← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI HAI

Đầu tóc còn rối bù vì mới ngủ dậy, mặc nguyên những bộ quần áo ngủ nhàu nát lôi thôi, bọn trẻ chẳng câu nệ gì, cứ thế lao thẳng vào phòng ngủ của Merriman.

“Ông đâu rồi?”

“Thử xuống dưới nhà xem. Đi nào!”

Merriman và Will, nom như thể đã thức dậy và mặc quần áo chỉnh tề từ mấy tiếng trước, đang bình thản ngồi ăn sáng trong căn phòng khách dài trần thấp. Khi Simon, Jane và Barney xông vào phòng, Merriman hạ tờ báo to kêu sột soạt xuống và nhìn chúng qua cặp mắt kính gọng vàng đang nằm chênh vênh một cách đáng ngạc nhiên trên cái sống mũi khoằm của ông.

Ông nhìn thấy cái ống chì méo mó mà Jane không nói một lời chìa ra cho ông, và kêu lên, “A.”

Will bỏ mẩu bánh mì nướng đang ăn dở xuống, một nụ cười tươi tắn nở ra trên khuôn mặt tròn của cậu. “Giỏi lắm, Jane,” cậu nói.

Jane nói, “Nhưng tớ chẳng làm gì cả. Nó chỉ... nó chỉ tự nhiên xuất hiện thôi.”

“Cậu đã ước một điều còn gì” Will bảo. Cô bé trố mắt nhìn cậu.

“Chúng ta mở nó ra được chưa ạ?” Barney sốt ruột hỏi. “Mở đi, ông Gumerry.”

“Ờ” Merriman nói. Ông đón lấy cái hộp chì nhỏ từ tay Jane và đặt nó lên bàn, cặp mắt tối sẫm lấp lánh trên khuôn mặt đầy nếp nhăn. “Được rồi.”

Jane vẫn đang nhìn không chớp mắt, từ Will sang Ông Merry. “Ông biết là cháu có nó. Ông đã biết trước.”

“Ông và mọi người đã hy vọng là thế,” Merriman khẽ nói.

Simon đặt một ngón tay lên cái hộp như thể đang cầu nguyện. “Nó đã nằm dưới biển bao nhiêu lâu. Nhìn này, nó dính toàn rong rêu thôi... liệu nước có ngấm vào trong không nhỉ? Nếu có thì là do lỗi của anh, từ hè năm ngoái. Anh đã mở nó ra một lần, để xem bên trong có gì, và rồi lại đóng lại. Thử tưởng tượng xem, lỡ bản viết bên trong đã bị hỏng cả rồi thì sao, lỡ anh đóng nắp hộp không đủ chặt...”

“Anh thôi đi,” Jane bảo.

Merriman cầm chiếc hộp lên bằng những ngón tay dài dẻo dai, rồi ông nhẹ nhàng xoay và giật mạnh cái ống kim loại màu xám bám đầy rêu xanh cho đến khi đột nhiên một đầu tuột ra trong tay ông tựa như một cái nắp. Bên trong, thò ra từ trong phần ống dài hơn là một cuộn giấy da dày nom như ngón tay trỏ.

“Nó không sao cả!” Simon kêu lên, giọng khàn đặc. Nó vội vã đằng hắng và vươn thẳng vai lên, nhưng thật khó mà tỏ ra đĩnh đạc trong bộ quần áo ngủ.

Barney vòng hai tay ôm lấy người, nhún nhảy vì sốt ruột. “Trên đó viết gì ạ? Trên đó viết gì ạ?”.

Rất chậm rãi, và cực kỳ cẩn thận, Merriman lôi bản viết cổ được cuộn tròn trong cái ống chì nhỏ ra. Ông vừa nhẹ nhàng trải nó ra trên bàn, dùng bàn tay to chặn một đầu lại, vừa nói, “Chúng ta chỉ có thể làm thế này nhiều lắm là hai lần thôi, nếu không thì nó sẽ vụn ra thành bụi mất. Đây là lần thứ nhất rồi.”

Những ngón tay dài của ông giữ cho tấm giấy da nâu nứt rạn mở ra trên tấm khăn trải bàn trắng. Trên tấm giấy là hai mảng dày đặc những ký hiệu màu đen. Bọn trẻ trố mắt nhìn, sự chán nản và kinh hoàng thay phiên nhau hiện lên trên mặt chúng.

“Nhưng nó chẳng viết gì cả! Đây chẳng phải là thứ tiếng gì hết!”

“Chỉ toàn những dấu vớ vẩn thôi!”

