← Quay lại trang sách

- 3 -

7

Max ra về rất muộn, mười một giờ hơn. Họ trò chuyện đến ba tiếng, với cảm giác lạ lẫm ban đầu, trong nửa tiếng đầu tiên, khi đề tài duy nhất là ông tiến sĩ. Max kinh sợ ra mặt khi nhìn bạn mình, hỏi ông được bao nhiêu cân, đêm có ho không, có bị sốt không, và ông tiến sĩ lắc đầu, ít nhiều đúng sự thật. Ông thấy yếu trong người, vì vậy ông nằm nhiều, đôi khi đến tận trưa rồi còn thêm nửa buổi chiều, ông đọc, tìm cách ngủ, ra bưu điện, rồi lại lên giường, cố ăn, hầu như không viết được chút nào, tóm lại: Ông làm những gì có thể làm được. Ông đã viết về chuyện Berlin rồi, về khu nhà nghỉ mát, vì từ khi biết khu đó thì ông tiến sĩ không còn như trước nữa.

Tôi đã quen một người, ông kể. Một cô gái miền Đông. Dora. Ông tin cậy cô ngay từ phút đầu. Cô rất trẻ, rất Do Thái, với những nét xa lạ, ông đặt toàn bộ hy vọng vào cô, vì cô sống ở Berlin. Khi nào đủ sức, tôi sẽ đến Berlin với cô ấy. Ông nói thế. Nghe rất điên rồ, ông phỏng đoán. Cậu có thấy tôi điên không? Như một điều kỳ diệu. Đặc biệt, người bạn của ông luôn tin vào những điều kỳ diệu, với Max thì nửa cuộc đời được cấu thành bởi những điều kỳ diệu, và người duy nhất ngờ vực lại là ông tiến sĩ.

Thì ra tình hình bạn mình là vậy. Cậu nghĩ sao? Max chỉ có thể nói là ông rất mừng, ông không mừng cho ai bằng cho ông tiến sĩ. Như để chứng minh điều đó, Max ôm ông. Và hỏi, ông có ảnh của cô không, hy vọng sớm được làm quen với cô. Ông tiến sĩ nói: Tôi không hề biết là trên đời này có một sinh thể như cô ấy. Cô ấy rất mỏng manh, không biết nói thế có đủ không, nói trôi chảy tiếng Do Thái và tiếng Hebrew. Tôi nặng 59 cân, ông nói. Max, ông hỏi, với 59 cân, tôi có thể đi Berlin không? Tất nhiên ông không thể đi được. Ông phải kiên nhẫn. Berlin có chạy mất đâu mà sợ, người bạn khuyên. Thành phố như đang trong cơn sốt, bạn gái Emmy của ông kể thế, có lẽ điều tồi tệ nhất ở đó còn chưa xảy ra.

Ông đứng đọc thư cô bên cửa sổ, yên lòng vì cô không giận, quả thật món tiền không hề được nhắc tới. Cô đang ở bãi biển. Ông gần như có thể hình dung cảnh cô ngồi viết thư, tựa như ông không ở xa. Mọi thứ gần gũi và quen thuộc. Khi cô viết, vừa có chiếc tàu hơi nước cập vào cầu bến, ông biết ngay cảnh tượng đó, đủ các loại mệnh phụ khoác ô sặc sỡ vịn tay các đức ông chồng bận bịu, đi đầu là đám trẻ con ăn vận bảnh bao, một vài con chó, trông cô thật trẻ trong y phục đoan trang, một thiếu nữ vui vẻ. Phần lớn cảnh trí hiện ra trước mắt ông: chân trời trắng mờ, bọt sóng bập bềnh bên bờ nước, mặc dù vài thứ đã tan biến, như mùi nước lúc ban mai, màu sắc, chi tiết mà tiếc rằng ông đã không để tâm đúng mức, một cái trâm cũ gài trên áo Dora, đôi giày, những ngón chân của cô với một điểm bất thường nào đó. Mắt cô xanh pha xám. Ông biết ánh mắt của cô, nhưng có lẽ không hẳn ánh nhìn mà là tác động của nó đánh trúng ông, ngay cả lúc này, khi ông đọc thư cô, một người phụ nữ miền Đông hai lăm tuổi.

M. ngày ấy cũng hai lăm, khi ông gặp cô. Trước M. là F., cũng ngần ấy tuổi, chỉ Julie nhỉnh hơn vài năm. Rõ ràng từ mấy năm nay ông chỉ làm quen phụ nữ ở tầm tuổi ấy. Điều đó nói gì về ông, một người nay đã tứ tuần? Ông trẻ lâu chăng? Hay ông không chịu trưởng thành? Dễ nhận ra họ hầu hết đều là người Do Thái. Cô gái người Thụy Sĩ thì không, M. cũng không. Vì gặp M. ông đã xé nát trái tim Julie. Giờ đây, với khoảng cách nhiều năm, ông thấy khó tin nổi ngày xưa mình có thể làm được những việc ấy.

Dora viết, mọi thứ nhớ ông. Cát nhớ ông, nước, nhà nghỉ mát, bàn và ghế, bốn bức tường phòng em, khi đêm đến em không ngủ được và ở đâu cũng thấy thiếu anh.

Tối Chủ nhật, ông tiến sĩ nằm trên giường, lắng nghe tiếng ồn ào ngoài phố, tiếng mẹ bên kia phòng bếp, tiếng cha đi lại, tiếng chuông đồng hồ cây, và trong những khoảnh khắc im ắng ông nghe nhịp tim mình xa lắc xa lơ, tiếng mạch máu đập hai bên thái dương, như ông tưởng tượng ra, không mệt hẳn, ông ngủ lơ mơ, chẳng nghĩ gì rõ rệt. Ông chỉ thấy may mắn vì Dora không thấy ông trong tình trạng này. Nếu vậy thì ông sẽ nhảy phắt khỏi giường vì ngượng, nói cho cùng có khi như thế lại hay, vì không có Dora có thể ông sẽ không ra khỏi giường nữa. Ông nằm trên giường và đồng thời quan sát từ cửa vào, cách mình nằm, ánh mắt mình nhìn mẹ luôn tay đem thứ gì đó vào, vừa rồi là một cốc sữa lên men, vì đến bữa ông không ăn được mấy.

Cho đến giờ không ai hỏi ông gì cả, từ chuyện ở Müritz đến tương lai sắp tới. Mẹ có bâng quơ hỏi ông, giọng hơi thương hại hoặc cũng có thể dằn dỗi. Bà biết ông không thích về nhà, và ông không thấy thoải mái, chỉ cắn răng chịu đựng những ngày ở đây. Như mọi khi, ông đánh giá mẹ không đúng mức, chẳng hạn trong việc bà không muốn tin rằng chuyến đi thất bại. Bà nói: Mẹ hy vọng con đã có thêm một kinh nghiệm ở Đức để con vui, để con nhớ lại. Ông tiến sĩ bất ngờ, đồng tình với mẹ ngay, vâng, một vài thứ làm con rất vui. Mẹ: Thế thì tốt. Mẹ vui lắm. Và đến cửa bà còn ngoảnh lại lần nữa. Cha cũng lo lắm đấy. Mọi người trong nhà đều lo.

Mẹ đã gần bảy chục, trông mệt mỏi, hay thở dài, chủ yếu là với chính mình, sầu muộn bởi nhân tình thế thái.

Mấy hôm trước ông ký hợp đồng với nhà xuất bản rồi gửi đi Berlin. Ông chỉ việc viết tên mình ở cuối là xong, tựa như đó là bước đầu tiên mà tuy ông chỉ thuận tình một nửa, song cũng buộc phải làm để khỏi mất lòng tin.

Báo ngày nào cũng viết về đồng mark trượt dốc không phanh và điều đó xô người Đức ngày càng sâu vào nỗi bất hạnh do chính họ gây ra. Với một tốc độ ma quái: 7 vạn mark một lít sữa, 20 vạn một ổ bánh mì, đồng dollar chạm ngưỡng 4 triệu. Trời đất ạ, tiền thuê nhà sẽ là bao nhiêu, nếu tìm được một căn phòng?

