Chương 20
Địa bàn hoạt động của ta từ chiến khu về đô thị phải vượt con sông Sài Gòn. Đơn vị phân công cho một đồng chí chiến sĩ quân báo mới phụ trách bến đò để đưa rước cán bộ, bộ đội qua sông: Phan Thành Lợi.
Với một chân còn lại, Lợi đã quyết định chọn bến sông này làm chiến trường của mình sau một thời gian dài trăn trở, đau xót vì tật nguyền khắc nghiệt. Anh như con chim gãy cánh, từ khoảng trời cao đột ngột rơi xuống, đứng ngơ giữa mặt đất xa lạ, ngước nhìn khoảng rộng mênh mông mời gọi trên đầu mà không làm sao trở lại với nó được.
Những người bạn đến thăm rồi ra đi. Họ ra đi với súng đạn với bòng bị, bình toong, xanh-tuya-rông, mũ tai bèo. Họ mang hình ảnh của anh đến thăm rồi cũng mang cái hình ảnh quen thân ấy ra đi.
Những cái bắt tay, những tiếng lách cách của súng đạn, những giọng nói vang vọng sâu thẳm nhất trong lòng anh vẫn là những bước chân của họ dẫm trên lá khô rải đầy trên con đường mòn sau lưng lán trại. "Lợi ở lại mạnh giỏi" "Anh Tư cố gắng tĩnh dưỡng cho mau bình phục". Ánh thuốc lá lóe lên, ửng lên trên khuôn mặt người lính trẻ, ửng lên trong đêm và in thật đậm, cố định trong cái nhìn của Lợi.
Trước đây có bao giờ anh để ý đến những hình ảnh nhỏ nhặt ấy, có bao giờ tiếng bước chân đi sau nhà lại làm cho anh bâng khuâng đến như thế. Bây giờ thì chúng nhắc anh nhớ cả một quãng đời, dọc ngang khắp đó đây, nhớ những trận đánh, những lửa khói, những tiếng nổ, những khuôn mặt của từng đồng đội… Và khi tất cả mọi người đã đi hết thì anh mới thực sự rớt vào một nỗi trống trải không bờ bến. Sự trống trải cứ càng ngày càng mênh mông.
Ta chưa đến nỗi nào phải dừng cuộc đời lại nơi đây, phải rút về làm người ở ẩn nơi một khu an dưỡng nào đó. Hãy cứ thử xem, hãy thử đề nghị xem.
Lợi đi lại đã thạo. Chân còn lại đã vững vàng hơn, khéo léo hơn, hai tay không còn vụng về, run rẩy. Anh tập đi, không phải chỉ đi mà chạy, mà day trở… Sau chuyến về thăm quê, Lợi hoàn toàn thấy tự tin ở mình. Anh trở lại quân y viện giữa mùa trái gùi chín rộ. Anh ngồi ăn trái gùi viết một cái đơn xin được tiếp tục công tác. Bác sĩ Vũ nhận đơn, đọc xong ông lắc đầu nói: "Không tiện đâu, tình trạng của đồng chí khó tiếp tục công tác lắm". Lợi chưa thất vọng. Anh lại làm đơn, lại năn nỉ, cuối cùng bác sĩ phụ trách phải chuyển đơn của anh về Quân Lực Y4. Kết quả cũng không khá hơn bao nhiêu. Lợi lại viết một bức tâm thư kể lể, phân tích dài dòng về tình trạng về khả năng và nguyện vọng của mình.
Cuối cùng anh được chấp thuận cho tiếp tục công tác trong Cánh quân báo Gò Môn. Công việc của anh là đưa rước cán bộ, bộ đội qua sông.
Qua sông. Đã biết bao nhiêu lần anh đưa thuyền qua sông. Con sông Sài Gòn quen thuộc như một người bạn, thân mật, như một người tình, lúc vui, lúc buồn như nỗi lòng anh.
Con sông Sài Gòn xanh ngắt và lững lờ nơi khúc quanh yên tĩnh có đàn le le, vịt trời, có lũ cò diệc hàng ngày tới uống nước, tới vùng vẫy rồi bay đi. Khúc sông vẫn ở lại với thời gian, với những buổi trưa hè lặng im và những đêm tối ngồi hút thuốc chờ giao liên đưa đoàn quân tới.
