CON NGỰA CÁI CỦA QUỐC VƯƠNG
TẠI quán trọ AncuỊa, tôi được nghe kể nhiều chuyện rất hay vào một mùa thu vàng óng. Nhưng vào thuở xa xưa cách đây lâu lắm, năm có những cơn mưa như thác đổ vào ngày Lễ Thánh Elijah, người ta khẳng định có thấp thoáng nhìn thấy một con rồng đen trong những đám mây, ngay trên dòng sông Moldova đang dâng nước dữ dội. Và họ thấy những con chim lạ bay lên rộn rịp, nương theo cánh bão mà bay về hướng mặt trời mọc. Bố già Leonte liền tra cứu sách chiêm tinh, chứng minh rằng những con chim trắng như tuyết kia bị lạc đàn từ những hải đảo xa xôi bay đến. Ấy là điềm báo sắp có chiến tranh giữa các vua chúa và một vụ nho bội thu.
Thế mà chuyện xảy ra đúng như vậy, và Bạch Đế (ImparatuhAlb) quả có cho quân dẹp bọn tà giáo. Và để lời tiên đoán được trọn vẹn, Chúa cho các vườn nho ở vùng Hạ Moldova được trĩu quả. Nho nhiều đến mức các gia chủ làm rượu xong không biết đổ vào đâu cho hết. Những bác đánh xe mặc sức đến chỗ chúng tôi để chở rượu ngon lên miền núi bán. Bấy giờ cũng là lúc có nhiều cuộc chè chén vui vẻ và những câu chuyện thú vị ở quán trọ AncuỊa.
Các đoàn xe chở hàng nối đuôi nhau không ngớt, còn tiếng đàn hát của đám dân Digan chẳng lúc nào ngừng. Khi ai đó đổ gục vì rượu hay mệt nhọc thì lại xuất hiện một người khác tươi tỉnh từ một góc nào đó bước ra thế chỗ.
Các bình vò rượu vỡ nhiều vô số kể, đến mức suốt hai năm trời, các bà các cô đi chợ Roman hễ qua quán trọ là lại làm dấu thánh. Bên những bếp lửa đỏ rực, những con người từng được xem là bậc thầy nấu nướng quay trên than hồng những đùi cừu, đùi bê, hoặc nướng những con cá chày, cá chép bắt ở sông Moldova.
Trong khi đó cô chủ quán AncuỊa trẻ trung, thừa hưởng từ người mẹ quá cố vẻ hóm hỉnh và đôi lông mày đẹp, cứ lăng xăng chạy từ chỗ này sang chỗ kia như một cô bé con tinh nghịch, với đôi má ửng hồng, vạt áo hoa giăt vào thắt lưng, tay áo xắn cao, vui vẻ và nhanh nhẹn phục vụ rượu và đồ ăn, trên môi luôn thường trực nụ cười cùng những lời nói thân thiện.
Các bạn nên biết rằng AncuỊa không phải là một quán trọ tầm thường, mà là một pháo đài thật sự. Thực lòng tôi chưa hề thấy ở đâu những bức tường dày và cổng có rào sắt như thế. Phía bên trong cổng có đủ chỗ cho khách trọ, súc vật, xe chở hàng, và một khi đã vào đấy thì chẳng phải bận tâm gì về chuyện trộm cắp.
Tuy nhiên, vào cái thời tôi kể lại với các bạn đây, đất nước thật yên bình, con người sống với nhau chan hòa. Thế nên cổng nhà trọ rộng mở cứ như cổng dẫn vào cung điện vua chúa. Qua khung cửa, vào những ngày thu trong vắt, người ta nhìn thấy lưu vực sông Moldova trải dài tít tắp, và thấp thoáng hình dáng lờ mờ các rặng núi Ceahlău và Halauca phủ đầy thông. Rồi lúc mặt trời lặn, cảnh vật đằng xa hóa mờ nhạt và chìm đắm vào cõi huyền bí của sương mù thì đống lửa cháy bập bùng trong sân nhà trọ chiếu sáng những bức tường đá, làm nổi bật lên cái sắc đen sậm của cửa ra vào và cửa sổ có gắn chấn song. Ấy là lúc những người Digan ngừng hát, và các câu chuyện bắt đầu...
Trong những ngày vui vẻ ấy, trung tâm của cuộc chè chén và hoan hỉ ở quán trọ là một tay chức sắc từ nơi khác đến. Tôi rất quý ông. Ông thường nâng cốc mời bất cứ ai, lắng tai nghe những khúc đàn hát của dân Digan với gương mặt đượm nét bâng khuâng xa vắng, và ông tranh cãi rất hăng với bố già Leonte mỗi khi có dịp bàn luận mọi việc trong thiên hạ.