Ottla gửi bưu thiếp, hỏi thăm sức khỏe ông và hỏi có thể làm gì giúp ông. Ông tiến sĩ không biết trả lời ra sao. Mấy hôm trước ông bắt đầu một lá thư viết cho cô, nói bóng gió đến những gì xảy ra với ông ở Müritz và chuyện đó có ý nghĩa gì với ông. Lá thư không được gửi đi. Ottla còn nhiều mối lo lắng khác chứ không chỉ một ông anh ngẩn ngơ ốm yếu. Ông không muốn cô nhận ra ông hy vọng được cô đón đi khỏi nơi này, vì đó chính là hy vọng của ông, chỉ mong thấy cô đứng trên ngưỡng cửa và nói: Vâng, ta đi thôi, bất cứ chỗ nào cũng tốt hơn căn phòng này.

Dora muốn biết ông thích nhà ở kiểu gì. Anh viết cho em đi, để người quen của em ở Berlin biết mà tìm cho hợp. Với cô mọi thứ vẫn như xưa, từ khi ông ra đi, cô trở nên trầm lặng hẳn ở khu nhà nghỉ mát. Tuần này và tuần sau nữa, xong là hết. Ngủ nghê thế nào? Anh có ngủ được không? Ra bờ biển là em ngủ như chết, nhưng nói chung chẳng có thì giờ mà ngủ, lúc nào cũng có người cần em việc gì đó, lúc nào em cũng ngồi trong cái nhà bếp này, nó suốt ngày ta thán với em rằng lâu ngày quá nó chẳng thấy anh. Anh còn nhớ mình ở dưới nước thế nào không? Bao giờ anh mới đến? Đến đây nhanh lên. Anh có phòng mà, anh có thể đến được đấy.

Cô tin vào căn phòng, điều đó an ủi ông. Ông chỉ cần một cái giường, một cái bàn để viết. Ngoài ra chẳng cần gì nữa. Thêm một chiếc tràng kỷ thì tốt, lò sưởi khi trời rét, ánh sáng và nước. Một khoảnh khắc dài, ông tin. Làm được. Ông đã gặp cô. Vì vậy sẽ làm được.

Ottla rời bỏ mùa hè tươi vui một ngày. Thì ra chỉ vì ông. Elli và mẹ không hề giữ ý trong thư. Ottla nhìn ông một thoáng và quyết định ngay, ông phải đi khỏi đây, về nông thôn, về với không khí trong lành. Thoạt tiên ông còn ngại ngùng, mặc dù ông hàm ơn và nhẹ người, ngượng ngùng vì Ottla còn hai đứa con gái nhỏ mà vẫn nghĩ đến ông.

Lúc này cũng không có nhiều chuyện mà bàn. Ottla ở trong phòng ông để giúp gói đồ đạc, sờ trán ông, kể về phòng trọ ở nhà thương gia Schöbl, dặn gói cả đồ ấm, phòng khi trở trời hoặc ông phải ở lại lâu hơn. Họ có thể ở đó đến cuối tháng Chín. Ông giật mình, vì như vậy là còn những hơn bốn tuần nữa, nhưng ông mệt quá, ông bị sốt, vì vậy ông không cãi.

8

Thỉnh thoảng cô thức dậy giữa đêm, lòng ngập tràn mối ngờ: liệu ông có tới không, vì sao từ bấy đến giờ cô tin tưởng đến thế, ngay đến cả phút này, khi bỗng dưng tất cả có vẻ đáng nghi, tựa như ông có thể sẽ nghĩ khác đi, vì ông trở bệnh nặng chẳng hạn, vì chính ông không tin nữa, vì ông bắt đầu quên cô?

Mấy hôm đầu cô vẫn nghĩ, cô có đủ cho mãi mãi, nhưng lúc này lượng dự trữ bất ngờ cạn đáy, mọi thứ mất hết ánh hào quang - tóc cô trong gương, ánh mắt, những dấu vết trên làn da kiệt quệ và nhạy cảm. Cô không biết rằng cơ thể cô biết hồi tưởng, mắt mũi miệng, đôi môi cô nay không có môi ông, phía bụng dưới luôn co thắt. Cô nhớ giọng nói của ông, nhớ cách ông ngắm cô ngày ấy ở bờ biển, khi chỉ bằng một ánh mắt là ông nhận ra cô là ai, một con bé miền Đông ngu ngốc si tình, nhưng đồng thời còn là một thứ khác, ít nhất là đối với ông, người nhìn thấy trong cô những gì người khác chưa bao giờ thấy được. Cô tự thấy mình không đặc biệt xinh đẹp, nhưng hôm đó ở bãi biển cô muốn mình đẹp trong mắt ông, cả sau này trên cầu bến nữa, khi cô cảm nhận được rằng ông khao khát mình xiết bao, rằng ông đồng thuận với lòng khao khát đó và không muốn ai ngoài cô.

Ở Sở Ngoại vụ người ta cho cô biết giấy phép lưu trú của cô không được gia hạn; không có triển vọng tìm việc mới, vậy thì cô phải trở về Berlin. Cô nói chuyện với Paul, chỉ bóng gió thôi, vì sao cô không muốn rời khỏi Müritz. Cô đã hứa với một người rằng sẽ đợi người ấy ở đây, liệu có thể tìm được việc gì tạm thời ở một khách sạn. Văn phòng môi giới việc làm không cho cô hy vọng nào hơn, cuối kỳ nghỉ sẽ có nhiều khách ra về, thực tế là không cần thêm nhân lực mới.

Paul lập tức đoán ngay, ai là người cô đợi. Cô không xác nhận cũng chẳng phủ nhận, nói cho cùng thì thế cũng là một câu trả lời. Rốt cuộc cô thú thực: Ừ, ông tiến sĩ. Lúc này, khi chuyện đã rồi, Paul cho rằng anh đã nhận thấy ngay từ đầu một dấu hiệu gì đó, một tia chớp, trong bữa ăn, khi ông tiến sĩ nói chuyện với cô, cách ông ngắm cô, không chỉ là ngắm nhìn bất kỳ một ai đó. Ông ấy có hơi già với chị không? Paul mới hơn hai mươi, đối với Paul ba mươi tuổi đã là một ông già. Nhưng bù lại anh nói rất tử tế về ông. Trong mắt anh, ông tiến sĩ là một người đàn ông khác thường, rất nhẹ nhàng và ân cần, một văn sĩ mà, biết nói thế nào nhỉ, đến nửa số người ở đây si mê ông ấy.

Ông ấy nói sẽ cùng cô đi Berlin, cô tiết lộ.

Ông tiến sĩ? Và vì thế chị đợi ông ấy? Chị đợi ông ấy ở Berlin thì hay hơn nhiều. Bao giờ ông ấy định tới?

Tiếc là cô cũng không biết, nhưng khi phải rời khỏi đây thì cô nhất quyết không đi Berlin, chỉ cùng ông thì cô mới quay về Berlin.

Ông đến chỗ em gái vào mùa hè tươi vui. Hôm qua, sau khi nói chuyện với Paul thì một bưu thiếp được chuyển đến, giờ thì cô tạm thời không biết sự thể tiếp diễn ra sao nữa. Em gái ông không thật hài lòng với ông, vì thế ông về chỗ cô ấy ở nông thôn vài hôm. Cô không biết tên địa phương ấy. Schelesen. Ottla rất cương quyết, thực tế cô không cho ông sự lựa chọn nào. Trông anh như hồn ma, cô ấy nói. Em có muốn sống với một hồn ma ở Berlin không? Hôm qua, lúc ở trong bếp, cô chỉ nghĩ: Không, em xin anh, anh yêu, anh đi sai hướng rồi, quay lại đi, em biết làm gì bây giờ.

Sáng sớm Paul hỏi cô ngay, có chuyện gì nghiêm trọng vậy. Tin dữ à? Cô không biết, liệu đó là tin dữ hay chỉ là tin, cô đọc đi rồi đọc lại tấm bưu thiếp, đoạn về hồn ma, và lúc này, dần dần, cô mới bắt đầu yên lòng. Xét về bản chất, nếu không có lựa chọn nào khác thì thế là tốt. Cô chỉ còn phải biết là trong thời gian tới sẽ ở đâu. Cô có thể đến chỗ bạn gái Judith, qua mùa hè ở một làng gần Rathenow, cũng có thể cô ở lại đó lâu hơn.

