← Quay lại trang sách

Chương 23

Sau mỗi trận ném bom B52 mặt đất hoàn toàn đổi khác. Vừa mới nhìn khu rừng cao su bạt ngàn che khuất chân trời đó, bỗng nghe báo động, sau trận bom, ở dưới hầm trồi lên thấy biến mất tiêu khu rừng cao su, giống hệt như bạn gặp một người quen để tóc dài, vừa quay mặt đi, nhìn lại đã thấy cái đầu anh ta trọc lóc.

Đó là một chút ác liệt của trận càn Xêđaphôn mà bọn Mỹ thường gọi là "lột vỏ trái đất".

Một buổi chiều đầu năm 1967, Lợi nhận được tin khẩn cấp: "Giặc sắp chụp xuống khu vực của đồng chí. Chuẩn bị rút về Bến Cát". Khoảng bốn giờ chiều hôm đó có một chiếc trực thăng tham mưu của địch đến quầng hai ba vòng rồi bay về. Lợi liền gọi anh em trong bán đội tập trung lại hội ý:

- Có khả năng sáng mai địch càn vô. Mình là đơn vị giao liên nên có lệnh cho rút về Bến Cát để bảo toàn lực lượng. Khuya nay Trung nấu cơm ăn, dỡ cơm thật sớm, rồi vắt cho mỗi người một ít để đem theo. Mọi người đều sẵn sàng để rạng sáng là ta đi.

Hai giờ khuya, một chiếc L19 đến, lượn rè rè mấy lượt rồi bay đi. Lợi ngồi dậy đốt đèn và gọi nhỏ.

- Trung nè, dậy nấu cơm.

Toàn bộ anh em trong bán đội đều thức dậy, sửa soạn mọi thứ xong ăn cơm.

Bốn giờ hai mươi lăm phút. Anh bò lên miệng hầm nghe ngóng. Đúng bốn giờ ba mươi phút, pháo giặc từ Đồng Dù bắn tới dữ dội. Sau nửa giờ có ba khu trục cơ đến bắn phá, trút bom và chỉ một lát sau, hai mươi bốn chiếc trực thăng từ hướng sân bay Biên Hòa bay đến và bắt đầu hạ thấp xuống.

Lợi dặn anh em một lần nữa:

- Nhiệm vụ của bán đội chúng ta không phải trực tiếp chiến đấu nên chỉ được phép nổ súng khi nào đụng.

Nhưng chưa đụng. Hai mươi bốn chiếc trực thăng lại đổ quân sau lưng các chiến sĩ quân báo, trên một cánh đồng lúa mênh mông. Nửa giờ sau mười hai chiếc khác lại đến đổ quân hướng Tây Nam. Bầu trời không lúc nào ngớt tiếng máy bay gầm rú. Chúng quầng đảo dày đặc như bầy quạ đen.

- Ta đi!

Mọi người xuống thuyền. Nhưng vừa mới ra tới cửa sông thì một chiếc "lồng kẽm" bay tới. Lợi nói:

- Đừng nổ súng, trừ khi chúng nhìn thấy ta.

Nhưng chiếc trực thăng lại bay qua luôn.

Thuyền vào tới mé sông. Út Trung nghe ngóng tiếng đạn nổ giòn từ phía xa rồi nói:

- Chắc bọn Mỹ đang đụng với tiểu đoàn 2 Gò Môn.

Lợi cười cười:

- Anh Tám Lê chuyến này trúng mối.

- Tám Lê nào? Mãi hỏi.

- Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 Gò Môn. Tụi Mỹ trước giờ ớn Tám Lê lắm, tụi nó đặt tiểu đoàn của ảnh là "tiểu đoàn rái nước" chuyên môn hoạt động ở đồng ruộng bưng biền kinh rạch, lúc ẩn lúc hiện, làm tụi nó điên đầu.

Út Trung hỏi:

- Anh có thân với anh Tám không?

- Có thời ảnh là thủ trưởng của anh. Tay đó cừ lắm. Lì vô cùng. Nhưng còn tay Mười Chi mới sợ. Tụi bay gặp giả, tụi bay không ngờ đâu.

- Kể tụi em nghe đi anh Tư.