Người đàn ông ấy có vóc cao to, tóc đã hoa râm mặt mày hốc hác nhăn nheo. Quanh bộ ria mép tỉa gọn và cặp mắt ti hí là vô số những nếp nhăn hằn sâu. Ông có cái nhìn chăm chú ẩn chứa ánh sáng tăm tối, còn đôi môi được bộ râu ngắn viền quanh thường thấp thoáng một nụ cười buồn.
Người ta gọi ông là ngài quan viên loniỊă. Ngài loniỊă thường giắt ở thắt lưng một túi tiền khá đầy, dưới bộ quần áo xám. Ông đã đến quán trọ trên lưng một con ngựa gầy gò, xấu xí, đúng là con ngựa có một không hai, chỉ da bọc xương! Nó có màu nâu đỏ, ba chân trắng, trên lưng đeo cái yên cao ngất nghểu. Nó đứng bất động bên tường, với một nắm cỏ khô trước mặt.
- Tôi ấy à, tôi chẳng ở lâu đâu, chỉ ghé qua thôi. - Vị quan tay cầm cốc rượu tuyên bố với những ai muốn nghe ông nói. ‘‘Tôi và con ngựa cùng đi chu du thiên hạ... Nó được đóng yên và luôn sẵn sàng lên đường... Trên đời này không kiếm đâu được con ngựa nào như con ngựa của tôi đâu nhé... Tôi lên ngựa, đầu đội chiếc mũ lông, và cứ thế ra đi... Còn mọi chuyện khác, tôi bất cần...’’
Miệng thì nói “ra đi” vậy chứ nhưng ông không hề đi đâu cả. Ông ở lại với chúng tôi.
Một hôm, bố già Leonte đáp lại:
‘‘ Ngài có lý. Một con ngựa như ngựa của ngài, của ấy chẳng kiếm đâu ra được, dù có bươn bải tìm suốt chín năm, lục tung khắp các vương quốc trên địa cầu! Riêng bộ da của nó thôi đã ngang giá một gia tài rồi. Chỉ nghĩ thôi tôi đã rùng mình rồi ấy chứ!
- Ông không thể nói hay hơn được, ông bạn Leonte ạ. - Vị chức sắc kêu lên, ria mép vểnh ngược ' Một con vật gầy gò và dẻo dai như thế, không biết đói, biết mệt là gì, chỉ đưa mắt liếc nhìn máng cỏ và không hề giận dỗi khi tôi quên cho nó uống nước. Còn về chuyện yên cương thì hình như nó sinh ra đã có sẵn yên cương rồi. Đây là ngựa nòi đấy nhé. Mẹ nó cũng có chân trắng như thế. Hồi còn trẻ, tôi từng vênh vang trên chính con ngựa cái đó, và chính quốc vương Mihail Sturdza cũng phải kinh ngạc khi trông thấy nó.
- Thế sao quốc vương lại rất kinh ngạc? Nó cũng gầy nhẳng như con của nó à?
-Tất nhiên! Tôi rất vui lòng kể câu chuyện ấy cho các bạn, nếu các bạn chịu nghe tôi kể.
- Nghe thôi sao, thưa ngài IoniỊă? Chúng tôi đang căng tai ra đây, nhất là nếu câu chuyện lại về thời quốc vương Mihail Sturdza.
- Đấy là câu chuyện về thời trai trẻ của tôi. – Vị quan viên chữa lại.- Hồi ấy, chúng tôi cũng ngồi đúng chỗ này, tại đây, bên những bếp lửa lớn và những chiếc xe đầy ắp rượu ngon, nhưng những con người ngồi cùng ngày đó hiện đã về với cát bụi. Và bên cạnh chúng tôi, lo toan mọi việc là một AncuỊa khác, mẹ của cô chủ quán này. Bà ấy cũng đi sang thế giới bên kia. Chà, một hôm tôi xuất hiện ở ngưỡng cửa quán này, tâm trạng vô cùng ủ rũ, tay trái cầm cốc rượu, tay phải nắm cương ngựa. Còn bà Ancuta đứng chỗ kia, đúng nơi cô con gái hiện đang đứng, bà dựa vào khung cửa, lắng nghe lời tôi nói... Tôi kể chuyện gì nhỉ? Tôi không nhớ nữa, vì chúng đã bay đi như lá mùa thu.