Con sông chảy qua đời anh, suốt tuổi thơ đến giờ, con sông chứng kiến mối tình trong sạch đằm thắm của anh và chứng kiến sự tan vỡ, sự lặng thinh đến ngỡ ngàng của một lần anh đưa Huệ sang sông. Huệ đi với hai người khách, hai cán bộ cao cấp đã lớn tuổi. Anh và Huệ, hai người không nói gì nhau, lặng lẽ, cô độc. Chỉ có một lần khi lên bờ, Huệ ngoảnh lại và trong bóng hoàng hôn anh còn thấy được đôi mắt đỏ hoe, một mái tóc đen bay lất phất trong cơn gió lạnh giữa sông đưa lại.
Từ ấy đến nay anh không gặp lại Huệ nữa.
Qua sông. Con thuyền của anh vẫn lặng lẽ qua sông, nhẫn nại, chăm chỉ và cương quyết. Anh đã tự nguyện chọn bến sông này mặc dù mỗi sáng, mỗi chiều, mỗi trưa, nó cứ gợi lên trong anh nỗi nhớ. Những gì anh ngỡ là quên đi lại trở về từng đêm, từng hoàng hôn, từng sáng sớm tinh sương.
Hãy quên con người ấy đi. Hãy cuốn tất cả đi theo ngươi hỡi dòng sông câm lặng kia và hãy đem đến cho ta những niềm vui mới…
Những gian khổ vẫn đến với anh hàng ngày nhưng sau đó thì dòng sông vẫn hiền lành như một người bạn chân tình. Kẻ thù vẫn đến và gieo nhiều tai biến trên bến sông, nhưng khi chúng đi rồi dòng sông lại an ủi anh, vuốt ve anh bằng lời sóng nước dịu dàng của nó. Dòng sông có khi réo gọi anh lúc nửa đêm, anh giật mình thức giấc tưởng có ai muốn qua đò. Nhưng có khi không có ai cả, có khi là hai ba người khách. Giao liên thường là một cô gái. Những người khách mang theo súng đạn, những người khách đi hai tay không, những người khách lặng lẽ ít lời vì nhiêu nhiệm vụ, những người khách hút thuốc lá vấn to điếu ngồi chờ trong cơn gió lạnh.
Qua sông. Mời các đồng chí xuống thuyền. Họ nhanh nhẹn và quen thuộc. Thuyền ra tới giữa dòng, lướt đi trong bóng đêm. Tiếng sóng vỗ quen thuộc và thân mật. Vẫn rất thân mật như bao lần qua sông. Rồi bỗng nhiên có tiếng máy ca-nô vang lên. Các đồng chí tắt thuốc lá. Tiếng động cơ tới gần. Lợi ngừng mái chèo. Một loạt tiểu liên của địch bắn tới xối xả. Đạn vãi xuống mặt sông, nước tung tóe quanh thuyền. Một loạt khác bắn tới. Các đồng chí xuống nước đi. Mấy người khách trầm mình xuống. Cứ bơi vô bờ, không còn xa nữa đâu. Lợi không thể bỏ chiếc thuyền của mình. Nó là vũ khí mà Đảng giao cho anh. Lợi lật nghiêng nó một bên cho nước vào quá nửa. Chiếc thuyền chìm một nửa. Lợi lặn xuống vừa bơi vừa đẩy nó từ từ tới. Một ánh đèn pha quét ngang nhưng không đúng hướng. Dòng sông che chở anh. Nó vẫn lặng như tờ. Chỉ có anh và nó hiểu được mối tình của nhau, chỉ có anh và nó giữ trong nhau bao nhiêu hình ảnh quen thân từ thời ấu thơ cho đến bây giờ. Dòng sông hiền lành, từ tốn. Tiếng máy ca-nô đi xa dần. Dòng sông vẫn lách tách sóng vỗ.
Lợi múc nước cho thuyền nổi dần lên.
Đêm qua sông ướt sũng, đêm qua sông rét run. Bốn đồng chí và anh thương binh lái đò ngồi sưởi bên một bếp lửa nhỏ, chuyền nhau điếu thuốc đợi sáng.