- Hồi đó khoảng tháng mười năm sáu sáu, tụi Mỹ cũng đổ quân xuống vùng 5 Gò Môn như mấy bữa nay, lúc đó Mười Chi làm trung đội trưởng trinh sát. Trực thăng nó rề rề hạ xuống ngay trên đầu mà giả coi như không. Giả chấn một viên AK ngay trục chong chóng, nó rớt cái ào, nằm chình ình như con trâu, chiếc thứ hai thấy vậy ở trên nhào xuống tiếp cứu thì…

- Ảnh chấn luôn một phát nữa? Mãi xen vô.

- Hổng phải. Lần này giả xài mãng cầu. Thảy ngay vô cửa máy bay. Nằm luôn. Trận đó bộ đội Tám Lê dứt gần một trăm thằng thuộc sư đoàn Tia chớp Nhiệt đới.

Lợi vừa nói dứt câu đã nghe từ phía mặt trận tiếng lựu đạn nối tiếp nhau nổ đì đùng. Út Trung sướng quá cười hề hề:

- Anh Mười Chi đang chơi "mãng cầu" rồi. Thế nào lát nữa trực thăng tải thương cũng bay qua đây.

Út Trung nói chơi mà thiệt. Từ đó tới chiều những người du kích trẻ nghịch ngợm của đất Củ Chi cứ ngồi trên miệng hầm mà đếm từng chiếc máy bay tải thương và nói dóc đủ thứ chuyện. Bán đội của Lợi ngủ qua đêm ở Bến Cát. Một đêm tương đối yên tĩnh.

Ngày hôm sau, mặt trời chưa lên thì pháo đã rót tới rồi. Ban đầu còn lai rai, tới trưa thì bắn cấp tập. Buổi chiều, Út Trung họp anh em thanh niên trong vùng lại, bảo họ:

- Thế nào chúng cũng càn qua đây. Anh em nên tìm nơi lánh đi, tốt hơn.

Số thanh niên đi rồi, Lợi họp bán đội lại.

- Ta đã cố tránh đụng độ và rút về đây nhưng vẫn chưa ra khỏi khu vực càn quét của chúng. Vậy là giặc càn quy mô rất lớn, chắc mình không tránh khỏi đụng độ.

Quả nhiên ngày hôm sau bọn Mỹ xâm nhập vào căn cứ. Ngoài Lợi ra, Út Trung là người tương đối lớn tuổi và có kinh nghiệm chiến trường nhứt, nên đứng ra chỉ huy triển khai đội hình chiến đấu.

Lợi có một chân, không thể di chuyển dễ dàng được nên Út Trung đề nghị anh núp dưới hầm bí mật nhưng Lợi nói:

- Núp hầm chán lắm. Tao khoái đánh giặc hơn.

Út Trung vẫn cố thuyết phục anh:

- Không tiện đâu anh Tư. Trận này ác liệt lắm, có bề gì thì khổ anh em. Và nhứt là khổ cho chị… Tư.

Giọng Út Trung có vẻ như năn nỉ, nhưng vẫn biểu lộ sự cương quyết. Tuy vậy Lợi lại cương quyết hơn. Anh cười cười rồi nói:

- Ồ, đánh giặc là chuyện cơm bữa, có gì mà tụi bay làm quan trọng dữ vậy. Thôi, triển khai xong thì đi đi, để mặc tao.

Vậy là Lợi quyết định nằm phục một bên bờ mía tay lăm lăm khẩu ru-lô, hai trái lựu đạn M26 đeo ở thắt lưng. Dưới bờ mía, chỗ anh nằm là một cái rãnh sâu vừa ngập một thân mình. Lợi nằm phục dưới vùng cỏ ống rậm rạp, đứng trên bờ mía nhìn xuống cũng không thể thấy được.

Bờ mía là một đường đất cao chạy giữa ruộng mía và một con rạch lớn. Đó là con đường độc đạo mà Lợi biết chắc rằng bọn Mỹ nếu càn qua đây thì phải đi trên bờ mía, do đó nằm phục tại chỗ đó là chắc ăn hơn cả.

