chú,” ông nói, nhìn Will chằm chằm; cặp mắt sâu thẳm tối sẫm như xuyên vào đầu cậu. “Hãy nhớ đây. Y maent yr mynyddoedd yn canu, ac y mae'r arglwyddes yn dod. Núi đồi cất tiếng hát, và Nữ Thần sẽ tới. Hãy nhớ cho kỹ.”

Ông cúi xuống phiến đá, bỏ những hòn sỏi sang bên và bàn tay lớn của ông cầm lấy bản viết cổ nhỏ, quăn. Như thể lũ trẻ nhà Drew không có đó, ông nhìn Will và Thuyền Trưởng Toms.

“Hai người nhớ cả rồi chứ?” ông hỏi.

“Nhớ rồi ạ,” Will nói.

“Đã ghi nhớ kỹ,” Thuyền Trưởng Toms nói.

Bằng một động tác đột ngột Merriman siết chặt nắm đấm lại, và ngay lập tức cuộn giấy da cứng đã nứt rạn liền vỡ vụn thành nhiều mảnh, nhỏ như cát, nhẹ như bụi. Ông xòe những ngón tay dài ra rồi dang rộng cánh tay, và những mảnh giấy bốc lên như một cơn mưa bụi, rồi bay đi khắp mọi hướng, bay vào hư vô. Bọn trẻ hoảng hốt la lên.

“Ông Gumerry!” Jane nhìn ông, kinh hoàng. “Ông đã làm hỏng tất cả rồi!”

“Không,” Merriman nói.

“Nhưng ông không thể hiểu được trên chiếc chén khắc chữ gì nếu không có nó. Sẽ không ai hiểu được cả.” Mặt Simon nhăn lại bối rối. “Nó sẽ vẫn là một điều bí ẩn, chẳng khác gì lúc trước cả.”

“Với chúng ta thì không.” Thuyền Trưởng Toms nói. Ông loay hoay ngồi xuống trên phiến đá granít, cầm chiến chén Thánh lên và xoay xoay nó trong tay để cho ánh mặt trời phản chiếu lấp lánh trên những bức chạm trên thành chén. “Giờ thì chúng ta đã biết được thông điệp bí mật của chiếc chén nói gì. Nó sẽ quyết định cuộc sống của chúng ta trong mười hai tháng tới, và chẳng mấy chốc nữa sẽ giúp chúng ta cứu loài người vĩnh viễn thoát khỏi nỗi kinh hoàng khủng khiếp. Và giờ khi nó đã ở trong đầu chúng ta rồi, thì chúng ta sẽ không bao giờ quên.”

“Chưa chi cháu đã quên rồi,” Barney ủ rũ nói. “Quên hết ngoại trừ cái phần về chiếc đàn hạc vàng và vị vua xám. Làm sao mà lại có một vị vua xám được ạ?”

“Tất nhiên là cháu đã quên rồi,” Thuyền Trưởng Toms bảo. “Đó là chủ tâm của chúng ta mà.” Ông mỉm cười với Barney. “Và chúng ta thậm chí không cần dùng bùa phép để giúp các cháu quên đi, như ông bạn thuộc phe Bóng Tối nọ. Chúng ta chỉ cần dựa vào sự ngắn ngủi của trí nhớ con người mà thôi.”

“Và như thế ông sẽ không bao giờ phải lo rằng sẽ có người khác nhớ được.” Simon nói, dần dần hiểu ra, “bởi vì sẽ không bao giờ có ai khác nghe thấy hay nhìn thấy nó nữa.”

Jane buồn bã nói,“Thật tiếc là điều bí mật của Phù Thủy Xanh tội nghiệp lại bị ném đi.”

“Nó đã hoàn thành mục đích của mình.” Merriman nói. Giọng nói trầm trầm của ông cao lên một chút, có vẻ trang trọng hơn. “Mục đích cao cả của nó, vì mục đích ấy mà nó đã được tạo ra từ thuở xa xưa. Nó đã giúp chúng ta tiến thêm một bước dài trên con đường ngăn cản Bóng Tối nổi dậy, và không có gì quan trọng hơn sứ mệnh ấy.”