Dòng sông yên lặng chờ người thiếu nữ ấy đến. Nhưng Huệ vẫn không đến. Có rất nhiều người khác đến thay cho cô qua mỗi lần chiến dịch.
°Ngày kia có một người đàn ông mắt xếch, râu rậm, mày rậm, tay chân vạm vỡ, qua sông. Ông qua sông với một túi xách nhỏ, một khẩu súng ngắn và một bình toong nước. Nhưng bên trong không đựng nước.
- Chú em biết uống rượu không?
- Ấm bụng lắm đấy. Lợi nói.
Sông yên tĩnh.
- Chú em cắm sào đi. Tôi chưa sang sông đâu. Tôi còn đợi thêm vài người nữa. Uống một chút!
Lợi ngồi xuống trước mặt người đàn ông:
- Hồi còn thanh niên cháu uống cũng khá. Từ khi đi bộ đội, cháu bỏ luôn.
- Không hề gì. Uống một chút.
Ông đưa bình tong cho Lợi. Lợi tiếp lấy, bị lây ngay cái hào sảng của người đàn ông nọ, anh nốc một hơi, thấy người ấm lên.
- Chú em bị thương trong trận nào vậy?
- Trận chống càn ở suối Sa-Nò.
Có tiếng chân đi sột soạt trên bờ. Ông nói:
- Có lẽ khách tới.
Nhưng chỉ có một người con gái mảnh khảnh mặc bà ba đen. Ông hỏi cô giao liên:
- Sao vậy?
- Trở ngại, chưa tới được. Chờ tới gần sáng. Em giao khách cho anh Tư đấy nha.
- Được, cô yên tâm. Lợi nói và uống một hớp nữa.
Cô gái quay đi. Lợi nói với theo:
- Nhớ đưa khách lại trước năm giờ nghe chưa. Tới trễ quá không được đâu. Đi sáng bất tiện lắm.
- Anh yên tâm.
Cô gái đi khuất sau đám lau sậy. Người đàn ông cất bình toong và vấn một điếu thuốc rê. Lợi hỏi:
- Chú cần nghỉ một lát không?
- Không. Tôi thức đợi các đồng chí ấy.
- Chú ra sớm quá vậy?
- Đáng lẽ chúng tôi cùng đi một lúc, nhưng tôi muốn ra trước để gặp chú em một chút. Có phải em là Tư Lợi không?
Lợi ngạc nhiên nhìn người đàn ông, trong lòng hồi hộp lạ thường.
- Dạ phải. Có chuyện gì vậy chú?
- Tôi muốn hỏi em một câu thế này nhé. Có phải chú em đã từng đau khổ về mái tóc uốn quăn của một người con gái không?
Lợi trố mắt nhìn người đàn ông.
- Chú muốn nói tới Huệ. Có phải Năm Huệ không?
- Tôi là bí thư chi bộ của Huệ. Đáng lẽ câu chuyện này chi bộ phải biết từ lâu nhưng Huệ nó kín đáo quá. Nó mặc cảm quá. Thực ra câu chuyện cũng không đến nỗi gì bế tắc. Chẳng qua là trong đầu của chúng ta, kể cả những người rất trẻ của thế hệ ngày nay như chú em, như Huệ, còn mang nặng một tinh thần đạo lý theo kiểu phong kiến, nên tự hành hạ, tự làm khổ mình và làm cho người khác phải đau khổ. Một người con gái uốn tóc thì có gì mà phải băn khoăn? Trước lúc quyết định uốn tóc cô bé khóc lóc, tự dày vò mình coi như đó là chuyện phi đạo đức, là học thói Mỹ, thói đồi trụy của Sài Gòn. Tại sao lại phải dày vò vì một chuyện buồn cười như thế? Còn chú mày nữa, có phải chú mày cũng thấy đau xót ngỡ ngàng khi nhìn mái tóc uốn quăn của Năm Huệ không?
Lợi nhớ lại cuộc gặp bất ngờ hôm đi xem biểu diễn văn nghệ ở vườn cao su.
- Dạ… dạ… Lợi ấp úng.
- Chú mày không thấy Năm Huệ nó đẹp hẳn ra, đẹp hơn bội phần sau khi uốn tóc à?