Jane chậm rãi hỏi, thận trọng hơn, “Những chữ này nghĩa là gì hở ông Gumerry? Liệu có bảng chữ cái nào như vậy không ạ?”.

Em tuyệt vọng nhìn những dải ký hiệu đen: nét thẳng, nét xéo, có nét đứng một mình, có những nét lại gom lại thành nhóm, như những đường nguệch ngoạc lộn xộn của một người điên.

“Có," ông Merriman đáp. “Có đấy.” Ông nhấc tay lên cho bản viết cổ tự cuộn lại, và Will, từ nãy đến giờ vẫn đứng ngó qua vai ông, lặng lẽ quay trở về ghế ngồi. “Có một bảng chữ cái rất cổ gọi là chữ Ogham, không dùng được cho cách viết của chúng ta... đây là một loại chữ như vậy. Nhưng đây vẫn chỉ là một dạng bán ký tự, một mật mã mà thôi. Hãy nhớ rằng nó không có nghĩa gì cả cho đến khi chúng ta có được chiếc chén Thánh... nó được viết để đi kèm với những dòng chạm khắc trên chiếc chén, lúc đó thì ý nghĩa của nó mới trở nên rõ ràng. Cái này sẽ giải mã cái kia.”

Barney rên lên, “Nhưng chúng ta không có chiếc chén!”

“Phe Bóng Tối,” Simon cay cú nói. “Tên họa sĩ đó.” Rồi nó đứng thẳng lên, mặt tràn đầy một nỗi hy vọng điên cuồng. “Nhưng chúng ta có thể lấy lại nó, chúng ta có thể đến lấy nó từ căn nhà lưu động của hắn. Họ đã đưa hắn tới...”.

“Chào buổi sáng! Chào buổi sáng!” bà Penhallow hối hả bước vào mang theo một cái khay. “Bác nghe thấy tiếng các cháu, cưng à, lên bác đem bữa sáng vào đây.”

“Hết sảy!” Barney reo lên ngay.

Rất nhẹ nhàng, ông Merriman đặt tờ báo phủ lên trên bản viết và cái hộp đựng nó.

“Ồ” Jane nói, kéo lại tấm áo choàng ngủ nhàu nhĩ mãi không được. “Chúng cháu vẫn chưa thay đồ, nhưng cảm ơn bác.”

“Ôi giời, đi nghỉ thì ai bận tâm đến mấy cái đấy mà nàm gì? Giờ thì các cháu cứ ăn uống đi cho thỏa thích, còn bác sẽ đi nên dọn phòng.” Sau khi đặt chiếc khay xuống, bà chạy về bếp, rồi lại xuất hiện mang theo chổi và khăn lau bụi. Khi thấy bà đã bước lên mấy bậc thang kẽo kẹt đằng sau cánh cửa nối giữa hai căn nhà rồi, Simon liền thở phào một hơi và lại tuôn ra một tràng, vừa căng thẳng vừa phấn khích.

“Họ đã đưa hắn tới bệnh viện rồi, vì thế chúng ta có thể đi đến chỗ căn nhà lưu động, hắn sẽ không có ở đó! Hắn...”

Will vội nghiến răng suỵt một tiếng, giơ tay lên ngăn nó lại. Đằng sau cánh cửa dẫn từ căn nhà bên kia vào phòng có tiếng lục đục và tiếng người lầm bầm, rồi ông Bill Stanton xuất hiện, vừa ngáp dài vừa chớp chớp mắt và thắt lại dải dây lưng của chiếc áo choàng mặc trong nhà kỳ cục có kẻ sọc như loại ghế xếp trên boong tàu. Ông nhìn lũ trẻ nhà Drew và đưa tay lên miệng để che cái ngáp cuối cùng. “Ờ,” ông nói. “Bác rất mừng khi thấy ít ra còn có người ăn mặc giống bác.”

Simon ngồi phịch xuống ghế và bắt đầu cắt lấy cắt để mấy miếng bánh mì.

Barney nói, “Tối qua bác ổn cả chứ ạ, bác Stanton?"

Ông bác của Will rên lên. “Thôi đừng hỏi bác nữa. Thật là một buổi tối quái gở! Cái gã điên khùng mà hai bác đang chở tới bệnh viện đã bỏ chạy.”

“Bỏ chạy ấy ạ?” Trong phòng bỗng lặng ngắt.