“Cái câu cuối cùng ông đọc từ chén Thánh và bản viết cổ” Barney nói. “Đó là tiếng gì thế ạ?”

“Tiếng Wales,” ông Merriman trả lời.

“Tức là phần cuối cùng của sứ mệnh sẽ là ở Wales ạ?"

“Phải.”

“Chúng cháu có được tham gia không ạ?”

Merriman đáp, “Cứ đợi xem sao.”

*

Họ ngả ngốn nằm theo đủ mọi tư thế dưới ánh nắng trên bãi biển cho tiêu một bữa trưa dã ngoại khổng lồ. Simon và Barney đang lười nhác tung qua tung lại một quả bóng, thậm chí không thèm đứng dậy nữa. Ông Bill Stanton ngắm chúng và cây gậy crickê (Một môn thể thao phổ biến ở Anh, người chơi dùng gậy đánh bóng vào một khung thành gồm ba cây gậy gỗ cắm xuống đất.) bên cạnh với vẻ lạc quan pha chút luyến tiếc.

“Đợi một lát,” ông nói với bà vợ đang nằm tắm nắng, “một chốc nữa thôi, chúng tôi sẽ chỉ cho mình xem cách chơi crickê chuẩn là như thế nào.”

“Tuyệt,” bà Fran Stanton đáp bằng giọng ngái ngủ.

Jane, đang nằm ngửa, mắt hấp háy nhìn bầu trời xanh thẳm, liền chống khuỷu tay ngồi dậy và nhìn ra biển. Cát nóng ấm dưới da em, đó là một ngày đẹp trời, đầy nắng và lặng gió ở Cornwall, một ngày hiếm hoi và đặc biệt.

“Cháu đi dạo một lát,” em nói, không với cụ thể một ai, rồi bước qua lớp cát khô dọc theo bãi biển óng vàng kéo dài, về phía những tảng đá lấp lánh lớp rong biển do thủy triều thấp đưa vào ở chân Mũi Kemare.

Mũi đất vươn cao trên đầu em, con dốc đầy cỏ chuyển dần thành vách đá xám lởm chởm; ở chót đỉnh, vách đá vươn lên thành một bức tường dựng đứng nổi bật trên nền trời. Mọi ký ức lại tràn về trong đầu Jane. Em bắt đầu bước qua các tảng đá, hơi nhăn mặt lại khi bàn chân trần chưa bị mùa hè làm chai dẫm lên những tảng đá xù xì. Ở đây, vào mùa hè năm ngoái, em và Barney và Simon đã đi đến đỉnh điểm của cuộc phiêu lưu để tìm được chiếc chén Thánh đã nằm hàng trăm năm trong một cái hang có lối vào hoàn toàn ngập trong nước trừ những khi thủy triều xuống thấp nhất. Ở đây, chúng đã chạy thoát khỏi sự truy đuổi của thế lực Bóng Tối, cùng có chiếc chén Thánh và cái hộp chì nhỏ tìm thấy trong đó. Và ở đây, em thầm nghĩ khi đi đến chỗ tảng đá ngoài cùng, nơi những con sóng phả bọt trắng xóa dưới chân em, chính ở chỗ này, trong khi cuống cuồng tìm cách cứu chiếc chén Thánh, cái hộp chì nhỏ đã lao thẳng xuống nước và rơi xuống đáy biển. Và Phù Thủy Xanh đã tìm thấy nó, rồi biến nó thành một bí mật quý giá của riêng mình.

Jane ngắm nhìn làn nước xanh thẳm bên dưới những con sóng vẫn đang xô tới. “Tạm biệt, Phù Thủy Xanh,” em khẽ nói.

Em tháo một chiếc vòng bạc đeo trên cổ tay ra, thử nhấc nhấc nó trong tay xem nặng nhẹ ra sao, và vươn tay về phía sau lấy đà quăng nó xuống biển.