- Dạ… Lợi lại ấp úng… Nhưng biết đâu vì cái đẹp ấy mà xảy ra bao nhiêu đau khổ sau này cho mối tình của cháu.
Người bí thư chi bộ cả cười:
- Lại tưởng tượng ra chuyện gì nữa đây? Một chuyện thay lòng đổi dạ? Một chuyện bạc tình? Thôi, nghe chú nói đây: Vừa rồi trong đợt học chỉnh huấn "Bức thư của Đảng" Huệ đã tự kiểm điểm trước chi bộ như thế này: "Tôi không xứng đáng là một đảng viên. Trước đây tôi có hứa hôn với anh Nguyễn Thành Lợi. Khi chiến tranh bùng nổ, anh đi chiến đấu phương xa, còn tôi công tác nội thành. Mấy năm xa cách, khi gặp lại thì anh đã trở thành thương binh. Đáng lẽ tôi phải có trách nhiệm với anh cho trọn tình trọn nghĩa nhưng tôi có một cảnh đau khổ. Khổ đau đó do địch gây ra mà tôi không thể nói cho ai biết được…".
Rồi Huệ khóc.
°Tên sĩ quan lấy trong ngăn kéo ra một viên thuốc màu hồng và rót một ly nước trà lợt đưa cho Huệ.
-Uống tạm một viên Optalidon. Cô sẽ thấy đỡ nhức.
Huệ do dự trước viên thuốc. Có nên uống không? Có nên nhận ân huệ của hắn không? Tên nọ nói:
-Uống đi, nếu cô có muốn chống lại tôi thì cũng phải tỉnh táo mới đối phó được.
Huệ nói:
-Tôi chẳng có gì phải đối phó với ông. Tôi chỉ là một người bán hàng bình thường bị các ông bắt oan thì các ông phải thả tôi ra thôi.
-Vậy tại sao cô dè dặt quá như vậy?
-Cũng chẳng dè dặt gì. Tù nhân bịnh thì phải có uống thuốc, đó là luật pháp quốc tế chớ chẳng có gì lạ.
Và Huệ bưng lấy ly nước uống viên thuốc. Viên sĩ quan mỉm cười một cách thú vị và nói:
-Nhưng cái mới lạ là một cô bán trái cây lại có thể nói tới chuyện luật pháp một cách rành rẽ như thế.
Huệ ngửng lên nhìn hắn. Một tay thủ đoạn. Huệ nghĩ và tự trách mình thiếu kinh nghiệm. Chị thấy càng nhức đầu thêm và một sự mỏi mệt kỳ lạ cứ lan dần ra trong chị. Một chiếc xe tuần tiễu nào đó vừa đi qua ngoài đường, tiếng động cơ vang đi rất xa và giữ rất lâu trong không gian. Huệ thấy buồn ngủ và đưa tay vịn vào một góc bàn rồi gục đầu vào đó. Tên sĩ quan nhếch cười. Hắn đứng im lặng, nhìn Huệ một lúc lâu, coi đồng hồ rồi đến bên Huệ, đặt bàn tay lên vai chị, hắn gọi:
-Huệ! Huệ!
Nhưng Huệ đã không còn nghe thấy tiếng gọi ấy. Chị mơ hồ cảm thấy có một cái gì đó đang đe dọa mình nhưng không cưỡng lại nổi ngay cả lúc có bàn tay đến đỡ chị lên và dịu chị đến một cái ghế bành dài gần đó.
Huệ cảm thấy hơi thở của viên sĩ quan phả trên cổ mình và một bàn tay hắn mở nút áo mình. Trong tận cùng sâu thẳm nào vang lên tiếng kêu cứu và Huệ cố vùng dậy nhưng chân tay không còn sức lực nữa, tâm thần mơ màng nửa hư nửa thực và Huệ nhắm mắt lại thiếp đi trong cơn mê man.