Quả thực, chỉ một lát sau anh đã phát hiện ra hai tên Mỹ tay ôm khẩu AR15 đang lom khom bước tới, chúng đi cách khoảng nhau, đứng chần chờ chỗ Lợi đang nằm để đợi tên thứ ba. Rồi tên thứ ba đến. Lợi nghĩ, một khẩu ru-lô không thể bắn chết một lúc ba tên giặc được mà xài lựu đạn thì cũng kẹt vì địch đứng quá gần, nếu mình ném lựu đạn vào nó, nó có thể lấy lên ném lại hoặc đá xuống sông vẫn còn kịp.

Ba tên Mỹ trao đổi với nhau mấy câu gì đó rồi nhích tới một chút nhưng cự ly vẫn chỉ độ chừng ba mét cách chỗ anh nằm. Bọn chúng cứ nhìn đăm đăm xuống con lạch như muốn tìm cái gì đó. Lợi cũng liếc nhìn xuống mặt nước. Lúc nãy Út Trung và Công vừa lội qua đó để phục kích bên kia bờ và hai người đã không để lại một dấu vết gì khả nghi cả. Nhưng bọn Mỹ vẫn cứ đứng lì ở đó, chần chừ không dám bước tiếp.

Lợi quyết định lấy lựu đạn ra, rút chốt an toàn xong cầm tay. Trong tình huống địch ở quá gần như thế này, chỉ còn cách là mạnh dạn buôngchốt đề-tôcho nổ trên tay rồi mới thảy về phía chúng thì mới chắc ăn. Lợi thực hiện ý định ấy. Tiếng nổ của chốt đề-lô làm bàn tay anh tê điếng nhưng anh còn đủ tỉnh táo để thảy trái M26 dưới chân bọn chúng.

Trái lựu đạn nổ ngay. Nổ tức thì. Ánh lửa chớp lên và tiếp theo là những tiếng kêu hốt hoảng nhưng không phải của ba tên Mỹ (vì chúng đã tan xác rồi) mà của toán lính từ phía sau đi tới.

Lập tức chúng tập trung các loại súng bắn xối xả về phía Lợi. Lợi lăn xuống đường mương mía, quên cả bàn tay gãy nát máu chảy ròng ròng vì quả lựu đạn lúc nãy. Anh cố sức dùng bàn tay kia và những ngón còn lại của bàn tay bị thương lôi từng bụi cỏ ống trườn tới. Bằng lối ấy, anh phải thoát ra khỏi hỏa lực địch càng sớm càng tốt. Anh cứ níu lấy cỏ ống mà trườn tới, súng đạn nổ rền chung quanh anh, trên đầu anh, nhưng anh cứ trườn tới như con rắn mối.

Tới đầu kia, anh đụng phải khẩu đại liên bắn dọc theo mé bìa. Thế là bốn phía lưới lửa giăng kín mít. Anh nằm lại nghỉ và nghe ngóng, đánh giá tình hình. Bàn tay phải của anh nhức nhối quá, anh đưa nó lên gần mặt. Máu và bùn trộn lẫn nhau, bê bết cả bàn tay. Hai ngón bị dập nát, những ngón còn lại gần như tê dại cả. Máu vẫn tiếp tục chảy. Anh dùng bàn tay còn lại cố sức xé vạt áo để băng nó. Bàn tay run lên và toàn thân anh cũng run lên, môi tím bầm, người ướt sũng.

Lợi nằm đợi cho hết loạt đạn, liền nắm chặt lấy một bụi cỏ ống, dùng hết sức mình phóng mạnh người qua đám mía thứ hai thì rơi vào một đám hoa mắc cỡ đầy gai sắc. Không còn cách nào khác, anh cứ trườn tới, luồn dưới gai bò đi từng chút.

Ra khỏi đám mía tức là đã bỏ trận địa sau lưng. Anh cố sức trườn nhanh ra khỏi nó và băng mình vào ruộng lúa, dùng tay trái móc hầm rồi ngâm mình xuống đó. Anh lấy khẩu súng trong thắt lưng ra, dùng vạt áo lau sơ qua, mở khóa an toàn, nằm phòng ngự.