“Đừng làm thế.” một giọng nhẹ nhàng cất lên sau lưng em.

Jane há hốc miệng, suýt ngã; quay ngoắt lại, em nhìn thấy Will Stanton..

"Ôi!” em kêu lên. “Cậu làm tớ giật bắn cả người.”

“Xin lỗi,” Will nói. Cậu giữ thăng bằng và đi đến đứng cạnh em; hai bàn chân trần trắng trẻo của cậu nổi bật trên nền rong biển sẫm màu bám trên các tảng đá.

Jane nhìn khuôn mặt tròn dễ mến của cậu, rồi nhìn xuống chiếc vòng trong tay. “Tớ biết là nghe thật ngốc nghếch,” em ngập ngừng nói, “nhưng tớ muốn tặng cho Phù Thủy Xanh một bí mật của riêng nó. Thay cho cái mà chúng ta đã lấy đi. Trong giấc mơ của tớ,” em dừng lại, hơi ngượng, nhưng rồi lại bạo dạn kể tiếp, “trong giấc mơ của tớ, tớ đã nói, Tôi sẽ cho người một bí mật khác, và Phù Thủy Xanh đáp lại bằng một giọng âm vang rất buồn, Quá muộn, quá muộn rồi, rồi biến mất...”

Em im lặng nhìn ra biển.

“Tớ chỉ bảo đừng ném,” Will giải thích, “vì tớ nghĩ rằng cái vòng của cậu không hợp. Nó làm bằng bạc phải không, thế thì nước biển sẽ làm nó bị đen xỉn đi, xấu lắm.”

“Ồ” Jane buồn rầu nói.

Will đổi chân giữ thăng bằng trên tảng đá ướt, và thò tay vào túi. Cậu liếc nhìn Jane một cái thật nhanh rồi lại quay đi, và nói, “Tớ biết cậu muốn tặng cho Phù Thủy Xanh một cái gì đó. Không biết cái này có được không?”

Jane nhìn xuống. Nằm trong lòng bàn tay xòe ra của Will là cái hộp chì nhỏ với những vệt xanh đã đựng bản viết cổ, bí mật đầu tiên của Phù Thủy Xanh. Will cầm nó lên, mở nắp ra và đổ một vật nhỏ vào tay em. Jane thấy đó là một mảnh kim loại vàng, sáng lấp lánh, với mấy chữ rất nhỏ khắc trên đó.

“Nhìn như vàng ấy nhỉ,” em nói.

“Là vàng thật đấy,” Will nói. “Vàng loại thường, ít cara thôi, nhưng vàng thật. Nó sẽ bền mãi mãi, ngay cả khi nằm ở dưới đó.”

Jane đọc to, “Sức mạnh Phù Thủy Xanh, mất dần dưới đáy biển.”

“Chỉ là một dòng thơ thôi” Will nói.

“Thật à? Hợp quá.” Em đưa ngón tay vuốt dọc miếng vàng sáng rực. “Cậu kiếm được nó ở đâu đấy?”

“Tớ tự làm đấy.”

“Cậu tự làm ấy à?” Jane quay lại và nhìn cậu chằm chằm với vẻ kinh ngạc đến nỗi Will bật cười.

“Bố tớ làm nghề kim hoàn. Ông đang dạy tớ cách chạm khắc. Thỉnh thoảng sau giờ học tớ vẫn đến giúp việc ở cửa hàng của ông.” “

“Nhưng chắc hẳn là cậu đã làm cái này trước khi cậu đến đây, trước khi cậu biết là chúng ta sẽ gặp Phù Thủy Xanh,” Jane chậm rãi nói. “Làm sao cậu biết phải làm cái gì, phải khắc chữ gì?”

“Tớ đoán chỉ là do tình cờ thôi,” Will nói, và có một vẻ dứt khoát lịch sự trong giọng nói của cậu làm Jane nhớ ngay đến ông Merriman: đó là giọng nói ngăn cản bất kỳ câu hỏi thêm nào.