Paul nói: Người ngoài nhận ra ngay chị không ổn, nhưng cũng thấy chị vô cùng hạnh phúc. Anh giúp cô trong bếp, ngồi cạnh cô ngoài vườn, lấy cà phê và bánh, khen cô, nhưng luôn để cô thấy thoải mái, cứ như thể anh đang nói hộ ông tiến sĩ lúc này đang không thể nói ra mấy lời khen ấy được. Ông ấy sẽ đến, anh nói. Thật ngớ ngẩn nếu ông ấy không đến và bỏ mặc chị với những kẻ cha căng chú kiết nào đó, vậy là cô lại thấy có lòng tin. Cô thấy trong người hơi bải hoải, nhưng phấn khích, cho dù cô chỉ có mấy ngày ít ỏi ấy, chiếc cầu bến, cánh rừng, một lần lên phòng ông và sau đó là lần thứ hai. Song ngay cả khi không có lần thứ hai, nếu cô biết rằng mình có ông, dành cho cô, cô chỉ cần có những lá thư, những bức điện, những dấu hiệu nào đó, để cô biết rằng ông hướng đến cô là đủ.

Hôm sau cô có chỗ ở. Hans đánh điện, lời lẽ không thân thiện, nhưng có vẻ như họ đã có chỗ ở, một phòng lớn có khoang cửa sổ trồi ra ngoài ở Steglitz, tại một phố cô chưa từng nghe tên, có phòng tắm và bếp. Thoạt tiên cô không tin nổi, nhưng rồi cô tin, cô vui sướng nhảy tưng tưng và sau đó kể cho Paul nghe. Dành cho ông tiến sĩ nhà cô, Hans viết. Việc gấp. Cô phải quyết định trước ngày cuối tuần. Điện ghi kèm số điện thoại và tên chủ nhà (bà Hermann), nếu lấy nhà này thì bà ta đòi truy lĩnh nửa tiền nhà tháng Tám. Không một câu chào, chỉ ghi tên, để cô biết là anh đâu có ngu, hoặc vì sao cô lại hăng hái nhường ấy vì một người quen ở bãi biển.

Ông chưa biết gì về căn phòng của mình. Lá thư cuối của ông viết hôm kia, mặc dù vậy, cũng lạ là ông không hề mường tượng ra chuyện gì, vì nếu có thì nhất định ông sẽ vui mừng. Nhưng giọng ông nặng nề, tựa như ngày tháng của ông là những trận giao tranh mà không rõ ông có thắng hay không. Ông ngồi sưởi nắng ngoài bao lơn, đọc báo về tình hình ngày càng tồi tệ hơn ở Berlin, quyết định vứt hết báo đi, để rồi sáng nào cũng đọc và giật mình thêm lần nữa.

Anh đã kể về em với Ottla, ông viết, rằng có em trên đời này và em đã làm gì với anh. Cô ấy trố mắt nhìn anh rồi nói, Pepo chồng cô ấy cũng thế, và cô cũng trải qua tình cảnh tương tự. Em có thích đến Schelesen với bọn anh không? Đủ chỗ. Vùng này có lẽ em thích, thời tiết cho đến hôm nay rất tuyệt, hai cháu gái anh cực kỳ dễ thương. Đó là một nhà trọ nhỏ với cửa hàng tạp hóa ở tầng trệt. Họ ở tầng trên, nhìn ra đường làng. Làng này không lớn, theo ông tả thì từa tựa như một thung lũng, nằm lọt giữa những quả đồi phủ rừng, đôi khi ông đến đó đi dạo. Ông nhắc đến một bể bơi, nhưng cho đến nay ông chưa tới đó. Cô thấy rõ nhất hình ảnh ông trong căn phòng mà cô hình dung cũng giống ở Müritz, nơi ông ngồi đọc ngoài bao lơn, tầm nhìn ra phong cảnh bên ngoài cũng tương tự, thấy đồi và rừng nhưng không có biển, không như ở đây, lúc nào cũng có cát giữa kẽ ngón chân.

Anh yêu nhất đời, nhìn đi, cô viết, có thấy em không? Em ngồi bên chiếc bàn dài ngoài vườn và run rẩy vì chuyện Berlin. Một nửa em ngồi bên bàn này, nửa kia trong phòng mới của anh mà em nghĩ là rộng rãi và sáng sủa, hầu như lúc nào cũng có ánh mặt trời. Em không biết sẽ đi đâu, cô viết. Trời gió to, mọi thứ bay phần phật tung tóe, chẳng có gì trụ lại chỗ cũ, lá thư này cũng muốn lên đường thật nhanh, đem theo ngàn nụ hôn, Dora của anh.

Döberitz là tên cái làng ngày đó, cô nhớ lại. Mai cô có thể lên tàu ngay, Judith thông báo, phải chuyển tàu nhiều lần, đến vào bất cứ giờ nào Dora cũng được nhiệt liệt đón chào. Judith mới về nhà được một tuần, sẽ ở lại đó đến cuối tháng Chín để lao vào học ôn thi, trong cái mùa hè mưa dầm này thì biết làm gì khác. Tớ rất vui được đón cậu. Tiếc rằng ở đây không có đàn ông đâu, ít nhất tớ chưa phát hiện ra mống nào, chỉ có vài anh chàng nông dân choai choai nhìn tớ chòng chọc, rồi cậu sẽ thấy.

Paul tỏ vẻ thất vọng khi cô kể về lời mời của Judith. Anh đã thầm hy vọng sẽ được cùng cô trở về Berlin, nhưng bây giờ cô lại đi Döberitz, cô đã bắt đầu từ biệt mọi người ở bãi biển, cứ làm như không được phép quên mất chi tiết nào, trong khi hôm nay mới thứ Năm. Trông Paul buồn rầu thực sự, nhưng tối đến, khi họ cùng múa hát với lũ trẻ thì anh đã quên tuốt. Đã lâu lắm Dora không khiêu vũ, rủ được cả Paul, và thế là họ nhảy. Họ không hợp nhau lắm, nhưng họ nhảy.

9

Từ khi thuê căn phòng, ông tiến sĩ lại trở nên lạc quan hơn. Bà chủ nhà chỉ quan tâm đến tiền, thậm chí không cần biết bao giờ ông đến ở. Học vị tiến sĩ của ông có lẽ đã gây ấn tượng cho bà, bà luôn gọi ông bằng chức danh đó và cũng nhanh chóng đồng ý nhận tiền nhà bằng ngoại tệ, ở Berlin lúc này mọi thứ rối tinh. Vậy là ông có phòng ở Berlin. Ông nghĩ mình nhớ đại khái được địa điểm, đánh điện cho Dora là mọi chuyện đã đâu vào đấy, trong tâm trạng tưng bừng nhất thời, chả gì thì cuộc sống mới đã trong tầm tay.

Cô viết rằng không thể ở lại Müritz lâu hơn và sẽ tạm đến ở nhà một bạn gái. Có thể như thế là tốt, có thể không. Phép mầu đã nhạt đi trong mắt ông, ông có cảm giác chỉ còn nhận ra nó trong các lá thư của cô. Chưa bao giờ ông nghe thấy tên cái làng Döberitz. Ông biết trong tủ sách nhỏ của nhà trọ có tập bản đồ, ông không phải tìm lâu, làng này nằm cách Berlin chưa đầy một trăm cây số về phía Tây.

Những ngày đầu ở Schelesen quả không đơn giản đối với ông. Schelesen là dĩ vãng, mọi thứ quen thuộc với ông một cách ngán ngẩm, từ vẻ hiền hòa của phong cảnh, nhà cửa và dinh thự, nửa làng quê nửa kiểu khu du lịch, cho đến đường sá, rừng cây. Cái xó nhà quê này, trước đây mấy năm, là nơi bắt đầu câu chuyện bất hạnh với Julie, ở biệt thự đầu làng, là nơi Max và Felix cũng đã từng đến ở. Trong biệt thự không còn phòng trống. Ông thấy may mắn là không phải đến đó ở, nhưng về sau, một buổi chiều, ông đã đến đó và đứng trên bậc tam cấp lên cửa, ông không thể hiểu được lý do tại sao, vì ông hầu như không còn nhớ ngày đó mình là ai. Các câu chuyện xóa nhòa lẫn nhau, ông nghĩ, những lá thư, niềm lâng lâng của những nụ hôn, vòng tay ôm, chúng nối tiếp nhau và không đọng lại, một bóng mờ cũng không.