Ông Stanton ngồi xuống và thèm thuồng với lấy ấm trà. “Bác hy vọng là anh ta không sao,” ông nói. “Nhưng anh ta đã gây cho hai bác nhiều phiền phức lắm. Anh ta cứ nằm im thin thít ở ghế sau ấy, bác cứ tưởng chắc chắn là anh ta vẫn còn bất tỉnh nhân sự. Im re. Rồi khi đi được khoảng nửa đường đến St Austell, đến một đoạn đường rất vắng vẻ thì có cái gì đó xông ra trước mũi xe, và bác tông phải nó.” Ông uống cạn một hơi trà, và thở phào vẻ biết ơn. “Vậy là bác dừng lại rồi chạy ra ngoài xem sao. Ý bác là, không nên để một con vật bị thương nằm đó, phải không nào? Và khi bác đang ở ngoài trời tối thì anh chàng đó ở ghế sau bỗng bật dậy, mở cửa bên và chạy ra ngoài cánh đồng trước khi Frannie kịp hiểu là có chuyện gì”.

“Nhưng hắn bị thương mà.” Jane nói. “Hắn vẫn chạy được ạ?”

“Chạy nhanh như thỏ rừng ấy,” ông Staton nói, vuốt ngược dải tóc lơ phơ trên cái đầu hói của ông. “Hai bác nghe thấy tiếng anh ta chạy lục sục, chắc là lao qua các hàng rào. Hai bác đi tìm anh ta một hồi lâu, nhưng lại không có đèn đóm gì, mà ở ngoài trời tối lúc thời tiết xấu thì cũng chẳng dễ chịu gì. Thế là cuối cùng hai bác lái xe tới St Austell và báo cảnh sát chuyện xảy ra. Bác Fran nghĩ hai bác nên làm vậy, sau khi đã nhờ Thuyền Trưởng Toms báo cho ông cảnh sát ở Trewissick. Nhưng hóa ra là ông ấy chẳng báo gì hết, phải không Merry?”

“Chúng tôi đã cố,” Merriman ôn tồn đáp. “Nhưng ông cảnh sát Tregear không có mặt ở làng.”

“Ờ, mấy người ở sở cảnh sát St Austell tưởng chúng tôi bị hâm,” ông Stanton nói, “mà có lẽ họ nghĩ thế cũng phải. Cuối cùng chúng tôi quay về đây. Rất muộn.” Ông uống thêm một ít trà nữa, và lại thở dài. “Tôi là người gốc Anh thật đấy,” ông rầu rĩ nói, “nhưng tôi ước gì thỉnh thoảng bà Penhallow tốt bụng của chúng ta lại pha cà phê cho bữa sáng.”

“Thế bác đã tông phải con gì ạ?” Barney hỏi.

“Hai bác chưa kịp nhìn thấy gì cả. Bác đoán là một con mèo. Nom nó hơi to hơn một chút... có lẽ là một con lửng cũng nên. Sau khi tìm kiếm khắp nơi rồi thì,” ông bật cười, “hai bác nghĩ rằng đó chỉ là một con ma nào đó của Cornwall thôi.”

“Ô,” Jane khẽ kêu lên.

“Thôi, nói thế đủ rồi,” ông Stanton nói. “Chúng ta đều làm trọn phận sự của những con người bác ái, và bác đoán là anh chàng đó vẫn ổn cả và đang ở đâu đó thôi. Này, hôm nay là ngày cuối cùng của các cháu ở đây phải không? Có vẻ sẽ rất thú vị đấy. Frannie đang nghĩ xem chúng ta có thể đưa tất cả đi dã ngoại ở bãi biển lớn phía bên kia Mũi Kemare được không.”

“Thế thì tuyệt lắm.” Merriman nói ngay, trước khi chúng kịp phản ứng. “Đợi đến cuối buổi sáng nay được không? Có một thứ này tôi muốn chỉ cho bọn trẻ xem trước.”

“Được thôi. Tôi cũng cần thêm chút thời gian để hồi lại được sau đêm qua. Tôi nghĩ hình như Fran còn chưa dậy cơ.”

“Ông định chỉ cho chúng cháu xem cái gì ạ, ông Gumerry?” Jane hỏi vì lịch sự nhiều hơn là thích thú.

“Ồ,” Merriman đáp. “Chỉ là một cái trang trại cũ thôi mà.”

*

Họ đi xuyên qua làng trên chiếc ôtô to tướng xóc nảy người của Merriman: Jane và Thuyền Trưởng Toms ở ghế trước, mấy đứa con trai ngồi ở ghế sau với con Rufus đang sung sướng ngọ nguậy không yên. Tất cả các cửa sổ xe đều mở, không có một chút hơi gió nào, và mặt trời đã lên khá cao, hứa hẹn một ngày xuân nóng nực bất thường.