“Ồ,” em nói.

Will bỏ mảnh vàng vào trong cái hộp và đóng chặt nắp lại. Rồi cậu đưa nó cho Jane.

“Bí mật của người đây, Phù Thủy Xanh” Jane nói rồi ném nó xuống biển. Cái hộp chì nhỏ biến mất dưới làn sóng đang phả bọt vào những tảng đá đầy rêu. Dưới ánh nắng, làn nước lấp lánh như những mảnh kính vỡ.

“Cảm ơn cậu, Will Stanton” Jane nói. Em dừng lại, nhìn thẳng vào cậu. “Cậu không giống như bọn tớ, phải không?”

“Không giống lắm” Will đáp.

Jane nói, “Hy vọng là một ngày nào đó bọn tớ sẽ gặp lại cậu.”

Will nói,“Tớ dám chắc là bọn mình sẽ gặp lại.”

*

Ông bà Penhallow đứng vẫy trên bậc thềm của căn nhà khi họ rời đi: ông Merriman đưa bốn đứa trẻ lên tàu về London, còn hai ông bà Stanton thì đi tham quan Truro (Thành phố lớn nhất của địa hạt Cornwall.)

“Tạm biệt!”

“Chúc thượng lộ bình an! Tạm biệt!”

Hai chiếc xe mất hút ở phía bên kia cầu cảng; trên đầu, chim mòng biển lượn vòng, kêu ầm ĩ.

“Nần lày ông Giáo Sư đã thấy cái ông ấy đi tìm rồi, tôi tin nà thế,” ông Penhallow nói, trầm ngâm bập bập tẩu thuốc của mình.

“Cái cốc nhỏ bằng vàng từ năm ngoái bị đánh cắp ở London chứ gì? Đúng thế. Dưng tôi đoán nà còn có cái gì khác lữa kia.” Bà Penhallow nhìn ra chỗ chiếc xe của ông Merriman đã khuất sau khúc quanh, đôi mắt đầy suy đoán.

“Cái khác nà cái gì?”

“Ông ý xuống đây vào đúng dịp nàm Phù Thủy Xanh không phải nà tình cờ đâu. Trước đây ông ý chưa bao giờ nàm thế cả. Mà lăm lay cũng nà lăm đầu tiên Thuyền Trưởng Toms có mặt ở nhà vào dịp nàm Phù Thủy Xanh, sau bao nhiêu lăm ròng... Tôi không biết, ông Walter à, tôi không biết. Dưng chắc hẳn đã có chuyện gì nạ nắm.”

“Bà đang lằm mơ rồi,” ông Penhallow âu yếm bảo.

“Tôi mà mơ í à. Nhưng con bé Jane thì có, đêm hôm lọ. Đêm đó ai cũng lằm mơ, cả nàng đều noạn nên hết... Sáng hôm sau người ta bàn tán mới ghê chứ, toàn lói đến dững chuyện lên quên đi thì hơn... Và sáng hôm đó tôi đang đi nên mấy phòng ngủ định dọn dẹp thì con bé Jane thức dậy. Và ló hét nên một tiếng mới ghê chứ, rồi nao ra khỏi phòng chạy đến chỗ hai thằng anh em trai như nà phát rồ ý.”

“Ờ thì ló lằm mơ,” ông Penhallow nói. “Nghe thì có vẻ như nà mơ thấy ác mộng. Thế thì sao lào?”

“Tôi không nhớ kỹ chuyện lằm mơ của con bé.” Bà Penhallow nhìn ra bến cảng yên tĩnh và những con mòng biển đang chao liệng. “Mà nà căn phòng của ló cơ. Tối hôm trước còn sạch như nau như ni, con bé cẩn thận ngăn lắp nắm. Ấy thế mà sáng hôm sau, khắp phòng chỗ lào cũng đầy những cành và ná cây, ná táo gai, ná thanh nướng trà. Và chỗ lào cũng đầy mùi biển.”

Hết tập 3