← Quay lại trang sách

Chương 26

Tổ của Bạch có ba người, toàn thiếu nữ rất trẻ, rất vui tính. Buổi trưa trời đứng gió, họ dừng lại tại một nhà cơ sở nấu ăn, nghỉ trưa rồi đợi cho nắng dịu một tí, ba người mới lên đường.

Xế chiều, họ đi ngang qua một cánh đồng mênh mông.

Họ đi được một lát thì bỗng thấy trước mặt có một mảng đen lớn trông như một mảng bóng tối xa lạ.

- Cái gì vậy? Một người hỏi.

Bạch dừng lại, nhón gót lên nhìn. Không biết là cái gì. Một vùng đen như thế thực là hiếm có trong một khu vực đồng ruộng rừng chồi và bưng biền.

Họ đi tới, đi tới nữa.

Ánh sáng mờ dần đi và những vùng lá cây trở nên đen hơn. Ba người đến nơi, dẫm chân lên cái vùng bóng tối xa lạ ấy. Cái vùng bóng tối tạo thành bằng tro than của cánh đồng bị xăng đặc đốt cháy rụi. Bước chân đi qua còn hơi ấm nóng. Bụi than bám lên tới gối. Những bàn chân trần đã trở nên đen mốc, xù xì. Nhưng họ không thể đi con đường khác vì sợ lạc.

Hoàng hôn. Ba người đến bến sông.

Bến sông vắng. Không thấy giao liên đâu. Họ ngồi chờ trên bờ cỏ, lấy cơm ra ăn và nhìn dòng sông phẳng lặng.

- Trước đây có một người đưa đò trên bến sông này – Bạch nói – đó là một chiến sĩ cách mạng rất dũng cảm, một người thương binh, một người anh rất đáng quý của mình. Bây giờ anh không còn ở đây.

- Anh hy sinh rồi sao?

- Không! Nhưng đã trở thành một người tàn phế. Cụt cả hai chân hai tay.

Bạch khóc. Những người đồng hành bất ngờ về những giọt nước mắt ấy. Họ ngồi lặng thinh. Cũng lặng thinh như dòng sông Sài Gòn trong buổi chiều đang xuống. Sương cũng bắt đầu xuống, mênh mông, nhẹ, mơ hồ. Giao liên vẫn chưa tới, sông vẫn vắng buồn. Ba cô gái đã mắc võng trên những cây chồi thấp, nằm đợi, súng dựa gốc cây, hiền lành như những nhánh củi.

Sông vẫn không ngớt vang lên tiếng sóng nhỏ xao xác. Không có một con thuyền nào đi qua đây mà thỉnh thoảng vẫn có tiếng động quen thuộc của mái chèo. Tiếng mái chèo vang lên trong trí nhớ của người con gái, tiếng mái chèo quẫy nước trong sáng, đều nhịp, tiếng ai gọi đò, tiếng nói chuyện rầm rì trên mặt sông khuya. Bạch còn nhìn thấy cả những đóm thuốc lá lập lòe, ở xa dễ lầm với đóm đóm.

Những con đom đóm lớn bay nhấp nhô, vệt sáng giữ rất lâu trong đêm đen, những con đom đom sáng đến nỗi người ta có thể nhận ra chúng ngay cả dưới ánh trăng rằm.

Và lá tre khô bay lăn tăn như cánh chim nhỏ liếng thoắng trong gió, bay nghiêng nghiêng, kẻ những đường xiên và buông mình nhẹ xuống mặt sông. Mọi thứ đem lại sự êm đềm cho những sớm mai, thật sớm, còn đầy sương mù, còn đầy hơi hướng của đêm, của lúa chín và của cả cỏ gấu cháy.

Tiếng chim sâu buổi sớm kêu ríu rít, nhỏ li ti như hoa cải gieo trong cơn gió nhẹ, rải trên mặt sông và rải trong lòng những người chiến sĩ trẻ qua sông.

Sau những chiến dịch khốc liệt, dòng sông Sài Gòn thường trả lại sự thanh bình cho vùng đất nó đi qua, cho con người nó thường gặp mặt mỗi ngày, cho cây cỏ nó thường in bóng. Và những chiến sĩ sống bên dòng sông hay dừng chân tại một bến sông, đều cảm thụ hết sự dịu dàng của nó.

Trong những ngày đầu của năm 1968, dòng sông đã biểu lộ sự rạo rực của mình trong sắc nước xanh mầu da trời, trong những chồi cây lá cỏ hai bên bờ. Mùa Xuân đến, sau những ngày lửa khói, những nhóm bông trang vẫn nở trên khắp lối đi, hoa cải vẫn nở đầy trong sân nhà Bạch.