Ở biệt thự này ông đã viết thư cho cha.

Ottla đủ nhạy cảm để không bắt ông đối đầu với điều gì khó chịu. Cô đi dạo ở đây như cả đời chưa làm gì khác, chỉ nhắc ông nhớ đến những cảnh liên quan đến cô và ông. Ví dụ có lần sau nửa đêm hai anh em trèo qua hàng rào bể bơi và vầy nước dưới ánh trăng, hoặc bày trò nghịch dại trong bữa ăn, hay những hình mặt người méo mó trên những tảng đá mà họ trèo lên trong mùa hè đầu tiên. Anh còn nhớ không, cô hỏi và chỉ vào ngôi nhà trên sườn đồi, ở cuối thung lũng nhỏ, có lần họ tìm thấy một con mèo cùng đàn con trên đồng cỏ. Ký ức nhạt nhòa. Con mèo và lũ con, ừ, nhưng chẳng còn nhớ chi tiết, màu sắc và ý nghĩa như Ottla cảm nhận trong lúc này.

Trước đây mấy năm ông nói với cô, nửa đùa nửa thật: Nếu ngày nào đó anh lấy vợ, anh sẽ cưới một người như em. Khó đấy, cô đáp, người như em không dễ tìm được đâu. Hôm đó họ cũng ở Schelesen, hay ở Zürau, hay nơi nào khác?

Ottla cũng đem lại cả thất vọng. Từ khi có con, đôi khi cô nhìn ông như từ nơi xa lắc. Buổi đêm không có gì đặc biệt, con bé Helene mới được bốn tháng, nhưng thật tuyệt vời khi quan sát Ottla cho con bú, lúc hai con người gắn bó với nhau không cần lời nói.

Thỉnh thoảng ông còn học được đôi chút. Ví dụ, ông không còn đánh giá cao ý nghĩa của thư từ nữa, không sốt ruột đợi thư trả lời. Có thư đến thì ông vô cùng sung sướng, đặt nó sang bên và nói: À, thư Müritz đây mà, chẳng phải hôm qua đã có một bức rồi hay sao? Nhưng khi bưu tá đến mà không có thư thì ông cũng chấp nhận, không thất vọng, không đổ tội cho bưu điện như ngày xưa vẫn quen làm, sau đó ông chẳng lên phòng ngay để lặp lại mọi việc, mà có thể nằm ngoài bãi cỏ gần bể bơi với Ottla và các cháu đến tận chiều.

Cho đến giờ ông không tăng cân. Ông cố gắng hết sức, đi dạo những quốc ngắn, tự quan sát mình. Ottla nói: Ít nhất anh hãy làm vì cô ấy, nếu anh yêu cô ấy, hãy làm vì cô ấy. Mà ông thì chưa nói cho Ottla các kế hoạch của mình. Ngày nào ông cũng định nói, song rồi lại nhụt chí, hoặc ông vừa qua một đêm khổ sở, hoặc Ottla rơi vào tình cảnh ấy, vì con khóc, vì nó bất cứ ngày đêm lúc nào cũng muốn bám lấy vú mẹ.

Ông mời cô đi dạo. Ottla vận chiếc áo dài mỏng, trời ấm, những bông hoa mùa hạ cuối cùng nở trong vườn; đây đó có người bổ củi, người ta uể oải phơi nắng, vài người chào. Họ không đi nhanh, về hướng Đông, ngang qua những ngôi nhà cuối cùng. Giờ nói chuyện kế hoạch. Ông không cần phải nhấn mạnh các khó khăn. Nhưng ông lạc quan, ông nói, ông quyết tâm sắt đá. Ottla gật đầu. Cô hỏi về chi tiết, ngoài ra không nói nhiều. Kế hoạch tốt đấy, cô lặp đi lặp lại. Em rất thích, cô nói, vâng, đúng thế. Tại sao không. Tất nhiên em sẽ giúp anh. Anh vẫn luôn luôn hơi điên, có thể chưa điên lắm, nếu không tại sao anh trụ được chừng ấy năm. Giống Max, cô muốn làm quen Dora càng sớm càng tốt. Cô thích thú khi nghe nói Dora biết nấu ăn, và anh cô thế nào thì Dora chấp nhận anh ấy như vậy.

Döberitz là một xó chán ngắt, Dora viết, có một nhà thờ, khách nghỉ hè như cô và Judith, có nông dân, gia súc ngoài đồng cỏ, nhà cửa co ro, vài con phố, ngoài xa là sông Havel có thể tắm được. Giọng cô vui, thời tiết không tốt lắm, nhưng họ có nhiều chuyện để nói, tất nhiên cô kể về Müritz, về hạnh phúc lớn của mình. Judith ghen tị ra mặt, chủ yếu vì anh là văn sĩ, cô ấy nghe tên anh rồi, nhưng chưa đọc. Anh sẽ mến cô ấy. Judith đọc từ sáng đên đêm. Ottla có chú ý chăm sóc anh không? Cô nhờ ông chào Ottla. Qua lời ông kể về Ottla, cô đã mến cô ấy ngay. Anh có kể chuyện Berlin không? Anh vẫn là của em đấy chứ? Em đã mơ về anh đấy, ban nãy trên tràng kỷ, khi em thiếp đi một lát. Anh làm nhiều việc rất hay với em, nhưng em chỉ có thể thì thầm về chuyện ấy thôi, toàn những chuyện hay.

Ở Đức tỉ giá dollar trong ba ngày vọt từ dưới mười triệu lên ba mươi triệu mark, một cái bánh mì giá một triệu. Max viết thư thông báo sẽ đi Berlin, rõ ràng chuyện Emmy đã trở nên gay cấn, nhưng ông tiến sĩ biết cả rồi, chuyện này bắt đầu làm ông ngán, gần như thấy bực mình, và ông muốn viết như vậy cho Max biết trước khi họ tái ngộ vào tuần sau. Cha ông sắp có sinh nhật, vì vậy ông tiến sĩ cân nhắc có nên rời khỏi Schelesen hai hôm và đi một đoạn về hướng Dora, như ông tự huyễn hoặc, vì xét về quan hệ với cha thì xưa nay ông toàn có lý do không vui. Cha ông có lẽ thậm chí không nhận ra là ông chỉ vì cha mà về nhà. Ottla cười nhạo. Chẳng phải anh muốn đi Berlin hay sao? Anh tưởng cha sẽ đồng ý với kế hoạch của anh, chỉ vì trước đó anh đã ngoan ngoãn chúc mừng sinh nhật cha hay sao?

10

Ông viết cho cô hầu như mỗi ngày. Judith, vốn không ham học, nói rằng người duy nhất ở đây làm việc là Dora, vì cô vất vả không kịp viết thư trả lời. Ông liên tục đặt câu hỏi, cô đang mặc gì, áo dài nào, sơ mi nào, đêm qua ngủ ra sao, trong phòng ngủ bày biện thứ gì, hai cô ăn gì, nói chuyện gì, ông muốn thấy những giọt nước trên da cô và mái tóc ướt của cô khi hai người đi chơi từ sông Havel về. Thư ông thường nhẹ nhàng và tươi sáng. Cô thích ông viết về mắt cô, vóc dáng cô, về những lúc ông ở bên cô, khi ông hôn cô. Đêm đến thì ông nghi ngờ, liệu ông có khỏe lại, ông lo lắng vì tình hình căng thẳng ở Berlin, đôi khi quá sức chịu đựng của cô, và cô cần một chút xa cách để bình tâm.

Ngay sáng nay cô đã thử nghiệm chính mình. Có hai lá thư đến, nhưng cô không mở. Cô gạt chúng qua một bên và nói với chính mình hay với Judith, bây giờ thì chưa, lát nữa, quá sức em, anh yêu ạ, em như đang say rượu, giá anh biết những lá thư của anh tác động đến em ra sao. Cô cũng không cầm chúng theo khi dạo chơi hằng ngày. Không hẳn là cô thấy thoải mái khi làm thế, nhưng chính vì vậy mà cô không cầm thư theo, hai tiếng sau, trên đường về, đi được nửa đường cô bắt đầu rảo bước, rồi cô chạy, chạy hộc tốc, cô bay, về với hai lá thư, cô xé toang hai phong bì và bắt đầu đọc, nghe tiếng ông, tựa như đó là lần đầu, lần đầu được nghe tiếng ông sau trăm năm chờ đợi.

