← Quay lại trang sách

Chương 21

Hai người không nói gì nữa khi trăng bắt đầu lên. Trăng non dại như khuôn mặt đứa bé gái lên mười, lấp ló sau đám lau sậy, sau những lá cỏ cao. Chiếc thuyền của Lợi cứ trôi dần đi và anh ngừng tay chèo, cùng Huệ nhìn bóng trăng hồn nhiên tan ra rồi hợp lại dưới lớp sóng nhẹ, thủ thỉ.

Dòng sông này hai người đã đi qua nhiều lần trong suốt tuổi thơ, trong những chặng đường công tác, họ đã trải qua những đêm trăng mênh mông nhưng chẳng khi nào lòng hai người trầm lắng, tĩnh lại, chẳng bao giờ tình cảm của họ đằm thắm như lúc này.

- Tự nhiên em nhớ thời còn nhỏ. Huệ nói.

- Hồi nhỏ em sống ở đâu mà anh không biết. Lúc gặp em lần đầu, em nói em là người Củ Chi anh không tin vì từ nhỏ anh có biết em đâu.

- Em theo một người đi lên Sài Gòn, lúc đó em mới tám chín tuổi gì đó, ba má chết hết, không có nhà ai quen, buổi tối hai dì cháu ngủ ngoài lề đường. Gần sáng thức dậy, thành phố im lặng, chỉ nghe tiếng xe đi qua rù rì buồn ghê gớm. Không biết sao em cứ nhớ hoài tiếng xe rù rì ấy. Khi em nhận được thư anh, em đọc đi đọc lại rồi em khóc. Gần sáng, em thức giấc lại nghe tiếng re rầm rì đi qua thành phố giống hệt cách đây mười lăm năm, em buồn quá. Không biết vì sao em buồn như thế. Em lấy thư anh ra đọc lại. Em nghĩ mà thương anh quá.

- Thôi Huệ ạ. Em vẫn chưa ra khỏi những ý nghĩ ảm đạm. Cái thời em ngủ ngoài đường đã qua rồi cũng như anh, cái thời đi làm thuê cho những tên chủ đồn điền bóc lột đã qua rồi. Bây giờ chúng ta là những người tự do. Những đau khổ, những mất mát vừa qua chỉ làm cho con người cộng sản trong chúng ta bền vững thêm lên mà thôi.

Huệ tìm bàn tay Lợi, nắm lấy, giữ mãi trong tay mình:

- Em chỉ muốn nhắc lại thời nhỏ vì tự nhiên đêm nay, gần bên anh, em thích như thế. Có lẽ thời ấy nó làm cho chúng ta gần gũi với con sông này hơn, gần gũi với sự thanh bình hơn và thời ấy còn nhắc cho em một tình cảm rất đằm thắm đó là tình yêu giai cấp. Em ở Sài Gòn từ năm lên mười đến khi đã là con gái, về Củ Chi hơn một năm lại trở lại Sài Gòn công tác, em tiếp xúc với cuộc sống xa hoa chung quanh, ồn ào, náo nhiệt, xô bồ, phức tạp đủ thứ hết… nhưng có một ngọn lửa không bao giờ tắt được trong lòng em đó là tuổi thơ, tuổi thơ nhắc nhở em hoài về tình yêu giai cấp. Em cứ nhớ hoài tiếng xe rầm rì đi qua thành phố lúc gần sáng, em thức dậy và ngồi bó gối bên cột đèn đường nhìn những chiếc xe đi qua. Buồn, cô đơn, xa lạ… Bây giờ trên đường phố Sài Gòn vẫn còn đầy những đứa trẻ như thế. Thế còn tuổi nhỏ của anh. Anh kể cho em nghe đi.

Lợi mỉm cười.

- Anh hút một điếu thuốc nha?

- Anh hút đi. Em có mua cho anh mấy gói Ara. Em thấy anh hay hút loại thuốc đó.

Lợi khum hai bàn tay lại, đánh diêm. Ánh lửa lóe lên nhuộm hồng một khuôn mặt đen sạm góc cạnh của người thương binh. Huệ thấy hai hàm răng trắng của Lợi chợt ửng lên một vẻ sáng kỳ lạ. Lợi nói:

- Tuổi nhỏ của anh không có gì để kể cho em nghe đâu. Cái thời anh khổ nhứt là thời mới lớn. Hồi đó là vào khoảng năm 1957, bọn Ngô Đình Diệm ra lệnh bắt lính khắp Củ Chi. Tổ chức khuyên anh đi xuống Bình Long lánh tạm ít lâu. Nhà rất nghèo, ra đi má gom góp được năm mươi đồng bạc đưa cho anh. Đi xe mất hết một nửa số tiền ấy. Anh đi cùng với anh Mướt. Hai anh em đến ở nhờ nhà của một người bà con của Mướt. Tới nơi đã mười ngày rồi mà chưa tìm ra chỗ làm, tiền hết, gạo hết nên hai anh em phải đi kiếm mít non về nấu với muối mà ăn.