Simon nói, “Nhưng hắn sẽ rình sẵn ở đó đợi chúng ta! Chắc chắn là vậy, vì thế hắn mới bỏ chạy! Ông Gumerry, làm sao mà chúng ta có thể ngang nhiên lái xe đến đó được cơ chứ?”

Sự lo lắng cuống cuồng đang dâng cao trong giọng nói của nó; Will nhìn nó vẻ thông cảm, nhưng không nói gì.

Cuối cùng Merriman đáp mà không quay đầu lại, “Gã đàn ông đến từ phe Bóng Tối sẽ không thể cản trở chúng ta được nữa đâu, Simon ạ.”

Simon hỏi, “Sao lại không ạ?”

Barney thì hỏi, “Sao ông biết?”

“Hắn đã cố thử thêm một lần nữa để thách thức quyền lực của Phù Thủy Xanh, và đã đi quá đà.” Merriman nói, vòng xe qua một khúc quanh. “Và Pháp Thuật Hoang Sơ, pháp thuật điều khiển được Phù Thủy Xanh, đã lôi hắn đi.” Ông lặng im, sự lặng im mà chúng biết có nghĩa là không được hỏi han gì thêm nữa.

“Đêm qua ạ” Simon nói.

“Phải” Merriman đáp. Jane liếc sang nét mặt trông nghiêng khắc khổ như một con diều hâu của ông, trong một thoáng lạnh người băn khoăn không biết chính xác đã có chuyện gì xảy ra với tên họa sĩ của phe Bóng Tối, và rồi, khi nhớ lại những gì mình đã nhìn thấy thì em lấy làm mừng là mình không biết.

Và trước khi chúng kịp nhận ra mình đã đi một quãng đường khá dài thì chiếc xe to rẽ khỏi con đường chính và đi vào một lối mòn hẹp đâm sang bên, với vòm lá rủ thấp che kín trên đầu, đi qua một tấm biển đề: TRANG TRẠI PENTREATH.

Simon lo ngại hỏi, “Chúng ta có nên xuống đi bộ không ạ?”

Cố tình hiểu nhầm lời nó, ông Merriman ung dung khoát tay.

“Ồ, không, cháu đừng lo, trong đời nó cái xe cà tàng này đã phải chịu nhiều đoạn xóc tệ hơn thế này ấy chứ.”

Simon cố nén nỗi lo sợ của mình. Nó nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ về phía những dải cỏ xanh và những thân cây mọc dày; nhìn những cành lá rậm rạp quét qua cửa sổ xe. Một cách vô thức nó siết chặt hai tay lại với nhau khi họ tiến lại khúc quanh cuối cùng trước khi nhìn thấy căn nhà lưu động của tên họa sĩ, và khi chiếc xe đánh sang bên nó càng nắm chặt tay hơn và phải cố ngăn mình không nhắm nghiền mắt lại.

Và khi sợ sệt hé mắt nhìn ra cánh đồng rải rác những bụi cây xanh, nó thấy căn nhà lưu động không còn đó nữa.

“Dừng lại một lát đã,” nó nói, giọng the thé nghe thật lạ. Ông Merriman đỗ xe lại mà không hề thắc mắc, và Simon loạng choạng xuống xe, cùng với Barney theo sát phía sau. Hai đứa vội vã chạy đến chỗ mà chúng biết rất rõ là nơi căn nhà lưu động kiểu di gan tráng lệ đã từng đứng; nơi con ngựa đã đứng biếng nhác gặm cỏ; nơi gã đàn ông thuộc phe Bóng Tối đã sử dụng trí óc của Barney cho những mục đích riêng của hắn. Chẳng có dấu hiệu gì cho thấy có bất kỳ người nào hay vật gì ở đó từ nhiều tháng nay. Không một cọng cỏ bị uốn gập, không một cành cây bị dập nát. Rufus, vốn đã nhảy ra khỏi xe sau chúng, bồn chồn chạy đi chạy lại, mũi dí xuống đất, đánh hơi mấy vòng xung quanh mà không thấy gì. Rồi nó dừng lại; ngẩng lên, lắc đầu sang hai bên theo một cách kỳ lạ không giống chó chút nào mà như một người đang bị ù tai, rồi chạy vụt tới khúc quanh tiếp theo.

“Rufus!” Simon gọi. “Rufus!”

“Cháu cứ kệ nó,” Thuyền Trưởng Toms từ trong xe nói vọng ra. “Cháu quay lại đây đi, chúng ta sẽ đi theo nó.”

Chiếc xe lại nổ máy xuôi theo con đường, họ vòng qua khúc quanh cuối cùng và đi tới đối mặt với trang trại.