Khi tỉnh dậy Huệ ngạc nhiên thấy mình được đắp bằng một chiếc mền và ở đâu đó nghe có tiếng nước nhỏ giọt. Lúc mắt chị đã quen với cảnh vật chung quanh chị liền nhận ra vệt sáng nhỏ của cái lỗ đưa cơm trên cánh cửa sắt cát-sô và hiểu ra rằng tiếng nước nhỏ giọt phát ra từ ống nước chạy bên mình. Chị sờ cái mền, một chiếc mền len nhà binh. Của ai đây? Và chị chợt hoảng hốt nhớ ra mọi sự. Huệ đưa tay sờ xuống phía dưới bụng và bật khóc. Một cảm giác lạnh buốt xâm chiếm toàn thân chị, chị quấn chặt mền lại nhưng rồi chị nghiến răng lại và tung mền ra, đứng bật dậy, muốn phá tan cánh cửa sắt mà ra nhưng hai chân sụm xuống.
Chị khóc ngất. Nước mắt chảy ràn rụa trên má, chảy vào môi, chảy xuống cổ. Anh Lợi ơi, tại sao em lại lâm vào tình cảnh này. Huệ gục xuống, tóc rối tung. Tiếng nước ngưng hẳn, Huệ khóc đã khô cạn nước mắt mà lòng thì tê tái. Bỗng chị nghe có tiếng bùng bùng ở đâu đó vang lên. Tiếng không to nhưng nghe rất rõ, nghe như tiếng ai đấm vào một bức tường bằng đồng ở tận đâu xa. Tiếng ấy cứ lặp lại. Huệ ngạc nhiên, chú ý lắng nghe. Hồi lâu chị nhận ra đó là tiếng phát ra từ ống nước. Chị bò tới áp tai vào vòi nước.
-Bùng bùng!
Huệ biết ngay đó là tiếng ai gõ vào uống nước. Chị gõ đáp lại:
Từ trong ống nước có tiếng nói, tiếng một người đàn ông:
-Năm Huệ đó hả?
-Dạ. Ai vậy?
-Cứ tạm gọi tôi là Ca Man. Còn chị là Cửu Long nhé. Có chuyện gì vậy, Cửu Long?
Có nên nói thiệt không? Trời ơi, thà chết còn hơn. Không còn gì nhục nhã bằng. Tiếng nói trong ống nước lại giục:
-Có chuyện gì vậy?
-Không… Không có gì đâu anh ạ.
-Sao khóc?
-Em đau bụng quá.
-Ráng chịu một lát. Gần sáng rồi. Khi chúng đem cháo sáng tới sẽ có người đưa thuốc cho. Dũng cảm lên Cửu Long nhé.
Tiếng nói tắt phụt. Mình có nên tố cáo hành động bỉ ổi của chúng ra không. Phải kiện chúng nó. Nhưng trời ơi, nếu mọi người mà biết chuyện này! Nếu anh Lợi mà biết chuyện này! Thôi hãy ngậm miệng hãy nuốt quả bồ hòn xuống, hãy tự giải quyết cuộc đời mi một cách âm thầm.
Chung quanh rất im lặng, Huệ mường tượng tới một cánh rừng già nào đó ở Bến Cát, một người chiến sĩ trẻ nằm mơ trên chiếc võng dù, một niềm tin trong sạch, một người con gái trong trắng hồn nhiên. Huệ đã sẩy tay rồi, đã đánh vỡ chiếc bình pha lê.
Tội nghiệp cho anh biết chừng nào Lợi ơi. Khổ thân em biết chừng nào, anh ơi! Huệ lại khóc nhưng bây giờ thì âm thầm, rưng rức, tê tái.
Trời sáng dần. Nước lại chảy rỉ rả trong vòi. Huệ thức dậy bỗng chốc thấy mình thừa thãi, ô uế, xa lạ với chính mình. Người đưa cháo sáng đến. Tiếng bước chân của anh ta nghe lẹp xẹp, anh ta gõ vào cánh cửa cát-sô:
-Cháo đây.
Một lúc lại nghe "cháo đây" lặp đi lặp lại. Huệ rửa ráy xong dùng vạt áo lau mặt, thấy hai mắt mình sưng húp. Chị đứng nép một bên cánh cửa không dám nhìn thẳng ra lỗ cơm. Người đưa cháo đến. Cháo đây. Và anh ta ném vô lỗ cơm một gói giấy nhỏ. Cháo đây, anh ta lại đi sang cát-sô khác. Huệ đặt cái dĩa nhôm đựng cháo xuống nền xi măng và nhặt lấy cái gói giấy. Những viên thuốc đau bụng. Nhưng mình có đau bụng đâu. Huệ gói thuốc lại và để vào một góc.
