- 2 -
4
Phải một lát sau cô mới hiểu ông muốn gì. Vì sao ông ngập ngừng khi chạm vào cô, trong khi chính cô không muốn gì hơn thế những lúc ông đến đón cô đi dạo, vì giờ đây hầu như hôm nào họ cũng đi dạo. Trời vẫn tiếp tục hơi lạnh, nhưng đã hết mưa, thậm chí hửng nắng, họ có thời gian, họ có thể đi dạo thật lâu, tay trong tay, nhưng Dora vẫn còn cảm giác run rẩy, tựa như cô có thể đánh mất ông trong nháy mắt. Cô không hiểu một số điểm ở ông, chẳng hạn khi ông tự nói xấu mình trước mặt cô thì ông muốn biết, liệu cô có thấy đó là nghiêm túc. Hay chẳng hạn, ông có thể nói, em muốn biết sự thật không. Hoặc ông nói, ông chỉ có thể làm cô sợ ông, và sau đó cô cười nhạo ông và lắng nghe ông nói, tựa như ông đang nói về một người đàn ông mà cô không quen.
Họ ngồi trên chiếc ghế băng giữa rừng, và ông không ngớt tự làm khó mình. Ông hình dung ra hai người ở Berlin, dĩ nhiên khi đã có phòng ở, thì tình cảnh sẽ ra sao. Ông muốn cô ở gần ông nhiều như có thể, nhưng ông cũng phải ở một mình, nhất là khi ông viết. Ông hay đi dạo hàng giờ trong thành phố, vì trong khi đi các hình ảnh sẽ xuất hiện, từng câu một, sau đó ông chỉ việc viết chúng ra giấy. Ông chỉ viết về đêm. Khi viết ông là một người rất khó chịu. Nhưng bây giờ ông đang cười. Cô cho rằng lời tự thú đó không đáng sợ lắm. Nghe có vẻ lạ tai, nhưng không mang tính đe dọa. Vậy anh ấy sợ gì? Sợ mình à? Anh sợ em hay sao? Sợ em quấy rầy anh? Nếu em quấy anh thì em sẽ đi, cho đến khi anh ra hiệu cho phép em quay lại. Cô nửa đùa nửa thật, nhưng ông có vẻ yên tâm. Mấy tuần nay hầu như ông không viết được gì, có thể ông không viết được nữa chăng, nhưng nghe giọng ông không có vẻ như ông tin điều mình nói. Thế đấy, em hiểu không? Cô không chắc có hiểu không, nhưng lúc đó ông hôn cô. Ông ước được ở nơi nhiều cây xanh, cô nói “vâng” và lại “vâng” lần nữa, trên ghế băng giữa rừng. Đôi khi anh không tin nổi mình đang có em, ông nói.
Ông vận bộ com lê mới, màu lam đậm, gần như đen, kẻ sọc trắng li ti, sơ mi trắng, gi lê, chiếc cà vạt thì cô đã quen.
Cô viết cho người bạn là Georg, rồi viết cho Hans. Hans đã gửi cô hai bưu thiếp, mấy thông điệp nguệch ngoạc mà cô không biết trả lời ra sao. Ẩn sau những dòng chữ là lời nhắn rằng anh nhớ cô, anh không trách cô, nhưng chính vì vậy mà cô ngại nhờ vả anh. Từ khi quen ông tiến sĩ, cô nhìn Hans bằng cặp mắt khác, tựa như anh nhỏ hẳn đi, như một người mà ta không cần phải chú tâm quá mức ở tư cách đàn ông, vì anh, giống cô, mới hai lăm tuổi. Mặc dù vậy cô phải viết cho anh, bố anh là kiến trúc sư, có nhiều quan hệ, và cô cần những quan hệ đó. Ông tiến sĩ là người cô làm quen ở bờ biển và cô muốn giúp ông. Cô cảm giác giọng mình hơi khách sáo. Tháng Chín cô sẽ về Berlin, cô thông báo, hy vọng anh khỏe, nghe gần giống như cô không quan tâm lắm đến việc anh có khỏe hay không. Nói cho đúng thì cô không nợ nần gì anh cả. Hai người có đôi ba lần đi xem phim, và chỉ có vậy, ít nhất là về phần cô. Cô vui mừng vì ông tiến sĩ không hỏi về Hans, vì nếu vậy sẽ làm cô lúng túng, cứ như người ta phải xấu hổ vì một người như Hans. Sau đó, vào buổi chiều, họ lại muốn đi dạo, ông tiến sĩ hứa mua kem cho bọn trẻ con trong làng, vì vậy có thể họ đi muộn hơn.