Căn nhà thấp màu xám dường như còn đổ nát hơn cả những gì Simon còn nhớ. Giờ nó ngắm kỹ hơn những thanh gỗ đóng thành hình chữ thập trên cửa trước; ngắm những dây leo mới bò lên cửa sổ mà không hề bị chặn lại; ngắm những ô cửa sổ đây đó, đen ngòm và lởm chởm như một hàm răng thiếu đi vài cái. Một lớp cỏ cao xanh mượt mới mọc lên xung quanh những thứ nông cụ rỉ sét bị bỏ lại trên sân: một cái cày cũ chỉ còn lại bộ khung, một cái bừa, phần còn lại của một chiếc máy kéo cũ đã mất bộ bánh xe khổng lồ. Trong cái chuồng lợn bỏ hoang, cây tầm ma vươn lên cao vút, rậm rạp. Đâu đó đằng sau căn nhà trang trại, Rufus sủa váng lên, và một đàn bồ câu giật mình bay vụt lên không. Cây cỏ đang mọc tỏa ra một mùi ngai ngái.

Thuyền Trưởng Toms khẽ nói, “Thiên nhiên đang kéo đến xâm chiếm Trang Trại Pentreath rồi, nhanh quá.”

Merriman đứng ở giữa sân, bối rối nhìn quanh mình. Những nếp nhăn trên mặt ông dường như càng hằn sâu hơn. Thuyền Trưởng Toms tựa người vào chiếc xe, mắt nhìn cái trang trại không dứt, một tay lơ đãng dùng cây gậy chống vạch lên nền đất ẩm những đường nét vu vơ.

Will ghé mắt vào một trong những ô cửa sổ phía trước của trang trại, cố căng mắt nhìn xuyên qua bóng tối. “Cháu nghĩ là chúng ta nên đi vào trong xem sao,” cậu nói, nhưng không có vẻ tự tin lắm.

“Tớ không nghĩ thế đâu.” Simon nói. Nó đến đứng bên cạnh Will, và lần này giữa hai đứa không còn căng thẳng nữa, mà chỉ cùng nghiền ngẫm một vấn đề chung. “Vì một lý do gì đó, tớ dám chắc là tên họa sĩ không bao giờ đi vào trong. Trông nó rõ ràng là không hề bị ai động vào kể từ lần trước. Có vẻ như hắn chỉ ở một mình trong căn nhà lưu động thôi thì phải. Hắn thuộc loại người thích riêng biệt.”

“Đúng là rất riêng biệt.” Giọng nói trầm trầm của Merriman vang qua sân đến chỗ chúng. “Một kẻ kỳ lạ thuộc phe Bóng Tối, được cử đi chỉ với nhiệm vụ ăn cắp chiếc chén Thánh và giấu nó đi. Chúng đã chọn đúng lúc, bởi vì khi ấy chúng ta đang mất cảnh giác, ngỡ rằng chúng quá bận rộn liếm cho lành vết thương sau khi bị đánh bại thảm hại đến vậy... Nhưng tên sứ giả của Bóng Tối ấy đã sẵn sàng phản bội lại các chủ nhân của hắn, hắn có những ý tưởng táo bạo hơn nhiều. Hắn biết những lời đồn đại về bản viết cổ, và tưởng rằng mình có thể bí mật đoạt lấy nó cho bản thân, để ghép trọn vẹn một Pháp Vật, và dùng nó làm một thứ tối hậu thư để biến mình thành chúa tể vĩ đại của phe Bóng Tối.”

Jane hỏi, “Nhưng chẳng lẽ chúng không biết hắn đang định âm mưu gì ạ?”

“Chúng không chờ đợi hắn hoàn thành vượt mức nhiệm vụ của mình” Merriman đáp. “Chúng biết rõ, có lẽ còn rõ hơn cả chính bản thân hắn, về số phận vô vọng đang chờ đợi bất kỳ kẻ nào dám liều lĩnh lao vào một cuộc hành trình như vậy. Ông và mọi người tin rằng chúng không theo dõi hắn, mà chỉ đợi hắn quay về thôi.”

“Đúng là thế lực Bóng Tối đã bận rộn trong một thời gian,” Thuyền Trưởng Toms tiếp lời. “Chúng phải sửa chữa một số thiệt hại do những gì xảy ra vào giữa mùa đông năm ngoái. Chúng sẽ không lộ diện nhiều đầu, cho đến thời khắc chúng định làm một cuộc nổi dậy lớn nữa.”