Hôm sau Huệ nói với người đưa cháo:
-Anh cho một tí thuốc sốt rét.
Và chị lại nhận được một gói giấy nhỏ như bữa trước. Chị giấu trong lưng quần và ngồi tựa lưng vào vách nhắm mắt lại.
Mười viên uống cùng một lúc là xóa sạch mọi điều nhơ nhuốc, là trọn lòng trinh, trọn nghĩa thủy chung với người mình yêu. Huệ mở gói giấy ra.
-Lạch cạch.
Ai mở khóa. Ánh sáng ùa vô đột ngột. Huệ vội vàng giấu thuốc vào lưng quần.
-Đi!
Tên trật tự nói cộc lốc và nhìn quanh căn phòng nhỏ hẹp. Chợt hắn chú ý tới cái gói thuốc đau bụng trong góc. Hắn cúi xuống nhặt lên và hỏi:
-Đâu có đây?
Huệ làm thinh.
-Được. Mày lên đây!
Và hắn đánh với nỗi bực dọc khác thường của một kẻ mất trí. Sự im lặng của Huệ đã chọc tức hắn, hắn cứ vung dùi cui lên, cái dùi cui bằng thép bọc cao su. Huệ quay mòng mòng, người cứ dạt đi như trong bão táp, cho tới khi chị té quỵ xuống.
Khi tỉnh dậy Huệ thấy mình nằm trong lòng một người đàn bà đứng tuổi. Chị đưa tay vuốt ve mái tóc Huệ, mái tóc không còn mượt mà như ngày xưa mà dày cộm lên, thấm đầy mồ hôi và máu. Người bạn tù hỏi:
-Em mệt lắm không? Uống một tí đường nhé.
Huệ gật đầu.
-Em bị bắt bao lâu rồi?
-Hơn một tuần chị ạ.
Người chị đỡ Huệ dậy cho uống một chút nước đường. Huệ chỉ uống được một hớp vì môi chị bị giập, sưng to lên. Huệ nắm lấy tay người bạn tù và nói:
-Chắc em chết, chị ạ.
-Sao lại chết được? Em thấy trong người thế nào.
-Em có chết cũng không sao, nhưng chỉ thương cho…
-Cho ai. Em nói chị nghe.
-Chẳng biết chị có giúp em được không?
-Chị sẽ làm tất cả những gì có thể làm được.
-Nếu em có chết đi thì nhờ chị viết vài lời báo tin cho anh Phan Thành Lợi C9 – D106 – TL biết.
-Anh ấy là gì của em.
-Chồng chưa cưới của em.
Và nước mắt lại trào ra.
Tiếng nói dịu dàng vang lên bên tai Huệ:
-Đừng nên yếu đuối như thế, em à. Hãy dũng cảm.
Huệ biết nói sao cho người bạn tù hiểu rằng đó không phải là những giọt nước mắt của lòng yếu đuối.
°Người bí thư chi bộ lại mở nắp bình toong tu một hớp rượu rồi đưa bình toong cho Lợi. Lợi cầm bình rượu mà những ngón tay run lên, tràn ngập lòng thương cảm. Anh hỏi:
- Thế rồi Huệ bỏ ý định tự tử.
- Không. Cái sức mạnh của nền đạo lý phong kiến nó ghê gớm lắm. Nó thấm vào máu của mỗi chúng ta không phải từ nhỏ mà từ khi còn nằm trong bào thai, từ mấy ngàn năm trước khi ta sinh ra đời. Cái quan niệm về chữ trinh của người con gái cách mạng vẫn giống y hệt như trong câu chuyện Ngũ Tử Tư và người thiếu phụ ven sông của cái thời phong kiến cách đây gần ba ngàn năm ở bên Tàu. Ngày kia Ngũ Tử Tư thua trận bị đuổi tới một bến sông, vừa mệt vừa đói khát. Ông gặp một người thiếu phụ, hỏi thăm đường. Thiếu phụ chỉ đường xong, thấy Tử Tư đói lả liền lấy vắt cơm của mình bẻ đôi ra chia cho Tử Tư một nửa. Tử Tư ăn xong cảm tạ và từ giã lên đường. Tử Tư đi rồi người thiếu phụ nghĩ rằng, mình là con gái đã có chồng mà chia cơm với một người đàn ông xa lạ coi như đã thất tiết rồi, vì thế nàng liền nhảy xuống sông tự tử.