Hôm qua, trên đường về ông nói với cô, ông không thể sống một mình ở Berlin. Chỉ vì gặp cô mà ông nghĩ đến Berlin. Chẳng hạn ông không biết nấu nướng. Liệu ở Berlin cô có nấu ăn cho ông không? Ông hỏi như một gã học trò ngô nghê. Ông không thể ép buộc cô làm việc đó. Cô ôm ông, hôn ông và nói, ông khiến cô hạnh phúc xiết bao, mặc dù mấy hôm nay cô nhận thấy ông ít động vào thức ăn cô nấu. Ông sút cân từ khi cô quen ông, và bây giờ ông muốn được cô nấu ăn cho ở Berlin.
Elli cũng nói rằng ông anh trai không làm cô vui, ông không chỉ sút cân, mà hầu như sáng nào cũng sốt, một phần do thời tiết lạnh, thật đáng tiếc. Họ thoáng gặp nhau ở sảnh. Dora hiểu lời cô em gái là một câu trách ngầm, tựa như lâu nay nhiệm vụ của cô là chăm lo sức khỏe của ông tiến sĩ. Trong bữa tối với lũ trẻ mới đến, ông bỏ mứa phần lớn và quả quyết đã ăn trước ở nhà. Đừng giận anh, ánh mắt ông nói, nhưng nếu cô nghĩ cho kỹ thì nghe như là: Em không hiểu chuyện đó, em còn không hiểu nhiều chuyện nữa, mặc dù vậy em rất đáng yêu trong mắt anh.
Em là cứu tinh của anh, ông nói. Vậy mà anh đã từng không tin vào cứu tinh nữa.
Nếu người ta có thể chết vì hạnh phúc thì nhất quyết điều đó phải xảy ra với anh, và nếu người ta có thể nhờ hạnh phúc mà sống sót thì anh sẽ sống sót.
Trước khi chìm vào giấc ngủ, nghĩ đến ông, cô vui sướng nhất vì được ông gọi em, vì ông luôn ân cần khuyên bảo cô, cứ làm như cô không tự biết mình là ai vậy. Anh đã nói gì về cái áo dài của em chưa nhỉ, ông nói, và vài phút sau: Nào, đọc cho anh nghe chút gì đi, vì nếu họ không đi dạo thì cô phải đọc cho ông nghe tiếng Hebrew. Cô đã đọc từ cuốn Jesaja, ông thích nhất các nhà tiên tri. Anh có thể ngồi hàng giờ nghe em đọc, ông nói. Hoặc ông bảo: Anh muốn gối đầu vào lòng em, khi nào đủ dũng cảm thì anh sẽ xin phép em.
Thời tiết tiếp tục là một thảm họa. Chừng nào cô vẫn còn được ngồi trong bếp với ông thì đó chỉ là chuyện vặt, nhưng bỗng dưng giờ đây ông và hai em gái lại có kế hoạch rời Müritz. Karl, chồng Elli, đã đến. Ngay trong bữa sáng đầu tiên họ bàn bạc kỹ chuyện ông tiến sĩ không ăn và xuống cân chưa từng thấy. Buổi chiều ông kể cho cô biết. Valli gợi ý nên ra đi, thậm chí bọn trẻ cũng chẳng phản đối nhiều; từ khi không được ra biển, chúng sinh hư. Dường như ông không mấy thích thú về triển vọng sắp tới, ông không hề khẳng định lịch xuất hành đã được quyết định, song sớm hay muộn thì tất nhiên họ cũng sẽ ra đi, và điều đó, tiếc thay, có nghĩa là ông cũng ra đi, vì ông không thể ở lại một mình nếu thiếu các cô em gái.
Thoạt tiên cô không muốn tin. Nhưng tại sao không, cô hỏi. Và thế nào là “một mình”? Anh mà “một mình” à? Cô muốn nói là cô chưa hề được nếm quả ngọt từ ông, thêm nữa, cho đến nay họ lúc nào cũng chỉ có vài tiếng đồng hồ với nhau, cô không thể bỏ đây mà đi được, nếu bỏ đi được, cô sẽ không ngần ngại đi theo ông. Ông tiến sĩ cố xoa dịu, thì đã có ai quyết định ra đi đâu, cho dù ông phải thừa nhận là ông xuống cân không ít, có thể họ sẽ tìm được một địa điểm thích hợp hơn trong mấy tuần tới.