Trong khi đó thì bọn giặc lại kéo nhau ùn ùn vây hai đám mía. Chúng phun lửa đốt và càn vô lùng kiếm. Lợi nằm ngoài ruộng nghe ngóng động tĩnh, vết thương ở tay và cái lạnh làm anh nhức nhối tê buốt, cơ hồ như muốn ngất lịm đi nhưng lòng anh lại sung sướng hả hê. Anh cười thầm: Cả lũ như thế mà không làm gì được người cụt chân.

Bọn địch đột phá lùng sục hồi lâu mà không tìm thấy "tên việt cộng" nào, bèn gọi trực thăng đến chở mấy cái thây ma vừa ăn lựu đạn của Lợi lúc nãy lên trời.

Giặc vừa rút đi là Út Trung bươn bả khắp nơi tìm Lợi. Anh nghĩ có lẽ Lợi đã chết rồi. Chỗ Lợi nằm phục kích lúc nãy đã bị cày nát, bị đốt cháy nhưng Lợi thì biến mất. Hay là chúng nó đem xác Lợi về để tuyên truyền?

Út Trung quan sát mặt đất, vạch cây cỏ, gai góc ra mà tìm. Chợt anh nhận ra dấu của Lợi trườn đi trong đám mía, anh mừng quá liền đi theo dấu ấy mà ra tới bờ ruộng. Anh gọi:

- Cú, cú, cú…

Im lặng một lúc. Anh gọi lại một lần nữa và quay nhìn chung quanh. Chợt có tiếng đáp từ trong đám ruộng:

- Bịp, bịp, bịp…

Út Trung mừng quá, anh băng mình lội tới. Nước ngập lên quá gối anh và bùn thì nhão nhẹt nhưng anh cứ bương tới. Anh đi nhanh quá nên mất thăng bằng ngã chúi xuống, bùn bắn lên đầy mặt.

- Cú, cú, cú!

Anh lắng nghe tiếng đáp để định vị trí Lợi cho rõ hơn. Rồi anh nhận ra một chòm lúa lay động. Lúc anh tới nơi thì thấy Lợi đang nằm trong hầm, ướt sũng, rét run, mặt mày xanh lè. Út Trung ôm Lợi, giọng đầy nước mắt:

- Trời ơi, anh Tư! Em tưởng anh hy sinh rồi.

- Không dễ vậy đâu em.

Trung lấy tay áo lau nước mắt, những vệt bùn non dây ra làm cho mặt người du kích trẻ lem luốc. Lợi thấy thương Út Trung quá, người chiến sĩ du kích chợt trở nên bé bỏng như thằng em trai đang khóc thương anh và mừng vì còn được thấy anh trên đời. Lợi hỏi:

- Công và Mãi đâu rồi?

- Em chưa gặp. Thôi, anh ôm cổ để em cõng ra.

Lợi dùng cánh tay còn lại ôm qua cổ Trung, cánh tay kia anh gác hờ trên vai bạn, vết thương cứ rỉ máu xuống từng giọt, từng giọt làm đỏ hết ngực áo của Trung. Trung lo lắng hỏi:

- Nhức lắm không, anh?

- Không sao, Lợi đáp, em ráng ra tới ngoài chỗ cây sơn máu. Ở đó có chỗ tránh pháo được.

Trung lội ruộng đi ra tới nơi, anh đặt Lợi nằm xuống bên gốc cây rồi đi tìm hai lá thuốc về đắp tạm cho Lợi. Trung nói:

- Đói quá. Anh ăn một chút cơm lấy sức nghe anh.

Lợi cầm lát cơm vắt lên mà thấy cổ họng mình khô rát không muốn nuốt.

- Bàn tay nhức quá, không muốn ăn. Phải chi có điếu thuốc hút thì hay quá.

Nhưng hai anh em chẳng ai còn thuốc. Út Trung hái lá mặt trăng, lá mướp khô vấn lại. Hai người chia nhau hút ngon lành.

Bốn giờ chiều anh cõng Lợi về căn cứ bí mật. Đến nơi thì trời đã tối mịt, cảnh vật tiêu điều, vắng vẻ. Lòng Lợi bồn chồn không yên, anh bảo Út Trung:

- Em về địa điểm cũ coi anh em có tập hợp lại đó không.