Mỗi khi Judith ngủ muộn, Dora thích nhất là đi qua các căn phòng trần thấp. Cô yêu ngôi nhà này ngay từ phút đầu. Ngôi nhà của một bà cô của Judith mới qua đời hồi tháng Hai. Nhà nhỏ và cổ lỗ, mọi đồ vật tỏa mùi gỗ và mùi bà cô, hồi trẻ là diễn viên, qua ngưỡng năm mươi bà lui về chốn cô đơn này. Có ảnh của bà, chụp khi chưa đến hai mươi, trẻ măng, rất xinh, gần gần giống Judith, trong vai Ophelia, như dòng chữ đã mờ ở mặt sau tiết lộ. Khi về già, bà sồ sề ra và bỏ lỡ thời điểm thích hợp để tính chuyện chồng con. Vào lúc chuyển giao thế kỷ bà trở thành một dạng nông dân ở Döberitz, chăn nuôi gia súc vài năm, có một chuồng gà, ngỗng, hai con dê, và cho đến khi qua đời bà có một tầng hầm đầy hoa quả đóng lọ, đùi lợn hong khói, rượu, một kho khoai tây.

Judith nói cô không vào bếp, ra đây cô chỉ ăn bánh mì, nhưng từ khi Dora cho cô biết ổ bánh mì ở cửa hiệu trong làng đắt chừng nào thì họ toàn sống bằng đồ dự trữ. Họ ăn các món đơn giản làm từ khoai tây, bánh xèo khoai tây với táo xay, khoai tây nghiền với bơ hong khói, tối ăn canh đập trứng, vì Judith mua được trứng rẻ ở một nhà nông dân.

Cô tung tẩy mấy hôm liền. Cái gì cũng mới, cô có Judith, cô có tệp thư, những cuộc dạo chơi kéo dài trong mấy ngày không mưa hiếm hoi. Cô nhận ra là cô và Judith chưa từng hiểu tính nhau. Mấy tháng trước đó, khi Judith xuất hiện ở Volksheim, trông cô có vẻ khá ngạo mạn, nhưng bây giờ thì họ đã kết bạn tâm giao và kể cho nhau những chuyện bí mật nhất. Trước khi trốn về Döberitz, Judith quan hệ với một người đàn ông có gia đình. Ngay từ đầu cô đã biết là chuyện sẽ chẳng đi đến đâu, nhưng người ấy rất tận tình, dẫn cô đi ăn, đến nhà hát, người ấy nâng cô như nâng trứng, trong những tuần đầu, khi cô còn làm mình làm mẩy, vì cô nghĩ là phải làm như thế mới đúng.

Cô quen người ấy ở một khóa học do người ấy dạy. Người ấy bắt chuyện với cô, với ánh mắt khiến cô biết ngay người ấy muốn gì ở cô. Người ấy thích cái tên Judith của cô, mặc dù sau này người ấy nói không thích cái chất Do Thái trong cô. Cậu thấy tớ trông có vẻ Do Thái không? Tên của tớ là tên Do Thái. Có thế thôi! Mặc dù vậy người ấy vẫn khăng khăng giữ ý. Ban đầu tớ chỉ cười và hỏi, chính xác cái gì ở tớ mang chất Do Thái, và tất nhiên người ấy không thể nghĩ ra chi tiết nào. Người ấy nói người ấy ngửi được. Toàn bộ phong cách của tớ là Do thái, kiểu tớ đi lại, nói năng, và tớ hoàn toàn không rụt rè. Trong đêm đầu của chúng tớ. Và ngày càng thường xuyên. Người Do Thái là nỗi bất hạnh của nước Đức, là nhà sử học người ấy biết mình nói gì. Nói ra tất cả trong đêm đầu. Judith thấy không dễ chịu. Cô ngốc quá, lẽ ra cô phải đoán được.

Dora không có nhiều kinh nghiệm với những người kỳ thị Do Thái. Đôi khi cô nghe một câu độc địa ngoài phố, hoặc nghe lỏm người ta nói chuyện trong quán ăn. Có lần một thằng bé nhổ nước bọt trước mặt cô, trông nó chưa đầy mười tuổi. Cô đã đuổi theo nó và bắt nó giải thích. Tội nghiệp Judith. Nhưng Judith không thấy mình tội nghiệp. Cô đã tự rút ra được kết luận từ lâu sau những lần ấy, sau khi học xong cô muốn đi Palestine. Trước khi đi Palestine mà còn muốn học cho xong có lẽ cũng là ngốc, ai cần luật gia Đức ở Palestine, lại còn là phụ nữ nữa. Họ cần người biết cày bừa, thợ làm vườn và nông dân, họ cần những máy đẻ, đẻ ra trẻ con Do Thái tóc xoăn sẫm màu. Rồi cô cười vì cô không sao hình dung nổi. Còn cậu nữa? Cô hỏi Dora. Dora cũng không sao hình dung nổi, cô cũng chưa nghĩ ngợi gì về đề tài ấy, nhưng nếu nghĩ cho kỹ thì cô thấy vừa tuyệt diệu vừa khó hiểu.

Judith tự cho phép mình nghỉ ngơi một ngày. Đúng vào một ngày rất ấm, vì vậy ăn sáng xong họ ra sông Havel và xuống nước ngay. Judith kể hồi mùa hè năm trước cô bị một đám trai làng bao vây, cứ như cả đời chúng nó chưa thấy con gái cởi truồng bao giờ. Nhưng lần này chỉ có mình họ, ngoài lũ chuồn chuồn và những con muỗi cuối cùng làm bạn, mấy giống chim khác nhau trên trời, một con diều hâu đỏ, dĩ nhiên Judith cũng biết tên các giống chim khác, và cô mơ có được một tấm chồng như ông tiến sĩ.

Cậu trúng số độc đắc đấy, Judith nói. Đã thế cậu còn đẹp nữa, hơi lẳn hơn tớ, không có góc cạnh. Dora không ngượng nghịu chút nào khi để Judith ngắm, khi nghe cô nói, tớ thích chỗ này, chỗ này nữa, khi được cô chải tóc cho, tựa như họ là hai chị em.

Buổi tối cô cầm thư ông lên giường, cất dưới gối, toàn những điều tuyệt diệu trong ấy. Ông rất hay mơ mộng về căn phòng mới của mình, về buổi tối đầu tiên của hai người, khi ông nâng bổng cô lên và bế đi, điều mà ngoài đời ông không thể làm nổi, nhưng trong mơ thì dễ như bỡn. Thêm nữa, em rất nhỏ và nhẹ không ngờ, anh mang em bằng một tay, em rất nhỏ và nằm giữa lòng bàn tay anh, mắt nhắm tựa như đang ngủ, nhưng em không ngủ, mà ngược lại.

Cho đến nay ông không lộ ý khi nào sẽ rời cái chốn Schelesen ấy. Mới sáng nay, lúc tỉnh giấc cô nghĩ, vài hôm nữa thôi, có thể đếm được rồi, vậy mà gần trưa lại có thư đến, ông báo cho cô biết không thể tính đến chuyện đi lại được. Mãi đến lúc đó cô mới cảm nhận được tác động hủy hoại của sự chờ đợi, cô òa lên khóc, không khóc lâu, vì cô nhận thấy ngay là cô không tin vào nước mắt. Ông đang bệnh, ông liên tục sốt. Berlin hiện ra như một đích đến quá xa vời với ông, ông viết. Nếu có em ở đây thì chỉ nháy mắt là chúng mình sẽ đến Berlin, nhưng đối với riêng anh, đang trong tâm trạng sầu thảm của mấy ngày qua, thì chuyện đó còn khó vạn lần hải trình của Columbus. Tối thiểu một tuần, thông điệp là thế. Ông kể đã vật nài như một đứa trẻ, nhưng Ottla chỉ luôn nói: một tuần.