Họ đứng trong phòng ông, giờ đây cô không thể nhìn vào mặt ông, khi đã hiểu ông chỉ còn ở đây vài hôm nữa. Cô nhận ra mình chưa bao giờ tin vào giờ phút ra đi. Cô cứ nghĩ, khi kỳ nghỉ hè chấm dứt hai người sẽ đi thẳng về Berlin. Bây giờ đến lượt cô phải tính toán lại kế hoạch. Ông tiến sĩ đứng áp sau lưng cô, cô cảm nhận hai bàn tay ông trên bụng cô, cách ông lùa ngón tay vào tóc cô, mũi ông hít mùi cô. Ông nói: Kế hoạch của chúng mình sẽ không thay đổi một li nào cả. Anh thậm chí không cần phải hứa với em điều đó, vì nếu anh hứa thì cũng có nghĩa là anh còn hoài nghi; càng sớm rời khỏi đây anh sẽ càng nhanh đến Berlin. Cô không chắc có nên tin không, hay đó chỉ đại loại như cái đĩa màu đỏ của Tile, một thứ cốt để người ta đem theo về nhà rồi mới không rõ nên làm gì với cái của nợ ấy. Mai cô Puah đến, ông kể, anh nghĩ là em sẽ mến cô ấy. Suốt từ nãy ông không buông cô ra, cả hai vẫn đứng trước bếp lò trong bếp, tay ông ấm áp, như một sự an ủi mơ hồ, nhưng cũng chỉ thế thôi.
Quả thật cô mến Puah ngay. Puah tới đây không chỉ vì ông tiến sĩ, nhưng người ngoài nhận thấy ngay là họ thân nhau. Ông học tiếng Hebrew ở chỗ Puah, ngoài ra Puah dạo này cũng sống ở Berlin, vậy có thể gọi đó là mối quan hệ kép. Trước mặt Puah ông không hề nhắc đến kế hoạch đi Berlin của hai người. Ông khen nhà nghỉ mát, rồi bọn trẻ con, tuy nếu phải nói thực lòng thì ông thấy chúng không còn đáng yêu nhiều như dạo trước, khi tối nào mọi người cũng vừa ăn vừa hát trong vườn. Nghe ông kể cứ như đó là chuyện ngày xửa ngày xưa. Đây là Dora, ông nói, và trong tai Dora ngân lên: nhìn này, đây là điều kỳ diệu đã xảy ra với anh đấy. Tiếc là ông sắp rời khỏi đây, ông kể vào buổi tối, khi tất cả ngồi bên nhau. Không phải ai cũng đồng ý với quyết định ấy, ông phản đối quyết liệt nhất. Puah nói: Vậy thì mình gặp nhau ở Berlin chứ sao. Sau đó họ trò chuyện hồi lâu về Berlin, nghe như ở đó cái gì cũng tồi tệ, thật đấy, cứ như ở bất cứ đâu cũng đều hay hơn Berlin, nơi cảnh sát phải bảo vệ các quầy bán khoai tây và Ngân hàng Quốc gia mỗi ngày in mới hai triệu tờ bạc. Mọi người ở xó nhà quê này có nắm được tin tức không? Ông tiến sĩ cười và nói, ở đây cũng có báo, nhưng Dora không chú ý nghe, cô nhìn ánh mắt của người phụ nữ tên Puah. Cô ta thích ông tiến sĩ, cô ta lùa tay lên tóc khi nói chuyện với ông, châm chọc thứ tiếng Hebrew của ông và nói, ông là học trò thông minh nhất của mình. Nhìn xa người ta dễ tưởng Puah là chị gái của Tile, Dora gần như kiêu hãnh khi thấy Puah thích ông tiến sĩ, Dora không ghen, hay chỉ ghen chút xíu thôi, ngày đầu cô cũng từng ghen với Tile, nhưng rồi ông vào bếp đứng với cô và chỉ thích mình cô mà thôi.
5
Từ khi biết ông sắp ra đi, cô ngày càng kiệm lời. Ông tiến sĩ cam đoan với cô nhiều bận là mọi chuyện đã được quyết định, mặc dù vậy ông vẫn bồn chồn và đầy ngờ vực. Từ mấy hôm nay ông hầu như không ngủ, ông đau đầu, và chứng đau đầu càng không đỡ khi người ta thay đổi địa điểm, thời tiết cũng chẳng giúp gì, dù rốt cuộc thời tiết đã có vẻ khá hơn. Buổi chiều tất cả ra bãi biển. Vậy thì tại sao ông không ở lại đây? Ông nói với Dora: Cũng vì Berlin. Như trên đường tới đây, lúc quay về ông muốn ghé qua Berlin một chút để ngó nghiêng, đi dạo ở quận này quận kia, và vài tuần nữa, khi sức khỏe đã khá hơn, ông sẽ quay về đó mãi mãi. Còn ba hôm nữa. Ông mệt. Dora day trán và thái dương ông một lúc, ông cảm nhận được nỗi buồn của cô, ông đã từ chối bữa tối ở nhà nghỉ mát.