Đến ngày thứ mười hai, tụi anh mới tìm được chỗ làm. Đó là chặt lồ ô phá rừng cho chủ đồn điền đặng chúng trồng cao su. Làm mỗi ngày được năm mươi đồng. Tụi anh làm việc chung với những người dân tộc thiểu số, cứ sợ họ có ngải, họ sẽ thư mình chết. Tuy vậy cùng lao động với nhau tự nhiên nảy ra tình cảm. Anh biết đồng bào dân tộc họ làm việc có năng suất hơn mình, nhưng bọn cai thầu lại xén bớt tiền lương và bắt làm ngày tám giờ rưỡi. Anh bàn với Mướt: "Trưa nay ta kêu anh Sa-lăng đến ăn cơm với mình một bữa". Cơm dỡ bằng mo cau ăn với trứng vịt kho mặn. Anh đem thuốc lá ra mời Sa-lăng nhưng diêm quẹt lại hết, không biết làm sao châm thuốc. Lúc ấy Sa-lăng liền rút con dao ra, đứng dậy chặt một ống lồ ô đem vào chẻ ra thành một thanh lớn. Sa-lăng hỏi tụi anh: "Các anh có biết Việt Minh không? Hồi kháng chiến đánh Tây, Việt Minh đã dạy tôi làm ra lửa".

Nói xong Sa-lăng chẻ một sợi lạt bằng ngón tay, rồi đem cọ vào thanh lồ ô. Chỗ anh cọ có một cái lỗ bằng ngón tay nhét vào tí nùi vải. Chừng một phút sau chỗ đó bốc lên khói và cháy lên ngọn lửa nhỏ. Mọi người cười vui thích thú, xúm xít bên nhau đốt thuốc. Lúc ấy anh mới bảo Sa-lăng: "Đúng ra mỗi ngày mình chỉ làm tám giờ nhưng bọn chúng đã bắt đồng bào thượng làm tám giờ rưỡi, như vậy không chấp nhận được. Như vậy là cứ mỗi người nó ăn gian nửa giờ, anh tính thử coi hơn năm mươi anh em mình bị chúng ăn gian bao nhiêu?".

Sa-lăng nghe nói phải, gật đầu lia lịa nói:

- Tôi sẽ nói với dân bản mình làm một ngày tám giờ thôi. Anh canh giùm đồng hồ. Khi nào tới giờ nghỉ anh báo giùm tôi.

Anh cũng hồi hộp lắm, chỉ sợ không có kết quả rồi bị chúng đàn áp. Đúng bốn giờ chiều ngày hôm ấy, Lợi báo với Sa-lăng, anh liền gọi dân bản nghỉ. Thật không ngờ. Chỉ một tiếng gọi của Sa-lăng là toàn thể dân bản vác xà-gạc ra về. Bọn cai thầu ngạc nhiên và vô cùng tức giận. Chúng la hét lồng lộn nhưng cuối cùng cũng phải thất lý, phải nhượng bộ. Thắng được một trận, dân bản có vẻ vui sướng lắm. Anh chủ động phát động đợt đấu tranh thứ hai đòi tăng lương công nhật của người thượng lên ngang hàng với người kinh.

Cuộc đấu tranh nổ ra. Sa-lăng nói: "Người kinh họ làm năm mươi đồng còn chúng tôi mỗi ngày có bốn mươi đồng, đề nghị các ông tăng lương bằng với người kinh thì chúng tôi mới làm nữa".

Tên cai thầu đỏ mặt quát to: "Không có tăng gì hết! Đứa nào muốn nghỉ thì nghỉ đi!"