Đêm đen như mực, Út Trung ra đi hồi lâu trở về nhưng không gặp ai cả. Hai người rất lo lắng vì nỗi không gạo không muối lại mất liên lạc với cấp trên. Út Trung đề nghị:

- Mình về Rạch Bến Lớn ngủ đi anh. Ở đây có khả năng giặc đi kích.

Thế là hai người lại lên đường. Trăng hạ tuần vừa lên khỏi rặng cây, đi một hồi lâu chợt nghe tiếng chó sủa thì ra đó là xóm nhà dân. Hai anh em cảnh giác biệt kích, nên đứng chờ bên ngoài nghe ngóng, khi đã chắc chắn là nhà hoang hai người mới vào.

Đêm sương xuống lạnh, thiếu võng không mùng, muỗi ở bưng biền thì nhiều như ong. Lợi ngồi dựa lưng vào gốc tràm cố ngủ mà cứ mơ mơ màng màng. Bỗng nhiên Lợi nghe tiếng lựu đạn nổ rồi súng nhỏ nổ giòn giã phía căn cứ lúc nãy. Gần sáng sông Sài Gòn đầy tiếng động cơ. Mặt sông đen kịt những tàu. Bốn mươi chiếc. Hai người tránh vào lùm cây đợi cho chúng đi qua hết mới lấy khoai mì ra ăn. Suốt hai ngày qua họ không có hột cơm trong bụng. Xế chiều Lợi bảo Út Trung:

- Em bám vô xóm kiếm khoai và nghe ngóng tin tức anh em coi sao.

Út Trung xách khẩu AK lên:

- Anh nằm đây, thận trọng nhé.

Độ hai giờ sau anh trở về, dẫn theo Rìa, Mãi. Ba người khiêng cả giỏ cần xé khoai mì, khoai mỡ. Nồi khoai vừa chín thì Công cũng đội lục bình từ mé rạch đi lên. Năm anh em quây quần bên nồi khoai.

Lợi hỏi Công:

- Qua nay ở đâu?

- Sáng qua tôi chạy lên Láng The, tối mò về địa điểm thứ nhứt nghe chó sủa nên không vô.

- Lúc chó sủa thì Út Trung cõng mình cũng tới đó.

Công cười:

- Vậy mà tôi nghi biệt kích nên đành nằm tạm ngoài hầm. Nghỉ được một lát tôi lại mò tới điểm thứ hai, nghe trong nhà có tiếng ngáy khò khò, tưởng anh út Mãi, mừng quá, té ra khi bước vô thấy toàn Mỹ. Nó liệng mấy quả lựu đạn tôi dong tuốt trở lại Láng The. Trưa nay nước ròng tôi mới đội lục bình trở về đây.

Tình hình mỗi ngày mỗi quyết liệt hơn. Giặc càn quét hàng ngày. Lợi quyết định quay về Bến Cát qua vùng Rạch Sỏi, Xẻo Lao vì nơi đó chúng đã càn qua rồi. Ăn khoai xong tất cả đều chuẩn bị vượt sông.

Chuyến đi an toàn. Anh em chốt ở đó được 4 ngày thì hết khoai mà giặc thì vẫn tiếp tục càn quét.

Mười sáu ngày đã trôi qua, vết thương nơi tay của anh Lợi vẫn sưng tấy lên mà không có được một viên thuốc. Đêm đêm nó hành hạ Lợi không ngủ được. Lợi phải đương đầu với bao nhiêu là khó khăn nhưng không thể nào chùn bước được. Anh bảo út Trung:

- Em và Công trở lại chỗ cũ kiếm ít khoai nhé.

Hai người đứng lên đi liền nhưng Lợi ngặn lại:

- Khoan đã, gần tối đi thì tốt hơn. Nhưng nhớ lưu ý đừng cho xuồng vô ngay vàm rạch. Nên cột sát mé sông ở đoạn giữa hai rạch. Chịu khó bò dưới biền bò lên, thật chậm, quan sát kỹ trước khi di chuyển.

Chạng vạng tối, Công và út Trung ôm súng xuống thuyền và bơi đi.