Ông sợ sẽ làm cô thất vọng. Ông bỏ cô đi, ông không thể nói tương lai ra sao, riêng đó đã là một nỗi thất vọng. Không, cô nói. Anh không cần nói nữa. Sau đó cô ngồi khoanh chân trên cát trước mặt ông, mỉm cười, vẻ hơi dò hỏi, vì đó là lần cuối cùng họ ngồi đây, trời ấm dễ chịu, Dora thấy mọi thứ tuyệt vời, gần như trong những ngày đầu tháng Bảy, trước khi ông phát hiện ra cô.
Mặc dù chưa gói đồ đạc, căn phòng đã trở nên xa lạ đối với ông. Hôm qua ông còn ngồi ở bàn này, viết cho Tile, và mấy hôm trước - một tấm bưu thiếp gửi cha mẹ, ngoài ra có thể nói ông chẳng viết gì trong cả tháng, đôi dòng nhật ký thì có, nhưng cũng chỉ hời hợt, mấy nét phác, không nhắc đến Dora. Thư của Robert nằm đó mấy hôm rồi. Anh than vãn về chuyện ốm đau hoặc tự tưởng tượng ra bệnh. Ông tiến sĩ không muốn tỏ ra thương hại quá mức, thay vì thế thì chính ông lại than vãn trong thư trả lời của mình, ông nhức đầu và mất ngủ, thứ Hai đi khỏi đây. Lẽ ra ông có thể nhắc tên Dora, thay vào đó ông kể chuyện về khu trại nghỉ hè và vị thế làm khách của mình, đáng tiếc là cái vị thế ấy chẳng rõ ràng, vì có sự chồng chéo giữa quan hệ chung chung và một quan hệ cá nhân. Ít nhất thì bằng cách đó cô cũng được nhắc đến. Không chữ nào về các kế hoạch của ông. Biết nói với ai chuyện ấy? Với Max, người bặt tin từ mấy tuần nay? Với Ottla thì có thể nói chuyện được, và đột nhiên đó là hy vọng của ông, gạt chuyện xuất hành sắp tới qua một bên, hôm nào về ông sẽ bàn bạc với Ottla. Ông ra ngồi ngoài bao lơn để lắng nghe những tiếng nói thân thuộc, không quá lâu, để không quá bịn rịn khi ra đi. Nhất định ông sẽ thấy thiếu những tiếng nói đó, ông nghĩ, biển thì có thể bỏ qua, ông sẽ nhớ cánh rừng, cho dù ở nơi khác cũng có rừng, có những căn phòng để ngồi viết.
Cuộc chia tay chóng vánh và nhẹ nhõm. Ông thấy cô rất cứng rắn, vẫn chiếc áo dài cũ mà trông thấy là ông có thể quỳ xuống, ngay tại đây, giữa căn bếp của cô. Hôm nay ông sẽ không ăn cùng cô, vì ông hứa sẽ ở với lũ trẻ tối cuối cùng, bù lại ông cùng cô ra bờ biển thêm một lần. Chẳng có gì nhiều để nói nữa. Ông xin cô tuyệt đối không tiễn ông ra ga. Vâng, được thôi, cô nói, và ông tiếp lời: Hẹn chóng gặp lại, và đến lượt cô: Vâng, chóng gặp lại.
Lên phòng, ông thấy nhẹ nhõm vì cô đã để ông đi một cách nhẹ nhàng. Ông hứa sẽ đánh điện ngay khi còn ở Berlin, và cô nói: Xin anh đừng quên những gì đã qua, giờ thì đi đi, mọi chuyện sẽ đâu vào đấy cả thôi. Ông bắt đầu gói đồ, bên nhà nghỉ đang bữa tối. Sao cô lại có thể nghĩ ông quên được bất cứ thứ gì. Elli cũng gói xong đồ đạc rồi, các cháu không muốn để ông đi, mãi gần mười giờ ông mới về phòng. Bên nhà nghỉ hè im ắng hẳn, ông quan sát lũ trẻ ngồi dọc cái bàn dài, nhưng không thấy buồn, tựa như ông đã đi khỏi rồi, đang ở Berlin, trên đường tới khách sạn.