Ngày nay, một người đảng viên cộng sản như Huệ, tuy mức độ bị xâm phạm có tàn bạo hơn nhưng quan niệm về chữ trinh thì giống nhau, rất cố chấp, rất hẹp hòi, rất máy móc.
Đáng lẽ Huệ phải hiểu rằng đó cũng chính là một sự mất mát mà người làm cách mạng phải dũng cảm nhận lấy, phải hiểu rằng đó cũng là một vết thương mà người chiến sĩ phải hứng chịu vì trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng cộng sản, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Hiểu như thế thì sẽ chẳng thấy gì là hổ thẹn, chẳng có gì là tội lỗi, chẳng có gì mà phải đợi mọi người ngủ hết, lấy mười viên thuốc sốt rét ra uống một lúc rồi quằn quại lăn lộn trong cơn hấp hối. Mọi người phải đưa Huệ đi nhà thương. Mọi người phải giải thích, phải an ủi, động viên biết bao nhiêu lần. Huệ bỏ ý định tự tử nhưng cái mặc cảm về sự ô uế, về sự thất tiết vẫn choán hết tâm hồn nó rồi. Nó quyết định cắt đứt với chú em. Có phải nhiều lúc nó cười cợt trên sự đau khổ của chú em, nó làm cho chú em tức giận, căm thù nó không?
Lợi ngồi im. Mắt cay quá. Mắt cay mà không khóc được.
- Cám ơn chú. Lợi nói. Và cầm lấy bàn tay thô, to lớn của người đàn ông – Cám ơn chú vô cùng. Cháu không ngờ sự việc đã xảy ra như thế. Cháu không ngờ Huệ đã phải trải qua những giờ phút đau đớn tận cùng đến như thế. Cháu có lỗi với Huệ vô cùng.
- Hãy viết cho cô ấy một bức thư. Viết đi. Trời sắp sáng rồi.
Lợi lấy giấy bút ra, kê cuốn tập trên đầu gối và bắt đầu viết. Nhưng anh không viết ngay được. Anh bôi xóa, anh bất lực trước những cảm xúc dào dạt cứ dâng lên trong anh như những đợt sóng. Anh muốn có Huệ ở đây để nói những lời ngọt ngào nhất, tha thiết nhất, để thét to lên rằng Huệ vô cùng trong sạch, cao quý và đẹp vô ngần, để giữ Huệ mãi bên anh, cùng anh xoa dịu những vết thương chiến tranh.
Giặc đã cướp mất của anh một cái chân và cướp của em những gì cao quý nhất của một đời con gái, nhưng chính từ những mất mát ấy mà chúng ta nhìn mặt kẻ thù rõ hơn, thấy được con đường ta đi rực rỡ hơn và tìm được những giá trị mới, những điều cao quý, thiêng liêng mới từ trong cuộc chiến đấu. Cho nên tuy chúng ta mất mát mà chúng ta vẫn còn nguyên vẹn, vẫn trong sạch, thanh khiết.
Lợi cắm cúi viết, phải truyền cho hết những ý ấy, phải thuyết phục Huệ, phải thuyết phục cho được. Và anh tin rằng những dòng chữ những cách diễn đạt vụng về của anh sẽ làm được điều ấy bởi một lẽ giản đơn vì đó là một sự thực.
Người bí thư chi bộ ngồi lặng thinh nhìn sao lấp lánh trên cao. Ông đã nói hết những gì ông muốn nói, bây giờ thì ông thấy lòng thanh thản và tin rằng những điều ông vừa nói ra đang thành hình dần trong hai tâm hồn đó niềm hạnh phúc.
Ông thấy đêm sao đẹp rực rỡ tuyệt vời.