Lợi nằm chờ khá lâu thì nghe có tiếng nói:

- Chỗ này bơi vô.

Anh nghe giọng ai như Công liền lên tiếng hỏi:

- Ai đó?

- Công đây.

Hai người khiêng giỏ khoai lên. Út Trung nói:

- Có hai con vịt lạc đạn nổi ngoài rạch.

Và anh xách con vịt ra. Bếp lửa được nhóm lên. Bữa ăn đã đem lại sức lực cho mọi người. Lợi cảm thấy dễ chịu hơn. Trong lúc ăn Công nói:

- Anh biết không, tụi tôi nhổ khoai chỉ cách tụi nó chừng bảy chục thước. Tôi và út Trung bò vào. Nghe được tiếng chúng đập muỗi, chúng xông nhang muỗi khét khét. Út Trung ôm súng gác, tôi tranh thủ nhổ. Nhờ nước ngập lênh láng nên nhổ cũng dễ chỉ ngặt củ thúi nhiều quá.

Ăn uống xong, mọi người ngủ một giấc dài, lấy lại sức. Nhưng phần Lợi thì vết thương lại đau nhức dữ dội. Anh nằm trằn trọc, không chợp mắt được.

Trưa hôm sau, tàu giặc từ Phú Hòa Đông chạy xuống, cứ bắn xối xả vào biền.

Lợi cho anh em vào bờ núp đạn nhưng có người lại ngại trên bờ có giặc. Lợi nói:

- Tàu dưới sông đang bắn lên, bộ binh của chúng trên bờ không dám đi kích đâu.

Công và Rìa chạy vào bờ còn lại ba người Lợi, út Trung và Mãi. Lúc ấy tàu địch rà sát tới, chúng bắn vô bốn năm trái ĐKZ 57 ly, một trái găm trước mặt út Trung nhưng bị lép, bốn trái kia nổ tung. Tiếng nổ hất tung út Trung ra xa. Còn Lợi thì bị miểng chém nát cái chân duy nhất còn lại. Máu ra ướt đẫm người anh. Lợi quằn quại trong vũng máu còn út Trung thì bất tỉnh rất lâu.

Tình huống vô cùng khó khăn, không một dụng cụ y tế nào. Lợi lại phải xé áo ra băng nhưng không xé nổi. Anh và út Trung quằn quại trong cơn đau xé ruột. Út Trung là người khỏe nhất trong đám, cũng là người chăm lo các mặt cho Lợi nhưng giờ lại bị thương nặng. Vết thương làm máu ra nhiều quá, mồ hôi toát ra như tắm, anh thấy kiệt sức. Mãi đến bên anh, đổ vô miệng anh một chút nước.

- Sao vậy anh?

Lợi đã tỉnh lại. Máu nhểu xuống thành vũng dưới cái chân duy nhất còn lại của anh..

Bên cạnh anh, út Trung vẫn nằm mở mắt thao láo. Anh to lớn, khỏe như con voi. Tuy bị miểng chém đầy mình máu me nhuộm đỏ cả quần áo nhưng anh cứ nằm im.

Mãi đem đến cho hai người ít cháo vịt. Ai cũng mệt quá nên chỉ ăn qua loa.

Thình lình bên kia sông có tiếng gọi:

- Có phải Tư Lợi bên đó không?

- Ai vậy? Công hỏi lớn.

- Tám Long đây. Giặc rút hết rồi.

Mọi người mừng rỡ, đỡ nhau xuống thuyền xuôi về Gia Định. Sự vui mừng đã đem lại cho Lợi rất nhiều sức lực, anh hỏi Long:

- Có thuốc lá không?

Long thảy ra bàn một gói xa-lem. Lợi bóc ra, chia cho mọi người. Mấy anh em ngồi bên nhau, ngậm khói phun mây, ngẫm nghĩ sự đời. Lợi sung sướng cảm thấy mình như vừa sống lại trong tình đồng chí ấm áp và đầy tin cậy.

Nhưng những vết thương lại hoành hành dữ dội. Mặc dù ở đây có lương thực và thuốc men đầy đủ nhưng vết thương cũng giống như những con quái vật, nó cựa mình thức dậy, phá phách, gầm thét, giận dữ…