Kể đến đó, vị quan viên loniỊă nở nụ cười buồn dưới hàng ria mép thô cứng tỉa ngắn. Còn tất cả chúng tôi, những nông dân và người chở hàng đến từ Thượng Moldova có mặt tại đó ngồi thành vòng tròn quanh ông trên những khúc củi, những càng xe bò đã tháo ách, cằm nghếch về phía người kể chuyện, mắt tròn xoe. Cô AncuỊa trẻ đẹp đứng dựa vào khung cửa. Mặt trời tháng mười chiếu chênh chếch, nhuộm vàng một bên má cô. Ngoài kia, dòng sông Moldova lấp lánh qua các lùm cây, còn đằng xa kia hiện lên mờ ảo hình dáng dãy núi tựa như những viên đá lửa lô nhô trong làn sương xanh nhạt.
Trong một góc, con ngựa gầy còm của vị quan viên hình như bị không khí im lặng bao quanh làm cho lo lắng, liền nổi tiếng hí vang, bạnh hàm nhe ra một cái cười ma quái. AncuỊa sững sờ quay lại nhìn con vật, đôi mắt lộ nét kinh hãi dưới cặp lông mày vòng cung.
- Ấy, - vị quan viên nói - con ngựa cái ngày xưa cũng hí và nhe răng cười hệt như thế! Vào giờ phút ấy, ai mà biết con ngựa đã nhìn thấy gì, thấy mắt sói hay răng sói. Nhưng có một sự việc chắc chắn, ấy là cái cười ngờ nghệch còn đọng lại và nó đã làm cho bà AncuỊa ngày xưa sợ hãi trong chiều hôm đó. Thưa các vị, như tôi đã nói, tôi từng có mặt ở đúng chỗ này, chân đặt lên bàn đạp, sắp sửa ra đi. Nhưng vừa lúc đó trong không gian vang lên tiếng roi ngựa quất vun vút cùng với tiếng bánh xe lăn lộc cộc. Ngẩng đầu ngoái nhìn sang, tôi thấy từ đường cái tiến đến một cỗ xe tứ mã. Xe đến gần rồi dừng lại trước quán trọ. Từ trên xe bước xuống một vị quý tộc, theo lẽ là để ngắm đôi mắt đẹp của bà AncuỊa. Lúc ông ta xuất hiện, tôi liền nâng cốc rượu mừng sức khỏe. Ông ta dừng lại, nhìn tôi, con ngựa cái của tôi, mọi người quanh tôi và mỉm cười. Sự đón tiếp khiến ông ta hài lòng.
Vị quý tộc có vóc người bé nhỏ, bộ râu màu hung xén tròn tôn lên khuôn mặt thêm đẹp. Ông ta đeo một sợi dây chuyền vàng mảnh sợi.
“Hỡi những người con trung hậu,” ông khách quý tộc nói, “Ta rất mừng được thấy sự vui vẻ hạnh phúc tại mảnh đất Moldova...”
“Còn chúng tôi rất mừng được nghe những lời khen tặng của ngài,” tôi xen ngang. “Và chúng xứng được tán tụng bằng loại rượu thượng hạng.”
Sau đó, vị quý tộc lại cười và hỏi tôi đến từ chốn nào và định đi về nơi đâu.
“Một nơi rất tuyệt vời, thưa ngài,” tôi đáp. “Tôi xuất thân từ một gia đình chức sắc nhỏ quê ở Drăgăne§ti thuộc Suceava. Chỉ có điều hiện tài sản của tôi bị đe dọa và kẻ thù của tôi không phải là tay vừa. Tôi đã đâm đơn kiện, thưa ngài, nhưng vụ kiện cứ kéo dài mãi không xong. Nó bắt đầu từ thời bố tôi còn sống, và tôi rất lo mình sẽ để lại rắc rối ấy cho con cái, nếu Chúa thấy tôi xứng đáng được có một mụn con...”
“Sao lại thế?” Vị quý tộc ngạc nhiên hỏi.