Giờ đây thỉnh thoảng cô sợ. Một ý nghĩ không dễ chịu, rằng cô hầu như không biết ông, và biết đâu hai người sẽ hiểu lầm về nhau trong những ngày, những tuần đầu tiên ở Berlin, nếu mọi thứ rốt cuộc chỉ là sự lầm lẫn tai hại. Nếu cô không chú ý, cô nghĩ trong tâm trạng phảng phất ngờ vực vì cô không thể nói được từ đâu sinh ra những ý nghĩ nhỏ nhen ấy, cứ như đó không phải là ý nghĩ của cô, mà là một cái gì đó dần dà len lỏi vào cô rồi lại từ từ biến mất.

Mùa hè lại bừng lên lần nữa, ngày cùng tháng tận nhuốm một ánh sáng khác, chiếc tàu thủy neo dưới bãi sáng lung linh, hàng bạch dương rì rào. Họ cố giải thích cho nhau, đó là những ý nghĩ bình thường. Cả Judith cũng nói, đó là những ý nghĩ bình thường. Ông bốn mươi tuổi, ông đã sống nhiều hơn cô mười lăm năm. Ông là một người bất hạnh, ông đã nói vậy trên cầu bến. Cô nhớ rõ cô đã sửng sốt ra sao, vì rõ ràng nom ông hạnh phúc, từ khoảnh khắc đầu tiên trở đi, khi cô thấy ông trong bếp.

11

Mấy ngày liền ông không tin nổi đó là sự thật, tựa như trước hết ông phải từ bỏ niềm tin, rồi điều đó mới có thể xảy đến. Ông viết thư cho Max, rồi cho Robert, ông hơi tăng cân, không nhắc một chữ đến Dora, cũng rất mập mờ về triển vọng đi Berlin, trong tâm trạng phấn khích ban đầu ở nhà nghỉ mát ông đã đánh giá triển vọng đó cao hơn thực tế.

Bây giờ niềm vui lớn nhất đối với ông là bọn trẻ con, là con bé Helene ngồi trong lòng khi ăn sáng, ngoài lúc cõng nó đi chơi trong vườn hay trò chuyện với nó, lúc nào cũng chừng ấy câu cũ, cháu là một cô bé tuyệt vời, nhưng con bé mệt, vì vậy nó phải đi ngủ sớm. Ottla trông kiệt quệ, thi thoảng cô mất kiên nhẫn khi con bé Vera hai tuổi đòi quyền của nó, do đó ông chăm sóc Vera ngày càng nhiều hơn. Nó đã biết nói, rất đột ngột trong mắt ông, tựa như câu chữ đã có sẵn trong nó và bây giờ, cuối hè, mới dần dần được nhả ra. Ông tiến sĩ không hiểu trẻ con mấy, ông quá ít dịp tiếp xúc với chúng, mặc dù Ottla quả quyết rằng lũ trẻ mến ông, có thể vì chính ông cũng là một dạng con nít chưa lớn.

Buổi trưa Ottla và bọn trẻ con đi bơi, trời nóng không chịu nổi, phải đến ba mươi độ. Lần đầu tiên từ mấy tuần nay ông không sốt, vì vậy ông xuống nước ngay và bơi thật lâu, quay đi quay lại hết mấy dọc bể, với ý thức rõ ràng, thế là hết, tựa như ông sẽ không bao giờ thấy lại bể bơi này nữa, tựa như đây là lần cuối đi bơi.

Pepo, chồng Ottla, ít khi đến. Thường anh chỉ đến vào cuối tuần, ngạc nhiên rằng cuộc đời này là cuộc đời mình, rằng anh có hai con gái, một cô vợ trẻ luôn thiếu ngủ và luôn cảm ơn trời đất về mỗi giờ đồng hồ có chồng ở cạnh. Lần này anh ở lại qua đêm, chửi bới văn phòng một hồi lâu, tuy người ta có thể nghe ra từ mớ từ ngữ cuồn cuộn ấy rằng chính văn phòng là nơi trú ẩn của anh. Anh chào lũ trẻ, ban cho Ottla một cái hôn hời hợt và cho ông tiến sĩ một cái gật đầu, xoa tóc Helene, hỏi tìm Vera - nó đã chạy biến khi anh mới về. Đây là cuộc đời của anh sao? Nhìn anh thì biết anh không tin. Ottla phần nào mờ mắt về điều này, cô cảm thương anh, chốc chốc lại nhảy dựng lên, mang thứ này đem thứ nọ, cố kể với anh, Helene hôm qua mỉm cười mấy lần, để đến lúc bốn giờ sáng nó vô cớ gào lên suốt hai tiếng.

Khiếp nhỉ, Pepo nói. Đêm của anh cũng ngắn. Cho đến tận mười hai rưỡi anh còn bận giấy tờ. Anh không ở đây, anh nói khi Ottla đi ra quấn tã cho trẻ con. Vả lại anh ghét ở đây, nhà quê, sự im ắng, bầy ong khốn nạn. Họ không có gì nhiều để nói chuyện với nhau, vì Pepo dự cảm là ông tiến sĩ quá hiểu rõ anh, không phải không có cảm tình, tựa như ông em rể gặp phải điều bất hạnh mà ở hoàn cảnh khác rất có thể nó đã giáng xuống đầu ông.

Ông tiến sĩ biết mình sẽ không bao giờ có con. Trong những năm sống với F. ông thường xuyên nghĩ ngợi chuyện có con và quyết định ngược lại. Hay cuộc đời đã quyết định hộ ông? Một là viết, hai là vợ con, ông nghĩ; ở vậy hay sống một cuộc đời như cha hoặc các em gái. Để sinh con thì ông đủ khả năng. Ông đã đến bác sĩ xác nhận điều ấy, đó không phải lý do, mà vì ông sợ không gặp được người phụ nữ đúng ý, ông quyến rũ phụ nữ rồi đẩy họ ra bằng cách khiến họ sợ trước nỗi sợ của ông, và ông nghi họ cản trở ngòi bút của ông. Nhưng đã từ lâu ông không viết, nhiều tuần rồi, trừ những lá thư gửi Dora và dăm ba tin tức cho những người bạn ngày càng xa xôi hơn.

Chữ cô có vẻ nhỏ đi. Đôi khi ông không đọc được, tựa như cô viết trên xe đang chạy hoặc viết vào buổi đêm không có đèn, khi đã mê muội vì nhớ nhung. Em hết sức rồi, cô viết. Lẽ ra em không nên nói ra, nhưng sự thật là em không còn chịu đựng lâu được nữa. Thiếu anh, em sẽ xấu xí đi. Em cãi nhau với Judith, cô ấy mất kiên nhẫn khi thấy em trở nên ngơ ngẩn vì thiếu anh. Em liên tục vấp chân, đứt tay vì dao, quên cả tên anh, sinh nhật anh, nụ hôn của anh. Xin anh hãy đến với em, cô viết.

Ông tiến sĩ ngồi một mình ngoài vườn và thấu hiểu lời ta thán của cô. Cô hoàn toàn có quyền đó, có lẽ không chỉ có quyền, mà cả nghĩa vụ. Nó cũng là một lời nhắc nhở, một tiếng gọi, khiến ông nhớ rằng phép mầu không phải không bị tổn thương.

Hai ngày nữa ông muốn lên đường. Ottla cũng không muốn ở lại thêm. Pepo ra thành phố, anh muốn đón cô rồi tất cả cùng đi.

Ottla khuyên ông nên nói dối một chút, vì cha mẹ. Họ ngồi ngoài vườn, trời không ấm lắm, nhưng họ chỉ rảnh nửa tiếng trong khi bọn trẻ ngủ. Ông nên nói là đi vài hôm, đem ít hành lý, có thể cha mẹ sẽ tin. Anh có mừng không? Cô không nhận thấy ông mừng. Ông sợ. Ông mừng và sợ, chủ yếu sợ thành phố mà ông thấy mình không chống cự nổi trong cơn khủng hoảng này. Ông không còn nhớ rõ nét mặt và mũi Dora. Miệng cô thì ông đã thuộc, cả ánh mắt cô, ông nhớ mang máng giọng cô khi cô nói, em suýt phát điên, anh suýt giết em, trong khi em còn chưa biết chính xác cái xó Schelesen đáng nguyền rủa ấy ở đâu.