Làng xóm chuẩn bị đón Tết từ hôm Bạch ra đi, nên trong ba lô của cô có cả mấy đòn bánh tét.

Bạch nằm nghỉ bên sông, vẫn hồn nhiên, như những năm trước. Dòng sông vẫn lặng thinh, sóng nước vẫn thủ thỉ, Bạch lại nhớ đến Huệ, đến Lợi, đến cái nheo mắt, giọng nói quen và mối tình đau đớn của họ. Mối tình ấy không thuộc về cô, nhưng đã thổi vào cô ngọn gió thanh xuân tươi trẻ và đầy sức mạnh của cả một lớp người sống, chiến đấu, biết yêu thương và căm giận.

Mối tình của Lợi và Huệ đã đưa Bạch vào đời bộ đội và từ đó đi thẳng vào chiến dịch Xuân Mậu Thân này.

Cặp áo gối cô thêu bây giờ chưa biết sẽ tặng ai, nhưng cô vẫn mang theo trong ba lô. Nó là lời chúc phúc cho những người đang yêu nhau, đang xây dựng tổ ấm dù trong lửa khói, nó là ước mơ, là tấm lòng mà cô giải phóng quân trẻ tuổi muốn tặng cho cuộc sống gian khổ, khắc nghiệt và vinh quang mà cô vừa dấn thân vào, tặng cho đồng đội hồn nhiên, và dũng cảm của cô.

Chúng đã giết chết Huệ, nhưng mối tình của chị vẫn còn, những kẻ yêu nhau vẫn còn, và lời chúc phúc của Bạch vẫn đẹp như đôi chim bồ câu bay trên nền vải hồng của khung trời bình minh.

Bạch lên đường vẫn mang theo cặp gối trong ba lô.

Có tiếng mái dầm quẫy nước ở đâu đó rất xa, Bạch lắng nghe. Có lẽ giao liên sắp đến. Cô trở mình nhìn hai người bạn. Họ vẫn ngủ say. Trời còn tối mịt nhưng cô vẫn cảm thấy rất rõ dòng sông bên cạnh mình. Có tiếng pháo nổ lạch tạch đâu đó sau những rặng dừa. Hai người bạn cựa quậy nói mấy tiếng ngái ngủ. Một giọng rè rè:

- Mấy giờ rồi?

Bạch nhìn những con số dạ quang trên mặt đồng hồ:

- Ba giờ sáng.

Họ lại ngủ. Những người con gái trẻ ngủ say sưa trên võng, hồn nhiên và đẹp như những con chim trong tổ mắc toòng teng giữa lùm cây.

Gà gáy bên kia sông. Bạch vén mùng nhoài người ra tìm cái bi đông nước để lẫn trong cỏ. Cô súc miệng và uống một ngụm nhỏ. Hai người bạn cũng thức dậy.

Bóng một chiếc thuyền lớn thấp thoáng ngoài xa. Ánh đèn vàng đục mờ không đủ sức chiếu hắt xuống mặt sông. Chiếc thuyền đến gần dần rồi có lúc tưởng như nó ngừng lại thì nó lại qua luôn.

Một lát sau, những chiếc xuồng khác lại đến, ánh thuốc lá lập lòe, những chiếc xuồng nhỏ lướt qua rồi lẫn mất trong sương mù, những chiếc khác lại đến, cũng đến từ sương mù mỗi lúc một nhiều, nối tiếp nhau, đi ngang qua chỗ các cô gái nằm rồi biến trong sương, tiếng nói chuyện rầm rì, tiếng cười, tiếng đàn ông, thanh niên, thiếu nữ…

Có những chiếc xuồng đi rất gần bờ, Bạch có thể nhìn thấy những nét nghiêng của từng khuôn mặt trẻ, những vành mũ tai bèo, những mũi súng… Cô hình dung giữa đoàn quân qua sông ấy có những bạn rất thân của mình, những Thắm, những Út Hiền, Điệp, Tuyết… có cả lớp trẻ mới của Sông Bé, Trảng Bàng, Củ Chi và những vùng quanh khu Tam Giác Sắt.

Những chiếc xuồng vẫn từ trong sương đi qua rồi lại mất trong sương, tiếng dầm quẫy nước ngân lên, long lanh trong đêm trong vắt.

Vũng Tàu, ngày 5/5/1982

(Trại sáng tác Hội Nhà Văn Việt Nam)

ĐÀO HIẾU