“Thưa ngài, cuộc tranh chấp của chúng tôi xảy ra từ trước triều vua Calimah. Chúng tôi đã ra trước tòa. Hết thế hệ này đến thế hệ khác đến trình diện tại phòng họp Hội đồng Nhà vua. Đã có bao nhiêu cuộc điều tra và những lần cắm mốc phân ranh giới, rồi thề thốt trước tòa. Trong gia đình tôi, có những người qua đời trong lúc theo đuổi vụ kiện, những người sinh sau lại tiếp tục đi đòi công lý, nhưng cho đến tận ngày nay, nó vẫn chưa kết thúc. Tệ hơn nữa, vừa mới đây thôi, cái ông hàng xóm đang tranh chấp đất cát với tôi đã chiếm của tôi hai sải năm gang đất di sản để lại, đúng ngay phía bộng ong Vela. Tôi lại làm đơn kêu lên tỉnh nhưng chẳng hề có được ai thông cảm mà nghe cho, còn kẻ thù của tôi, nói đây chẳng phải để nhục mạ đâu, là kẻ lòng tham không đáy. Một khi đã vào việc, tôi phải lôi từ vựa thóc xuống cái cặp đựng giấy tờ đầy những con dấu thời xưa, cố chọn những giấy tờ xem ra còn giá trị đem nhét vào đây, dưới thắt lưng này, rồi nhảy lên ngựa, dự định chỉ dừng lại trước quốc vương để chính Người sẽ trả lại công bằng cho tôi.”
“Làm sao có thể như thế được?” Vị quý tộc vừa hỏi vừa vân vê chòm râu và đưa tay lơ đãng sờ sợi dây chuyền vàng. “Ông bạn thực sự đang trên đường tới diện kiến quốc vương đấy à?”
“Đúng thế. Và nếu quốc vương cũng không phân xử cho tôi...”
“Nếu quốc vương không phân xử cho ông bạn thì sao?” Ngài quý tộc nói, mắt hấp háy ý cười.
Đến đoạn này, quan viên loniỊă liền hạ giọng, còn cô AncuỊa trẻ nghiêng đầu y hệt bà AncuỊa ngày xưa, dỏng tai lên để nghe xem chuyện sẽ thế nào nếu quốc vương không trả lại quyền lợi cho vị chức sắc kia.
-Nếu ngay cả quốc vương cũng không trả lại quyền lợi cho tôi thì Người sẽ phải hôn vào cái chỗ gần cái đuôi con ngựa cái của tôi.
Trong khi quan giám mã nói những lời táo bạo ấy đúng theo cách của dân vùng cao nơi đây, thẳng tuột không tránh né gì thì cô AncuỊa trề môi làm ra vẻ đang chăm chú nhìn đường.
Khi tôi buông ra những lời nói ấy, - vị chức sắc nói tiếp - bà AncuỊa vội đưa tay che miệng và cũng ra vẻ chăm chú nhìn đường cái. Còn vị quý tộc thì bật cười. Rồi ông ta ngừng lại, vân vê chòm râu và sờ sợi dây chuyền vàng.
“Thế khi nào ông định đến trình diện quốc vương?”
“Thưa ngài quý tộc đáng kính, chỉ lát nữa thôi, uống nốt chỗ rượu mừng ngài xong, tôi sẽ lên ngựa, và phi một mạch giống như Alexander Đại đế và chỉ dừng lại ở Ia§i. Vừa hay gặp dịp, nếu ngài muốn nếm thử rượu vang mới vùng Odobe§ti thì bà AncuỊa đây sẽ đi lấy ngay thứ nước nho ép đỏ thắm đựng trong chiếc cốc mới tinh và chúng tôi sẽ cảm thấy hết sức vui mừng được ngài ban vinh hạnh...”
Vị quý tộc mỉm cười với AncuỊa của ngày ấy - lông mày cũng cong như cô AncuỊa này và hóm hỉnh không kém, và bảo lấy cho một cốc đầy nước nho ép đỏ thắm của miền Nam. Là một chức sắc, tôi kiêu hãnh đề nghị được đóng góp cho bữa tiệc, và bỏ bốn xu vào tạp dề của AncuỊa.
Sau đó vị quý tộc lên xe ngựa và đi mất. Về phần tôi, tôi nhảy lên ngựa, và như đúng dự định, tôi chỉ dừng lại khi đến được Ia§i. Ở đấy, tôi vào một quán trọ gần nhà thờ Lozonschi, đối diện cung điện nhà vua.
Trưa hôm sau, sau khi đã chỉn chu tươm tất, tóc chải gọn gàng, tôi đến trước cổng lâu đài xin yết kiến mà tim đập thình thịch. Thoạt tiên lýnh gác cổng chĩa lưỡi lê vào trán tôi. Sau khi nghe tôi trình bày, anh ta hét về phía chòi canh, rồi một bác lýnh luống tuổi xuất hiện, nhanh nhẹn dẫn tôi vào một phòng nhỏ trong sân. Tại đây tôi được một sĩ quan trẻ dáng người gọn gàng, mang quân hàm mạ vàng óng ánh tiếp đón.
“Ông muốn gì vậy?”
“À, tôi có công chuyện,” tôi nói. “Tôi là quan viên loniỊă, chức sắc vùng Drăgănegti. Tôi đến hầu quốc vương, lòng khao khát công lý chẳng khác nào con sơn dương khát nước suối...”