Thoạt tiên ông không nghe tiếng gõ cửa, tựa như không tin có ai đã gõ cửa, và đó chính là Dora. Lần này rõ ràng cô không chạy hộc tốc như bữa nọ, ngược lại, cô có vẻ trầm lặng, hơi nhợt nhạt. Cô không khóc, cô nói, nhưng cô đã nghĩ ngợi mất nửa buổi tối bên khu nhà nghỉ hè. Cô muốn cầu xin ông một điều, hãy hoãn chuyến đi vài hôm, vì sáng sớm mai ông không thể và không được phép ra đi. Em xin anh, cô nói, rồi lặp lại: Xin anh. Cô lại ngồi trên tràng kỷ, non nớt và nghiêm trang đến khó tin, tựa như chính cô thấy ngạc nhiên khi bước chân được tới đây. Cô lắc đầu, im lặng một hồi lâu, rồi: Cô không ngờ là nặng nề đến thế. Nhưng không phải vì vậy mà cô đến. Em chỉ luôn nghĩ, anh không thể cứ thế mà đi được. Anh có làm được thế không? Không, ông nói. Lẽ ra ông có thể, nhưng bây giờ không được nữa rồi.
Suốt chuyến đi ông giữ mùi hương của cô, vẳng đâu đó một câu nói, một cử chỉ thoáng hiện, trong khi Felix và Gerti luôn miệng hỏi han, chỉ cho ông xem đủ loại thú vật bên ngoài, phong cảnh trôi qua bằng lặng mênh mông, bầu trời quang mây. Thậm chí còn thấy chim én bay, nhưng bây giờ là đầu tháng Tám, chúng sẽ phải bay tiếp.
Mười hai giờ rưỡi. Họ không nói gì nhiều khi chia tay. Ý nghĩ duy nhất là người ta lầm lẫn biết chừng nào, nhất là lầm lẫn về chính mình, vì phép nhiệm mầu khiến họ choáng váng cho đến giây phút ấy vẫn chưa tan. Cho đến lúc ấy ông vẫn tràn ngập kiên nhẫn và sửng sốt về sự dịu dàng, thông hiểu của cô. Cô rời ông ra, gần như nhẹ nhàng, cô bối rối và hạnh phúc, tựa như giờ đây có một sự che chở, vì cô cũng nói đại ý như vậy. Giờ thì ngủ đi, hứa với em là anh sẽ ngủ. Và quả thật ông ngủ mấy tiếng liền, trong làn không khí có mùi hương của cô, ông ngủ không sâu lắm, tựa như còn dự tính khả năng cô sẽ quay lại, hoặc lần này cô ở bên ông hay ở trong phòng cô bên kia cũng chẳng có gì khác biệt. Thậm chí sáng dậy ông còn ăn được, sáu rưỡi ông tỉnh giấc và gói nốt mấy thứ cuối cùng, nghe ngóng xem có gì làm ông băn khoăn không, một sự phản bội nho nhỏ chẳng hạn, nhưng thay vào đó chỉ có nỗi ngạc nhiên.
Ông tiến sĩ không vội vã với thành phố này, nhất là khi ông đã quen những bước đầu tiên: quầy lễ tân trong Askanischer Hof, nhân viên phục vụ vận đồng phục vác đồ lên phòng, tấm chăn đỏ vàng phủ giường, ghế bành và ghế đẩu, bàn giấy đồ sộ kê trước cửa sổ. Tuy đã hứa với Elli nhưng ông không ra khỏi phòng để đi ăn nữa, và giờ đây, sau một đêm tương đối yên lành và bữa sáng quá thịnh soạn so với thường khi, ông bừng bừng khí thế. Ông làm quen với những đồng bạc tiền triệu mới nhất từ quầy đổi tiền cạnh ga, mua luôn ở đó tất cả các báo Berlin để lát sau, trong quán cà phê, đọc kỹ mục quảng cáo. Giá cả chóng mặt, ít nhất là khi nhìn vào con số. Dora đã cho ông biết nên tìm ở những khu nào, cô nhắc đến Friedenau, ông ưa cái tên đó và thế là ông đi đến Friedenau.
Sau hai tiếng, gần như quyết định của ông đã chín. Khu này rất nhiều cây xanh, yên tĩnh, giống cảnh làng quê, chỗ nào cũng thấy vườn tược và lối đi viền hàng cây, các bà mẹ trẻ đẩy xe nôi, cạnh tòa thị chính Steglitz gần đó có nhiều tuyến tàu điện để nếu cần thì mười lăm phút sau vào đến trung tâm. Ông đánh điện cho Dora, báo đã đến nơi yên ổn và ấn tượng ban đầu của mình. Em có muốn đến Friedenau cùng anh không?