Simon chậm rãi nói, “Có lẽ đó là cái mà tên họa sĩ định nói tới khi hỏi Barney, Ta có bị quan sát không? Mọi người có nhớ không? Cháu cứ tưởng hắn đang nói về mọi người, nhưng chắc hẳn hắn đang nói tới những chủ nhân của hắn.”

“Barney đâu rồi?” Will hỏi, đưa mắt nhìn quanh. “Barney? Barney ơi!”

Một tiếng kêu lúng túng không nghe rõ vang lên đâu đó phía bên kia ngôi nhà.

“Ôi trời ơi,” Jane nói. “Giờ thì nó lại định giở trò gì nữa đây?”

Bọn trẻ vội chạy về phía có tiếng kêu, Merriman và Thuyền Trưởng Toms theo sau chậm rãi hơn. Một mớ rậm rạp toàn cỏ dại, tầm ma và mâm xôi mọc lộn xộn ở bên cạnh căn nhà cũ, và khắp quanh những gian nhà phụ ở đằng xa.

“Ui!” Barney hét lên đâu đó bên trong bụi rậm. “Em bị gai đâm rồi!”

“Em đang làm cái quái gì thế?”

“Em tìm con Rufus.”

Chúng nghe thấy một tiếng sủa như bị bịt lại; hình như nó phát ra từ một trong hai căn nhà phụ ở xa hơn, một nhà kho cũ bằng đá, mái đã đổ xuống một nửa trông rất nguy hiểm.

“Ui!” Barney lại la lên. “Cẩn thận đám tầm ma đấy, gai sắc lắm... Rufus cứ sủa mà không chui ra, em đoán là nó bị kẹt rồi. Nó chạy đường này.”

Thuyền Trưởng Toms tập tễnh bước tới. “Rufus!” ông gọi rất to và nghiêm khắc. “Ra đây! Ra đây ngay!”

Thêm nhiều tiếng sủa dữ dội nghèn nghẹt nữa phát ra từ cái nhà kho xiêu vẹo, kết thúc bằng một tiếng rền rĩ khụt khịt.

Thuyền Trưởng Toms thở dài và giật giật chòm râu bạc. “Con chó ngu ngốc,” ông nói. “Các cháu tránh ra một phút. Cẩn thận nhé, Barney.” Ông vung cây gậy nặng sang hai bên như thể nó là một cái hái và từ từ tiến tới trước, mở một lối đi qua những đám tầm ma và bụi rậm tới những bức tường đá đã vỡ vụn của nhà kho. Tiếng sủa của Rufus phát ra từ bên trong càng cuống quít hơn.

“Im đi nào,” Barney gọi to, bây giờ nó đang bám theo sau ông thuyền trưởng. “Bọn tao đến đây!” Nó loay hoay chui qua những bụi rậm đến chỗ một cánh cửa gỗ đã mục nát, lủng lẳng trên tấm bản lề, và ngó qua cái khe hở hình chữ V ở giữa bức tường và cánh cửa. “Chắc nó đã chui vào đó và làm đổ thứ gì đó xuống chặn mất khe hở... cháu có thể chui vào được, nếu...”

“Cẩn thận đấy.” Jane nói.

“Tất nhiên rồi,” Barney đáp. Nó ép người chui qua cánh cửa nằm nghiêng, đẩy sang bên một cái gì đó làm nó rơi xuống loảng xoảng, rồi biến mất. Trong nhà kho vang lên một tràng những tiếng sủa mừng rỡ, và rồi Rufus nhảy chồm ra qua khe hở, lưỡi thè ra, đuôi vẫy loạn xạ. Nó lao tới chỗ Thuyền Trưởng Toms. Người nó rất bẩn, bộ lông đỏ lấm tấm đầy những mẩu gỗ mục ẩm ướt, và mũi thì dính toàn mạng nhện.

Thuyền Trưởng Toms lơ đãng vỗ về nó. Ông đang nhìn vào căn nhà kho, lông mày hơi cau lại vẻ bối rối. Rồi ông liếc nhìn Merriman dò hỏi; đưa mắt nhìn theo ông, Jane thấy cùng một vẻ như vậy hiện lên trong mắt ông bác của em. Họ làm sao thế nhỉ? Em chưa kịp hỏi thì Barney đã thò đầu ra khỏi cửa nhà kho. Tóc nó bù rối và một bên má bị nhọ, nhưng Jane chỉ chú ý tới cái vẻ đờ đẫn vô cảm trên mặt nó. Nom nó như vừa bị một cú sốc choáng người vậy.

“Ra khỏi đó đi, Barney,” ông Merriman nói. “Cái mái ấy không an toàn đâu.”