“Được rồi,” người sĩ quan trẻ đáp. “Quốc vương sẽ nghe lời than phiền của ông ngay thôi. Hãy đặt mũ xuống chỗ kia và bước qua cánh cửa nhỏ này. Trong căn phòng rộng lớn sau đó, ông sẽ thấy quốc vương và cứ việc kể hết nỗi oan ức.”
Nghe thế, máu bốc lên mặt, mắt thì mờ đi, nhưng tôi nghiến răng, cố kìm nỗi xúc động. Người sĩ quan mở cửa cho tôi đi qua. Bị ánh sáng chói lòa làm cho lóa mắt, người lại trong tư thế gần như gập làm đôi nên tôi chỉ nhìn thấy đôi giày da đỏ của quốc vương trước khi quỳ xuống. Tôi nhủ thầm vị vua trẻ mới lên ngôi chắc sẽ đoái thương đến những tai họa của tôi.
“Tâu quốc vương!” Tôi mạnh dạn kêu lên. “Tôi van người phân xử cho tôi.”
“Ngươi hãy đứng lên.”
Nghe giọng nói ấy, nhanh như chớp, tôi ngước mắt lên và nhận ra nhà quý tộc đã gặp tại quán trọ.
Tôi hiểu ngay tức khắc mình cần phải làm gì cho phải lẽ. Tôi cụp mắt xuống và tỏ vẻ sợ hãi. Tôi càng quỳ sụp xuống, sợ sệt đưa tay nắm vạt áo quốc vương nâng lên môi.
“Hãy đứng lên!” Quốc vương lại bảo. “Đưa ta xem các giấy nhận thực quyền sở hữu của ngươi.”
Khi đứng lên tôi mới nhận ra rằng cặp mắt của vị vua trẻ có vết nhăn nhỏ do đang cố nén cười, y hệt như lúc ở quán trọ khi Người nhận từ tay AncuỊa cốc rượu nho đỏ thắm. Tôi rụt rè lôi từ trong chiếc xắc da các giấy tờ, vừa đưa vừa trình bày đầu đuôi sự việc, kể lể tỉ mỉ từng bất hạnh tôi gặp phải, tất cả những hiềm thù cùng cay đắng chồng chất trong tâm hồn mà tôi thừa hưởng từ những người thân quá cố. Sau khi xem giấy tờ và nhìn kỹ các dấu xi triện, quốc vương tỏ vẻ hài lòng và nói bằng giọng mũi:
“Được rồi, ta sẽ trả lại công bằng cho ngươi. Một triều thần của ta, có đầy đủ thẩm quyền, sẽ cùng người đến Drăgăne§ti và giải quyết ổn thỏa mọi việc.”
Nghe thế tôi liền quỳ xuống, còn quốc vương lệnh cho tôi đứng lên. Mắt Người nheo như đang cười. Người vỗ vai tôi và bảo:
“Nói xem nào! Nếu ta không phân xử cho ngươi thì sẽ thế nào nhỉ?”
“Ôi! Tâu quốc vương,” tôi trả lời, “Quốc vương nghĩ việc gì có thể xảy ra? Tôi đã nói thì không bao giờ nuốt lời... Con ngựa cái của tôi đang ở ngay bên kia đường.”
Quốc vương Mihail rất thích câu trả lời của tôi. Người lại vỗ vai tôi, thậm chí còn vui thích nhắc lại cốc rượu nho đỏ thắm tôi trả bốn xu để mời Người. Người vừa cười vừa ra lệnh cho một viên quan đi cùng tôi. Dưới mắt tôi, những mệnh lệnh rõ ràng được soạn tháo ngay tức khắc. Khi tôi lên ngựa rời quán trọ gần Lozonschi về nhà, quốc vương còn đứng bên cửa sổ mỉm cười nhìn theo, tay vân vê chòm râu hung đỏ.
Chính vì thế, các vị cần hiểu rằng con ngựa nâu đó ba chân trắng của tôi là một của quý: vì lẽ nó thuộc dòng dõi con ngựa cái của quốc vương. Khi nó hí và nhe răng chính là nó đang gợi lại hồi ức về một thế kỉ đã qua và về thời trai trẻ của tôi. Qua câu chuyện này hẳn các vị đánh giá được tôi là người thế nào. Và bây giờ, nào, hãy làm một chầu rượu nữa, sau đó tôi sẽ kể cho các vị nghe một câu chuyện khác mà từ lâu tôi đã có ý để dành cho các vị.