Đến thăm Tile ở hiệu sách vào buổi chiều, ông cũng kể về Friedenau, gần như để bám vào đó mà lấy lại bình tĩnh sau khi chứng kiến những điều khủng khiếp dọc đường, những hình nhân xơ xác xin ăn giữa phố, thêm vào đó là tiếng ầm ĩ váng tai, cảnh chen chúc xô bồ vì đâu đâu cũng ken đặc những người là người. Tile đã đợi ông, chỉ cho ông các tác phẩm của ông trong cửa kính, phía góc trái bên cạnh tiểu thuyết mới ra của Brenner. Cô vui sướng và nhớ ông, cái đĩa màu đỏ được cô giữ gìn như con ngươi mắt mình. Cô pha cho ông một tách trà. Ông ngồi trong căn buồng hẹp phía sau được dùng làm văn phòng, trong khi cô phục vụ người khách hàng cuối cùng bên ngoài và để ông một mình với sự mệt mỏi, hay gọi tình trạng đó là gì cũng được, một khoảng trống trải lờ mờ, nhưng cũng dễ chịu, một khoảnh khắc ngắn, khi thời gian cứ thế bình lặng trôi đi.
Hôm sau ông lại xuống phố, phát hiện ra hai công viên, ngồi một tiếng ở Vườn Bách Thảo, trên ghế băng trong bóng râm, vì hôm nay cũng rất nóng, giống hôm qua, khiến chẳng ai muốn đi một bước. Ông vui mừng mỗi khi nhận ra nét gì đó quen thuộc, chẳng hạn như một vườn thục quỳ giữa những phố im ắng quanh tòa thị chính, một cô bé tóc vàng cầm que chơi đánh vòng trên vỉa hè. Đầu giờ chiều ông gọi kem ở một quán nhà vườn, bắt đầu viết thư cho Max rồi lại để lửng giữa chừng, cảm giác như mình đã bị bỏ rơi. Về sau ông sẽ viết rằng ông cảm nhận ngày càng rõ rệt hơn tác động ác nghiệt của nỗi cô đơn mới kéo dài có một ngày, nhưng lúc này ông chỉ đơn giản ngồi đó, không có cảm xúc gì về địa điểm. Xung quanh ông là các gia đình với con cái, hôm nay thứ Tư, khu vườn không đông lắm, cô bồi bàn phục phịch đem lại quả bóng bay bị tuột dây cho thằng nhỏ đang khóc, khắp nơi có tiếng người lao xao, vài tràng cười, cách đó hai bàn có hai đôi đang trò chuyện về tiền, nói gì đó về va li mà dạo này người ta cần để đựng tiền. Chuyện mới đây ở nhà băng, cô tóc vàng kể, rồi tất cả cười, cứ như thời thế dữ dội này là một chuyện tiếu lâm nhất thời. Sự thảnh thơi của họ an ủi ông tiến sĩ phần nào, ông cố tự nhắc nhở rằng mình đang cô đơn, nhưng chính ông đã muốn thế, vả lại ông không cô đơn, vừa tối qua ông còn đi nhà hát xem vở Kẻ cướp với Tile và hai bạn gái.
Chưa rời khỏi Berlin, ý chí của ông tiến sĩ đã nhụt. Thành phố đã tệ, nhưng những gì đang chờ đón ông còn tệ hơn. Ông ngồi trên tàu hỏa và phải cẩn trọng để không đánh mất cô, như khi cô đứng trong phòng ông, quỵ lụy và đồng thời kiêu hãnh, tựa như không ai làm tổn thương cô được.
Ông cố trang bị cho mình thứ vỏ bọc đó. Elli và Valli sẽ kể cho ở nhà biết ông bị xuống cân mất bao nhiêu, và chuyến đi thất bại; chuyến đi hồi mùa xuân cũng thất bại, song dù vậy, lần nào người ta cũng thất vọng. Họ sẽ ép ông ăn, sẽ không bỏ rơi ông, với cái lắc đầu nhè nhẹ, vào buổi trưa khi ông chưa ngủ dậy, tựa như ông không thể hiểu nổi phải sống sao cho đúng.
6
Cô thực sự không biết chuyện đó; cô hai lăm tuổi và chẳng biết gì ra hồn. Dora chỉ biết ngạc nhiên về chính mình, cô nhảy nhót cười nói, cô dại dột lắm, cho đến khi cô gặp ông, bây giờ cô mới khôn ra.