Lần thứ tư trong mùa hè này ông gói đồ đạc. Nếu không vì chuyến đi thì ông không ngại gói đồ. Bản thân chuyến đi không đáng nói, nhưng lần này không phải một chuyến đi bất kỳ, lần này quyết định đời ông.

Ông tiến sĩ biết, cho đến giây phút cuối cùng ông sẽ vẫn còn phân vân, trong đêm, trước khi lên tàu hỏa, hơi trì độn vì hầu như không chợp mắt trước đó và cho đến sáng, ông ngồi thảo bức điện từ chối để gửi đến bà chủ nhà, cứ viết xong lại vứt đi. Ông có thể hình dung ra tất cả, ánh nhìn của mẹ, cái lắc đầu của cha. Dù vậy ông sẽ dậy lúc sáng sớm và bỏ họ lại. Ông sẽ mang hành lý của mình và ra đi, không trả lời mọi câu hỏi và can gián, cứ thế ra ga. Rốt cuộc chỉ khi nhìn thấy chiến trường, ông mới hy vọng chiến thắng.

12

Đã thấy lạnh như vào thu dưới rặng cây ven sông. Thiếu áo khoác thì rét, nhưng cô vẫn bị cuốn hút tới đó lần nữa, một mình, không có Judith đang cắm đầu học ôn từ sáng đến tối và mơ màng nghĩ đến mùa hè năm sau, hy vọng mọi người sẽ họp mặt ở đây, Dora cùng ông tiến sĩ và Judith cùng ai thì có trời mà biết được, có thể đến lúc đó Judith sẽ có một người đàn ông để cô trụ lại.

Dora cứ thế đứng đó một hồi lâu và nghĩ đến ông, mân mê lá thư sau cùng của ông trong túi váy, bức điện quả thật mang tin là ông sẽ đến. Gần trưa, có lẽ ông đã lên tàu từ lâu, ngồi một mình trong khoang ghế, mặc dù ông viết là Ottla đi cùng. Cô không nghĩ gì hơn. Quan trọng nhất là ông đã lên đường. Cô thấy mình bắt đầu vui, vui theo một cách mới, vui mà vẫn suy tư, như vừa qua một kỳ thi với điểm số suýt soát. Mấy ngày qua cô hầu như không cảm thấy ông, nhưng giờ đây ông lại sát gần. Đêm qua cô mơ thấy ông bị tai nạn tàu hỏa. Cô tìm ông bên sườn dốc, giữa đám hình hài bất động phủ dưới tấm chăn như bị rét cóng, nhưng không thấy ông trong đó.

Cô ngồi bên cửa sổ bếp và tưởng tượng cách ông thổ lộ chuyện đó với họ, cách họ hỏi han, cách họ săm soi quan sát ông. Cô nghĩ, nếu họ yêu ông thì họ phải đoán được rằng ông sẽ rời bỏ họ, ngay từ buổi tối, khi họ đang ngồi quanh bàn và ông bắt đầu nói dối họ. Nếu cô có mặt bên ông mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn nhiều, cô nghĩ. Hay trái lại, càng khó khăn hơn?

Judith nói: Trời ơi, ông ấy bốn chục tuổi rồi, họ sẽ không chết vì lo đâu. Có đúng cậu nói ông ấy bốn chục rồi không?

Hôm nay là buổi tối áp chót của họ, Judith đã kiếm được một chai vang, trông cô có vẻ tiều tụy. Cô đã đánh giá quá thấp lượng bài vở, thêm nữa, cô ước gì có thể ngăn cản Dora ra đi, rồi cô tiếp tục bàn về mùa hè tới, họ cũng phải gặp nhau ở Berlin nữa, nếu ông tiến sĩ cho phép Dora. Cậu sẽ chung sống với ông ấy? Ngay từ đầu chứ?

Kỳ lạ, cho đến nay họ chưa nói tới chuyện ấy, Dora không biết, họ chỉ có một phòng, ngoài ra có thể sẽ phức tạp khi người ta cùng ai đó ở trong một không gian chật hẹp, mặc dù cô không ước gì hơn thế.

Đêm rạng ngày Chủ nhật cô hầu như không chợp mắt. Lúc thì cô nhìn thấy bức điện báo tin ông không đến, lúc thì cô không mảy may nghi ngờ. Đáng buồn là cô còn vấp phải vấn đề tiền nong. Judith đã nói dĩ nhiên sẽ bao vé tàu, đừng nghĩ vớ vẩn, tiền có là gì, bố mẹ cô có cả núi.

Lúc ăn sáng, cô tin là ông đang trên đường tới Berlin. Ông hẹn khi nào đến nơi sẽ báo, khoảng chập tối. Judith cứ phải nhắc nhở liên tục. Đừng sốt ruột, cô nói. Gần đến chiều tối, trời đã chập choạng, vẫn chẳng có tin gì. Sao cậu không gọi điện cho ông ấy? Dora quên bẵng. Cô có thể gọi điện, cô biết số điện, Hans đã gửi cho cô trước đó mấy tuần. Chỉ cần vài câu là cô yên tâm.

Chỉ ngại rằng đã có lần ông nói, ông ghét cay ghét đắng điện thoại.

Không quan trọng mấy chuyện vặt, cô chỉ cần nghe tiếng ông thôi, nghe hơi thở ông, xa xăm, tận đầu kia đường dây, âm thanh lạo xạo gì đó, báo cho cô biết là họ đã kết nối với nhau, chỉ cần mỗi thực tế đó thôi.

Hôm áp chót, Hans chợt hiện ra trước cửa. Đúng lúc Dora đang phơi quần áo trong mảnh vườn sau nhà, do đó cô không thấy anh ngay, chỉ khi cô cúi xuống và thấy bóng người trên thảm cỏ. Đúng là Hans thật. Mấy hôm trước anh đã định viết thư báo tin muốn đến đón cô, nhưng vì cô chẳng bao giờ hồi âm nên anh cứ thế đến. Hans à? Không sao, cô nói. Đợi đã. Em xong ngay. Mặt anh rầu rĩ. Anh quan sát cô phơi đôi tất cuối cùng lên. Hans mặc chiếc quần nhem nhuốc và áo sơ mi không được sạch lắm.

Dora biết ngay bây giờ cô phải giải trình. Anh đến đón cô để họ bàn mấy chuyện cũ hồi ở Berlin, nhưng cô không muốn bắt đầu chuyện đó ngoài vườn. Cô đề nghị cùng đi dạo một đoạn, đưa anh vòng qua nhà thờ đi về phía sông, đến một khu mà cô cũng chưa đặt chân. Hans kiệm lời. Anh lủi thủi đi cạnh cô, hỏi cô có khỏe không, cũng không phản đối khi cô gợi ý kiếm chỗ ngồi, cạnh bờ sông, trên một gốc cây cụt, ở đó rốt cuộc họ nói chuyện, không lâu, gần như còn là một đôi, tựa như cô nợ anh điều ấy. Cô cảm ơn anh đã kiếm hộ phòng, ông tiến sĩ cũng rất biết ơn anh, ông đã đến Berlin từ hôm qua. Cô giải thích sơ sơ những gì đã diễn ra, rằng cô lấy làm tiếc, kế hoạch của cô là thế này thế kia, nhưng chắc anh cũng đã đoán ra gần hết. Em muốn sống cùng ông ấy, Hans nói, và cô đáp: Em ước được như thế. Vì người ấy rất quan trọng với em.

Khi họ quay về thì trời đã tối. Hans kể một hồi lâu cho cô nghe về công việc của anh ở cảng, cũng chỉ là việc tạm thời, nhưng có còn hơn không. Anh phụ việc bốc dỡ hàng, vác hòm, thùng tô nô và bao tải nặng. Tối đến, khi nhận lương anh phải khẩn trương chi ngay vì sáng hôm sau tiền chỉ còn là giấy lộn. Trong bữa tối họ cũng chuyện trò lâu về Berlin, Judith mua đủ thứ cho bữa chia tay, họ ngồi đến quá hai giờ.