Barney nói, “Cháu đang định ra đây. Nhưng, ông Gumerry ơi, cho anh Simon vào đây một phút được không ạ? Chuyện quan trọng lắm.”

Merriman nhìn từ Thuyền Trưởng Toms sang Will rồi lại quay lại nhìn Barney. Khuôn mặt nghiêm nghị của ông hết sức căng thẳng. “Được rồi. Một lát thôi đấy nhé.”

Simon chạy qua chỗ họ để chui vào khe hở. Sau lưng nó, Will rụt rè nói, “Tớ vào cùng có được không?”

Jane nhăn mặt, chờ đợi một câu từ chối lạnh nhạt không thể tránh khỏi, nhưng Simon chỉ đáp gọn, “Được. Vào đi.”

Hai đứa chui vào theo sau Barney. Simon hơi rụt lại khi một cạnh gỗ có dằm sắc cào xước tay nó; khe hở hẹp hơn là nó tưởng. Nó loạng choạng bò dậy và đúng ho sù sụ trong khi Will bò theo sau. Sàn nhà đầy bụi, và khi mới ở ngoài vào thì khó mà nhìn rõ được trong ánh sáng lờ mờ từ những ô cửa sổ bẩn thỉu, um tùm đầy dây leo.

Simon chớp chớp mắt và thấy Barney vẫy nó lại.

“Ở đây. Nhìn này.”

Nó đi theo Barney đến đầu bên kia nhà kho, vừa đi vừa tránh những thanh xà và khúc gỗ chất đống khắp nơi trên sàn. Và rồi nó đứng sững lại.

Trước mặt nó, lờ mờ như một bóng ma trong cái góc tối dưới chỗ mái đổ, là căn nhà lưu động kiểu di gan, hình dáng và trang trí y hệt như căn nhà nơi chúng đã gặp tên họa sĩ của thế lực Bóng Tối. Vẫn những bức tường cao ngả ra ngoài đó, vẫn những miếng gỗ chạm trổ ghép vào cái mái hiên chìa ra bên dưới mái gỗ. Ở đầu kia là cái càng xe để cho ngựa kéo, và đầu này là một cánh cửa, cánh cửa có hai phần mở ra mở vào, giống như cửa chuồng ngựa - nối với một cầu thang gỗ có sáu bậc dẫn lên. Và bậc thang trên cùng chính là bậc thang mà chúng đã đứng, vào lúc cuối...

Nhưng tất nhiên đây không thể là cùng một căn nhà lưu động được. Căn nhà này không sạch sẽ sáng bóng lên nước sơn mới như căn nhà kia. Nó chỉ có những bức tường bụi bặm mòn vẹt, còn sót lại đây đó những mảng sơn từ đời nào, đã bong tróc cả. Cái càng xe đã gãy, và phần trên của cánh cửa đôi thì lủng lẳng dính vào nửa tấm bản lề. Nó chỉ là một vật cũ kỹ, cà khổ, không được sử dụng, không được chăm sóc, những tấm kính trên các ô cửa sổ đã vỡ từ lâu. Chắc hẳn nó vẫn ở nguyên đấy trong nhiều năm từ khi mái căn nhà kho cũ bắt đầu sụp xuống, cứ nhìn những thanh xà cùng sức nặng còn lại của chúng vẫn đang nằm mục ruỗng trên mái ở đầu kia nhà kho thì biết.

Nó chỉ còn là một di vật, một món đồ cổ. Simon nhìn không chớp mắt. Cứ như thể nó đang được gặp ông cố của một đứa bé mà nó biết rất rõ, và phát hiện ra rằng ông cụ ấy có bộ mặt y hệt như đứa bé kia, chỉ có điều đã già hơn rất, rất nhiều, đến mức không thể tưởng tượng nổi.

Nó mở miệng và nhìn Barney, nhưng không nghĩ ra được câu gì để nói cả.

Barney nói dứt khoát, “Hẳn nó đã ở đây hàng bao nhiêu năm rồi. Từ lâu trước khi bọn mình ra đời ấy chứ.”

Will hỏi, “Các cậu có nhớ rõ bên trong căn nhà lưu động của tên họa sĩ trông như thế nào không?”

Nghe thấy tiếng cậu, cả Simon lẫn Barney đều giật nảy người, chúng đã quên bẵng mất là cậu đang ở đó. Giờ chúng liền quay lại; Will đang đứng gần cửa nhà kho, nửa người bị khuất trong bóng tối, chỉ có khuôn mặt bình thản dễ mến của cậu là hiện ra rõ ràng trong ánh sáng.

Barney đáp, “Nhớ khá rõ.”