Sa-lăng cũng gọi to: "Nghỉ, bà con ơi!" Tiếng mọi người đáp lại: "Nghỉ thôi, nghỉ thôi!" Thế là lại vác xà-gạc về hết y như hôm trước. Bọn cai thầu không làm gì được đành phải thỏa mãn đòi hỏi của anh em. Sa-lăng rất mừng liền chạy đến chỗ bọn anh báo tin. Đó là cơ sở cách mạng đầu tiên được xây dựng giữa lòng những người dân tộc. Một chuyến đi trốn quân dịch không ngờ đã đem lại kết quả tốt như vậy. Lúc ấy anh cũng chẳng biết chính trị gì nhiều đâu, cũng chẳng có sự chỉ đạo của Đảng. Em hiểu cái gì đã giúp anh phát động được phong trào, xây dựng được những cơ sở ấy không. Đó là tình yêu giai cấp. Cũng như em vậy Huệ à, cũng như tất cả mọi người cộng sản chân chính khác. Tình yêu đó giúp chúng ta vượt qua tất cả, giúp chúng ta bền lòng cả trong tình yêu nữa.

Huệ nằm im lặng trên khoang thuyền. Trăng đã lên cao, tròn và sáng hơn nhưng vẫn thơ dại như khuôn mặt của cô bé lên mười. Huệ nhìn mãi mặt trăng hiền hòa ấy và thấy hạnh phúc đang vuốt ve mình như cơn gió nhẹ đang thoảng qua, đang mơn man trên tóc trên má. Rồi bỗng nhiên chị nói:

- Em nghĩ nếu hai đứa mình chỉ là cặp vợ chồng thuyền chài quanh năm sống trên thuyền đi đây đi đó đánh bắt cá đổi lấy gạo, sống như thế chắc cũng vui cũng an nhàn, nhưng nghĩ lại một cuộc đời như vậy cũng chẳng có gì đáng sống.

Lợi nói:

- Em nói rất đúng. Nếu ngay từ đầu mình lấy nhau rồi sống như một đôi vợ chồng thuyền chài như vậy thì con người của mình nó sẽ khác, đầu óc, suy nghĩ, tình cảm cũng khác, chớ không phải như bây giờ.

Lợi đem nước lại chỗ Huệ đang nằm. Chị ngồi dậy. Một ít bánh kẹo đã bày ra. Huệ nói:

- Anh nhớ hồi trước mình đi chơi thuyền với chị Thủy và anh Lời không? Vui quá anh há? Hồn nhiên lạ lùng, chẳng suy nghĩ gì cả, đầu óc dễ dãi, nhẹ nhàng. Bây giờ thấy trầm lại. Niềm vui cũng trầm lại. Già rồi đấy anh à. Nghĩ mắc cười, bí thư chi bộ của em lúc vui thường uống rượu, ổng nói với em: "Tụi bay muốn cưới lúc nào tao cho cưới lúc đó".

Lợi nói:

- Nếu anh là bí thư chi bộ của em anh cũng nói y như vậy.

Huệ cười khúc khích. Gió bỗng tung mái tóc lên trong tiếng cười trong trẻo ấy và Lợi chợt bàng hoàng trước vẻ kỳ diệu của mái tóc uốn theo kiểu người thành phố. "Chú em không thấy sau khi uốn tóc Huệ nó đẹp lên bội phần sao?" Ông già có lý. Lợi đưa một viên kẹo cho người yêu và khi hai mái đầu gần nhau, anh hôn nhẹ lên má Huệ một cái. Huệ tự nhiên nói:

- Em có chứng kiến một đám tuyên bố rất khó quên. Đêm đó em chèo cái xuồng đưa khách đi ra cửa sông, khi len qua mấy con lạch chợt thấy có ánh sáng đèn măng sông rực rỡ trong những lùm lá xoài, em chèo lần tới, nghe tiếng đờn măng-đô-lin, tiếng cười nói lao xao. Đám cưới của sáu Mai. Anh có quen với sáu Mai không?

- Có biết. Rồi sao?

- Em muốn gọi nó nhưng sợ lộ bí mật mấy người khách nên chèo qua luôn. Thình lình nghe tiếng phao đề-pa rồi. Ùm! Ùm! Cô dâu chú rể phóng một cái lọt xuống kinh, bơi lớp ngớp. Em bảo mấy người khách:

- Ngăn đi! Ngăn đi!

Khách lấy khăn ra che mặt mũi xong em bơi xuồng tới vớt con nhỏ lên. Anh chồng bơi vô bờ một mình bỏ cô vợ mới. Sáu Mai nó giận quá, khóc mấy ngày. Đàn ông thường tệ như vậy đó.

- Không phải đàn ông nào cũng tệ như vậy đâu.

Huệ nói:

- Làm sao biết được.

Lợi ngước nhìn trời nói rất tự nhiên:

- Dễ mà, Lợi vừa nói vừa cởi áo, để anh lật cho thuyền chìm rồi em sẽ thấy mọi việc xảy ra như thế nào.

Huệ kêu lên:

- Í, thiệt hả? Em không biết lội đâu.