Mùa hè của bọn mình thế là đã qua, Judith nói và tổng kết lại những gì cần nói về gã Hans ngu ngơ đáng thương, lúc này đang ngủ trên tràng kỷ dưới nhà và đã ngà ngà say từ cuối bữa. Ừ, tiếc thật đấy, Judith nói, tớ nghĩ là bây giờ tớ đã thấy thiếu cậu, dù chiều mai tàu mới chạy. Giờ khởi hành và giờ đến ghi trong bức điện gửi tới lúc trưa. Anh đi gặp Max, trong điện viết thế, và ra đón em lúc 18 giờ 42. Thoạt tiên cô nghĩ, sao lại muộn thế, nhưng bây giờ cô thấy họ gặp nhau buổi tối cũng hay, họ sẽ giật mình, họ sẽ tự hỏi, liệu họ vẫn còn là những người của ngày xưa, hồi ở Müritz.

Khi tàu vào ga thì cô đã quên Hans. Tốc độ còn khá cao, không nhận ra được gì nhiều, nhưng lúc tàu phanh thì cô nhìn ra những bóng lờ mờ đầu tiên, vài ba xe chở hành lý, các cặp đôi, đàn ông khuân va li, một chú nhóc trên vai bố. Họ ngồi cuối tàu, chả trách cô không thấy ông ngay, cô cũng hoàn toàn bình tĩnh khi đứng bên cửa tàu, đợi những người trước mình xuống hết, rốt cuộc xuống đến sân ga rồi mà vẫn chẳng thấy ông đâu. Cô vẫn tiếp tục không chú ý đến Hans. Cô quẹo trái ra cửa ga, mãi lúc ấy mới phát hiện ra ông, ông đứng khá xa, thoạt trông có vẻ khẳng khiu hơn trước, không hẳn lạ lẫm. Cô vẫy tay, rồi ông vẫy đáp lại, mỉm cười, sững lại, tiến mấy bước về phía cô. Ông sững bước thật sao? Không, một lúc sau cơ, nhưng gần như đồng thời với lúc cô đứng trước mặt ông và không biết nên chào ông ra sao, không chạm hẳn vào ông, chỉ khẽ ngả đầu đụng vai ông. Anh đợi lâu chưa? Ông lắc đầu, tàu đến chính xác từng phút, và trong khoảnh khắc ấy ông nhận ra có người đi cùng cô. Hans đã đặt hành lý xuống sân ga. Đây là Hans, cô nói mà không nhìn Hans và chỉ ước có thể nói thêm rằng điều đó chẳng có ý nghĩa gì. Hans là một gã Hans vu vơ nào đó, một người bạn, cũng không hẳn là bạn, một người đi cùng thôi mà. Chào ông tiến sĩ, Hans nói, rất hân hạnh. Anh chìa tay cho ông, để chào cũng như để chia tay, vì chào chưa dứt tiếng thì anh đã quay đi, biến về hướng tàu điện.

Cô không thể thốt lên nổi rằng cô đã mong đợi những gì. Franz, cô nói. Cho anh ngắm em nào, ông đáp, và gật đầu, thế là mình đã gặp nhau. Cô hơi lảo đảo, nhưng bây giờ ông ôm cô, ngay trên sân ga, giữa đám hành khách cuối cùng đang chen nhau bên phải bên trái họ để ra cửa ga. Đợi mãi, ông nói, mình lấy xe đi. Trên xe ông nhắc lại, đợi mãi, cho anh ngắm em nào, cứ như ông vừa đột ngột nhớ ra, ông cũng nói gì đó về căn phòng, đẹp lắm, nhưng ông chỉ sợ sẽ phá hỏng nó.

Dora không nhớ lần cuối cô đi ô tô là khi nào. Họ phải đợi mấy phút, nhưng sau đó xe chạy ngay, tài xế làu bàu tự chửi rủa mình đã chọn phải đường đi qua quảng trường Potsdam, chửi cả nửa phố Potsdam, cho đến khi xe cộ thưa dần. Những biệt thự đầu tiên có vườn xuất hiện, họ đã đến Friedenau, trước mặt là tòa thị chính Steglitz, rồi đến nhà. Suốt buổi Dora nắm tay ông. Cô không nói được gì nhiều, vả lại còn những thứ khác đến lượt, như bàn tay cô, như mạch máu cô khe khẽ đập, như ngón tay cô lên tiếng. Chúng mày từ từ nào. Hạnh phúc lớn nhất là rốt cuộc chúng có thì giờ, còn cô, lúc này cô chỉ cần bàn tay ông. Đến nơi chưa nhỉ? Cô không để ý ông đã mở khóa cửa lớn, hầu như cô cũng chẳng nhìn đường, và giờ đây họ đứng trước cánh cửa này.

Ông mở khóa cửa cho cô, thứ đầu tiên cô nhìn thấy là đoạn hành lang ngắn tối om. Nhưng cô đâu cần gì hơn quãng hành lang này, đã bao lần cô mơ đến khoảnh khắc này. Ta đã đến nơi, cô thì thào. Anh, cô gọi. Hầu như đã từng có lúc quá sức chịu đựng, nhưng giờ thì không.

Để làm quen, trước tiên cô chạm tay vào mọi thứ: tấm màn cửa xấu xí, gối trên tràng kỷ, đồ gỗ, cô áp tay lâu lên chiếc dương cầm mà, rủi thay, người ta sẽ chở đi trong vài ngày tới. Cô ngắm nghía bếp lò và tủ, ngồi xuống bên bàn viết của ông. Cô vào bếp, mở rồi khóa vòi nước lại. Hôm qua mình không để ý, cô nói, đây này, xem này, có cả kẹp hạt dẻ nữa này, nồi, chảo, đúng là thích gì có nấy.

Hôm qua họ đứng rất lâu trong cái khúc hành lang kỳ quái, cứ như đó là mục đích của họ từ nhiều tuần nay, cô và ông vận áo choàng dài, đứng trên mấy thước vuông sàn. Cả buổi tối cô nghĩ: anh ấy sẽ đẩy mình đi, sau bữa ăn, khi mình không dự tính đến khả năng ấy nữa.

Lúc cô đi thì đã rất muộn, nhưng giờ đây, sớm hôm sau, cô đã trở lại. Họ ăn sáng, rồi cùng nhau đi mua bán, hân hoan, tung tẩy một cách dè dặt. Họ buồn cười vì hàng mớ số 0 trên tờ bạc, nhớ thứ nọ thì quên thứ kia, lại phải về lấy rồi đi tiếp. Ông kể cho cô nghe về những gì diễn ra ở nhà cha mẹ, về đêm cuối trước khi ra đi, quả là một đêm kinh hoàng, và cho đến phút chót ông vẫn không biết có đi Berlin hay không.

Nói chung ông rất cẩn trọng. Với chính mình hơn là với cô, cô cảm thấy thế, vì chính ra ông không việc gì phải cẩn trọng với cô. Cô vẫn chưa trấn tĩnh, nhưng cô thích thế, cô cố tin những gì đang diễn ra, cô nhìn ông bên bàn giấy, ngay sát cô, và vẫn không tin nổi.

Buổi chiều thứ hai, Emmy đến thăm. Dora không chắc chắn mình có cảm tình với người phụ nữ hớt ha hớt hải ấy, cô ta hẹn đến lúc năm giờ, nhưng lại đến trễ hơn nửa tiếng, thở không ra hơi, cứ như phải chạy bộ cả quãng đường. Cô vừa xong giờ tập, luôn luôn bị muộn giờ, Max đã quá quen chuyện ấy. Sau đó họ trò chuyện lâu về Max, về mọi nỗi vui buồn của họ, thật kinh khủng mỗi khi Max ra đi, đơn giản là cô không thể nào làm quen được tình huống đó, mỗi lần như vậy, thế giới của cô sụp đổ. Tất nhiên Max gửi lời chào hai người, cô nói, mới đây Max và ông tiến sĩ đã trò chuyện rất lâu ở quán cà phê Josty. Chị biết quán Josty không? Dora chỉ nghe tên. Anh ấy đâu nhỉ? Emmy hỏi. Giờ thì chính Dora cũng ngạc nhiên. Lúc nãy ông còn đang viết. Nhưng khi họ sang phòng bên thì thấy ông ngủ trên tràng kỷ, mặt quay vào tường, chân hơi co lên cho đủ chỗ, không cựa quậy.

Chú thích:

(1) Ngôn ngữ nghi thức của Do Thái giáo. (Tất cả chú thích trong sách là của người dịch.)