Cô không mấy bận tâm đến thời gian trước đó. Ngày ấy có chuyện nọ chuyện kia, chủ yếu không có gì đáng nói, lại càng chẳng đáng nói đến Hans, buổi chiều xa xưa với Albert trong khách sạn cũng là chuyện không cần nhắc đến nữa, vậy mà thoạt tiên cô hy vọng một ngày nào đó sẽ sống cùng anh ta, chứ chẳng phải chỉ bị anh ta dắt mũi, như mãi đến lúc quá muộn cô mới hiểu ra và tin rằng mình sẽ vì thế mà không sống nổi. Sự thực là cô hầu như không nhớ gì về anh ta. Kể cả về chính mình, tựa như ông tiến sĩ đã xóa sạch cuộc đời ngày xưa của cô. Cô không biết vì sao lại có thể như thế. Mấu chốt, cô nghĩ, không phải những nụ hôn và vòng tay ôm, không phải những câu ngu ngốc song có thể rất thật mà người ta thốt ra, vào lúc này, khi ông đã đi khỏi và cô có thể thốt lên tất cả: Em thuộc về anh, em không đi đâu cả, nếu anh không đuổi em đi thì em không đi đâu nữa. Việc ông ra đi đương nhiên cô không muốn, nhưng không phải quá sức chịu đựng. Nếu cô không tìm đến ông vào phút chót thì điều đó sẽ là quá sức chịu đựng, nhưng thà như vậy còn hơn, nó giằng xé cắn rứt như một nỗi đau, mà không hề là nỗi đau.
Tiếc rằng ngoài bức điện, cô không biết gì hơn. Một bưu tá trao cô bức điện hôm thứ Ba vừa rồi, khi ông đang ở Berlin.
Cô biết ông không thuộc về cô. Và nếu có, thì đôi bàn tay ông thuộc về cô nhiều nhất, cô nghĩ, và những lời ông nói với cô khi hoàng hôn buông xuống bên ngoài. Đó là những câu cô gần như đã thuộc lòng. Cô thuộc lòng cả buổi tối, tiếng nói của lũ trẻ vẳng lên chỗ họ, không khí im ắng, sự chỉn chu của ông. Cô tin rằng ông ghi nhớ từng ngày với cô, từng lần đầu tiên. Vì với anh, em thấy mọi thứ đều là lần đầu.
Nét chữ của ông là một điều bất ngờ, mềm mại và bay bướm. Lá thư không dài, không gọi tên cô, khiến cô lần mò tìm tên mình, tìm đoạn ông nói về lúc hai người chia tay. Cô tìm được “D. thiên thần”, và ở đoạn dưới: “Em hãy đợi anh ở Müritz”, nghe cứ như vài hôm nữa ông sẽ trở lại.
Ông không thể kể nhiều về tình cảnh mình, gia đình thân mật đón nhận ông, nhưng mặc dù vậy, mặc dù vậy. Nếu không kiệt quệ đến mức ấy thì anh đã quay ngoắt ở sân ga và lên ngay chuyến tàu sớm nhất để đến với em. Ông kể đã đến thăm Tile, rồi kể rất chi tiết về việc thăm thú Friedenau. Hai buổi chiều liền, ông gần như rất hạnh phúc khi đi vòng vòng ở đó. Đâu đâu cũng là vương quốc Dora. Müritz là vương quốc Dora, và xứ Friedenau tuyệt diệu này cũng chẳng kém gì, vì vậy ngày và đêm anh đi lại giữa hai vương quốc đó. Ông không quên bất cứ điều gì. Một vài chi tiết đến tận bây giờ ông mới hiểu ra, cô thật dịu dàng và thông minh xiết bao, cứ như từ xưa nay cô đã biết ông đến từng chân tơ kẽ tóc.
Khoảng nửa đêm, cô đem thư trả lời của mình ra thùng thư, cho đến phút chót vẫn phân vân, vì rốt cuộc cô chỉ ấp úng được vài câu. Thì ra vương quốc Dora là Friedenau? Vậy chúng mình tìm nhà ở Friedenau xem sao. Tình cờ người quen của cô vừa viết rằng anh sẵn sàng giúp đỡ, nhưng anh cần thông tin chính xác như số phòng, giá tiền. Đằng nào thì cô cũng không biết gì nhiều để nói. Cô chỉ muốn ông tả cho cô căn phòng của ông, ông thấy gì khi nhìn ra cửa sổ. Hồi mới quen nhau đã có lần ông kể cho cô hay. Hình như ở đó có một nhà thờ? Tiếng nước ngoài, cô không nhớ nữa. Anh còn nhớ không, nhà tiên tri? Cô ước gì được đọc cho ông nghe, vì đọc cho bọn trẻ thì không giống thế, chẳng gì giống cả, từ khi ông đi khỏi, căn phòng đã có người ở, một bà lão, nhưng, bà ấy có quyền ở đó không?