“Còn cậu thì sao, Simon?” Will hỏi. Không đợi nghe câu trả lời, cậu nói tiếp, “Barney không nhớ là đã nhìn thấy chiếc chén Thánh. Nhưng cậu thì nhớ rõ tất cả, ngay từ lúc nó lôi cái hộp đựng chiếc chén ra."

“Đúng thế” Simon nói. Thích thú mơ hồ, vô tư, nó nhận ra rằng đây là lần đầu tiên nó lắng nghe Will như thể cậu hơn tuổi nó mà không hề thấy bực bội hay muốn cãi lại.

Will không nói gì thêm. Cậu đi ngang qua sau lưng chúng để đến chỗ mấy bậc thang ở cuối căn nhà lưu động cũ kỹ, dùng ngón chân đẩy đám vôi vữa đổ nát bụi bặm ngổn ngang sang một bên. Cậu bước lên các bậc thang. Cậu nắm lấy nửa trên cánh cửa lủng lẳng như sắp rời ra, và nó rời khỏi tay cậu luôn khi tấm bản lề rỉ sét nát vụn ra như cám. Rồi cậu giật mạnh nửa dưới, và nó miễn cưỡng mở về phía cậu, kêu kẽo kẹt chậm chạp như một cánh cổng trang trại cũ.

“Barney," cậu nói. “Em có ngại chui vào trong không?”

“Tất nhiên là không rồi,” Barney quả quyết, nhưng bước chân của nó tiến về cửa căn nhà lưu động rất chậm chạp và ngập ngừng.

Simon không nói gì để động viên Barney. Nó chỉ nhìn Will, giọng Will giờ lại có một vẻ dứt khoát và quả quyết cứ vang vọng mãi một cách khó hiểu trong đầu nó, cũng như lần trước.

“Simon,” Will gọi. “Chính xác là tên họa sĩ đã nói gì khi hắn chỉ cho Barney chỗ để tìm thấy chiếc chén?”

Mắt nhắm hờ lại, tập trung tư tưởng hết mức, Simon đẩy trí óc mình đi ngược thời gian và tìm kiếm trong ký ức xem thấy được gì. “Hai anh em tớ đứng ở khoảng giữa nhà,” nó nói. Như người mộng du, nó đi lên những bậc thang cũ kỹ lung lay, bàn tay đặt lên vai Barney nhẹ nhàng đẩy nó tới trước, rồi cùng với Will theo sau, hai đứa đi vào gian phòng nhỏ bên trong căn nhà lưu động.

“Và vì Barney kêu khát, nên gã đàn ông đó bảo, ‘Ở cái tủ bên chân phải của cậu, cậu sẽ thấy mấy lon Sô đa. Và... và trong đó có cả một chiếc hộp các tông nữa, cậu hãy đem nó ra luôn thể’ Nên Barney đã lôi nó ra."

Barney quay đầu lại và lo lắng nhìn Will, và cái cậu Will mà lại chẳng giống với Will ngày thường ấy mỉm cười khích lệ đáp lại, như thể rốt cuộc thì đó vẫn chỉ là cái cậu nhóc ngu ngơ mà chúng đã gặp trong những ngày đầu của kỳ nghỉ lạ lùng này. Vậy là Barney liền nhìn xuống chân phải của mình, và thấy bên cạnh nó là một cái tủ nhỏ, cửa đã mất nắm đấm với bụi bặm bao nhiêu năm trời bám lưu cữu trên đó; nó quỳ xuống, phủi đám bụi đi và dùng móng tay cậy cho đến khi bám chắc được vào cánh cửa nhỏ và mở ra. Khi cuối cùng cánh cửa cũng bật mở, nó mò mẫm bên trong và lôi ra một cái hộp các tông méo mó, ẩm ướt, bốc mùi ghê cả người.

Nó đặt cái hộp lên sàn nhà. Cả ba đứa lặng im nhìn chằm chằm vào chiếc hộp. Từ bên ngoài nhà kho vẳng tới tiếng gọi yếu ớt của Jane, “Mọi người có sao không? Này, ra đi chứ!”

Will khẽ bảo, “Mở nó ra đi.”

Chậm rãi, miễn cưỡng, Barney nắm lấy nắp hộp. Miếng các tông cũ mục ra trong tay nó, và ánh sáng tỏa ra làm mắt chúng chói lòa, ánh sáng vàng rực rỡ tràn ngập khắp cả cái đống điêu tàn đổ nát xưa kia vốn là căn nhà lưu động. Và kia, lấp lánh trước mắt chúng, là chiếc chén Thánh.