Cô không đợi. Hễ có dịp là cô đọc những gì ông viết, cô nói chuyện với ông, cô xốn xang, nhưng không choáng váng, ngoài ra cô còn có bọn trẻ, mỗi ngày ba bữa ăn, cô ngồi trong bếp, nơi ông vẫn có mặt, buổi chiều cô ra bãi biển, lũ trẻ trêu chọc cô vì cô lơ đãng, vì đầu óc cô lúc nào cũng để tận đẩu đâu.
Ông gửi tiền cho cô, mấy tờ ngoại tệ mà cô không biết để làm gì. Thoạt tiên cô cho rằng đó là tiền trả trước cho căn phòng, nhưng sau đó cô đọc những gì ông suy tính, thì ra tiền dành cho cô, phòng trường hợp ông không quay lại, vì vài tuần nữa cô sẽ không còn công việc ở Müritz. Cô không bắt buộc phải làm việc ở Müritz. Giọng ông có vẻ phấn khích, tựa như ông tin chắc đã làm đúng việc cần làm, nhưng cô biết ngay là cô không muốn số tiền ấy. Đã gần trưa, cô phải lo bữa ăn đã, mặc dù vậy cô cứ nghĩ tiếp đến món tiền mà ngay hôm nay cô sẽ gửi trả lại, đây là một chuyện hiểu lầm, xin anh hiểu cho, nó hơi có chút xúc phạm, nhưng bảo là cần thiết thì nhất định không. Trong lúc đó cô không hề suy nghĩ, liệu sẽ có lúc cần tiền? Cô có giấy phép cư trú đến cuối tháng Tám, và nếu tới lúc đó ông vẫn chưa đến đây thì sao?
Paul, một trong những người phụ trách, hỏi cô có rắc rối gì. Chị có chuyện buồn à? Paul là sinh viên, anh mến cô, có lẽ cô nên thổ lộ với anh. Nhưng cô không thể. Nói “chuyện buồn” là sai. Từ kinh nghiệm bản thân, cô biết người ta dễ bị thương tổn ra sao. Nhưng hai chữ “thương tổn” cũng sai, vì có lẽ cô sẽ mừng rỡ nếu được ông làm thương tổn, thật, vậy giả sử ông được gặp cô thì cô sẽ nói với ông, nhìn đây này, anh đã biến em thành con người thế nào, ngay việc đó em cũng cho phép anh.
Một cô bé cầm thư ra bãi biển cho cô. Cô vừa dưới nước lên và ngồi xuống cát, cạnh chiếc ghế hộp, nhìn thấy cô bé cầm lá thư, nhận ra từ xa nét chữ của ông, rồi thấy tên mình, theo cách viết của ông, chạy ngang đến nửa phong bì, đọc những dòng đầu cô yên lòng ngay, không phải vì ông xin thứ lỗi về món tiền ngu ngốc, xin lỗi một cách hơi nông cạn, không thuyết phục lắm, mà vì ông nhớ cô, với từng dòng chữ mà cô viết cho ông, vì thiếu cô thì ông không thể sống ra hồn được. Nghe không có vẻ là ông hạnh phúc, cô nghĩ bụng, nhưng bức thư viết hôm qua, ông vẫn chưa yên vị nơi đó. Ngày mai anh sẽ gặp Max, cô đọc, thế là một lát sau cô vẫn sống trong ngày mai, và khi cầm thư lên đọc tiếp thì cô mới ngộ ra rằng ngày mai nghĩa là hôm nay hoặc thậm chí hôm qua. Không một lời nào về căn phòng của ông, khi nào ông dậy, cha mẹ ông làm gì. Chỉ có Ottla xuất hiện ở một đoạn. Ông ngồi bên bàn, nhìn ra cửa sổ, không phải cô nhìn. Thay vì thế, ông viết: Anh vui, khi anh lùa tay vào tóc em trong ý nghĩ mỏi mệt của anh, nhưng dường như chuyện đó không thật. Cả cuộc sống hiện tại của anh không thật, nó cứ thế trôi qua như trong ảo giác, trong khi cuộc sống bên em không diễn ra, nhưng chắc chắn là thật.