HARALAMBOS
CỐC rượu cầm ở tay trái, vị quan viên loniỊă ngượng nghịu đưa hai ngón tay phải vê vê bộ ria ngắn. Ông dọn giọng chuẩn bị vào câu chuyện còn lạ thường và thú vị hơn nhiều so với Con ngựa cái của quốc vương. Lúc bấy giờ trong không khí vui vẻ, thân thiện, một vị tu sĩ từ trên núi xuống bèn đứng lên, nâng cốc rượu ngang cằm, và cất giọng. Nãy giờ ông vẫn ngồi yên, chỉ lo uống rượu nên vừa nghe tiếng ông, chúng tôi đều ngạc nhiên quay lại. Vị tu sĩ nói:
- Hỡi các Kitô hữu kính mến, hỡi những con người tốt bụng! Và thưa vị quan viên loniỊă khả kính vùng Drăgăne§ti! Hãy tha lỗi cho tôi đã im lặng, về điểm này tôi nghe theo lời khuyên của các bậc hiền triết: Tôi im lặng để thưởng thức hương vị rượu. Chúng tôi, những người sống ở miền cao, dưới các tảng đá của dãy núi Ceahlau, chỉ mơ đến thức uống ngon lành chiết từ vườn nho của các bạn. Ở trên núi, chỉ với sữa nước và những quả cây rừng thật khó làm cho con người vui lên được. Theo lệnh của linh mục tu viện trưởng, tôi phải đến Thánh địa Tổng giám mục và đang nóng lòng muốn đến quỳ ở nhà thờ Haralambos - nhà thờ mang tên một con người tử vì đạo. Nhân đó tôi mới có dịp dừng chân tại đây với các bạn. Sau khi tôi buộc ngựa vào tàu, cô chủ quán dễ ưa đã lấy cho tôi một chiếc cốc mới tinh, đẹp nhất và to nhất. Tôi thật vô cùng vui sướng được ngồi cùng với những người anh em và trong bầu không khí vui vẻ tại đây. Tôi lại còn được nghe tiếng đàn hát của dân Digan, tôi chẳng phải bịt tai, vì tin chắc rằng dù sao thì mọi tội lỗi của tôi sẽ được bề trên tha thứ. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc mình phải đứng lên tìm hiểu tất cả các bạn qua lời nói và cử chỉ. Tôi đã được nghe sướng tai những điều các bạn kể. Trước tiên tôi muốn uống để chúc mừng sức khỏe ngài loniỊă đáng kính, cũng như vì con ngựa cái của ngài.
Nói đến đây, vị tu sĩ nâng cốc rượu chao đi chao lại rồi uống một hơi. Sau đó, ông nhìn thẳng vào vị chức sắc.
- Cảm ơn Đức cha. Tôi xin hôn bàn tay phải của Cha. - Vị chức sắc nói. - Lời nói của Cha là lời nói của một người anh em ruột thịt. Xin Đức cha cho biết quý danh?
-Tên thánh của tôi là Gherman, thưa ông quan viên kính mến. Như ngài thấy đấy, đây là lần đầu tiên tôi xuống núi để đến thành phố Ia§i. Khi nào trở về tu viện, tôi sẽ tổ chức một buổi cầu nguyện đặc biệt cho linh hồn quốc vương của ngài. Tuy nhiên, trước khi ngài bắt đầu câu chuyện, hãy cho phép tôi được uống chúc sức khỏe bố già Leonte, vị lão thành thông thái đang ngồi bên phải tôi đây. Quả thật ông cụ biết rõ các dấu hiệu thời tiết, về quỹ đạo của mặt trăng và các vì sao. Cụ còn biết chiêm tinh nữa. Đây là con người có học, biết nhiều việc xảy ra từ thời xa xưa. Tuy tôi không còn trẻ, nhưng trước mặt cụ tôi tự nhận mình thua kém và xin uống mừng sức khỏe cụ.
Bố già Leonte liền đứng lên chạm cốc và hôn bàn tay phải của Cha Gherman.
- Còn khá đủ thì giờ để chúc mừng sức khỏe những người khác ngồi tại đây. - Vị tu sĩ lại nói - Vậy nên chúng ta có nhiệm vụ nếm thử thứ rượu vang này, được kết tinh từ đất và mặt trời để chúc sức khỏe bố già Zaharia - người đào giếng. Ông quả có tài đưa nước tuôn ra dưới ánh nắng, thứ ấy tuy không ngon bằng rượu vang nhưng với Đấng Toàn Năng, nó lại tinh khiết và màu nhiệm hơn. Chúng ta, những tội đồ khốn khổ, than ôi còn ham thích những thức uống khác kia. Tôi xin uống chúc mừng sức khỏe anh bạn GheorghiỊă, trưởng đoàn xe Cantacuzino: Tôi nhận thấy anh vui tính, và biết thổi sáo. Tôi cũng xin uống chúc mừng sức khỏe bác lenache bán hàng rong. Bác mang trong các hộp của mình những vật phẩm vừa nhẹ vừa quý, những món đồ trang sức các cô gái trẻ hằng mơ ước. Sau khi đã chúc sức khỏe và ban phước cho mọi người, tôi nhận thấy còn lại trong cốc là phần rượu ngon nhất. Vì thế tôi xin chúc mừng cô chủ quán AncuỊa. Chính cô đã mang đến cho chúng ta mọi sự tốt lành. Khi cô cười, xem kìa, như đúng lúc này đây, thật giống như bông hoa huệ bung nở, gợi tôi nhớ đến mùa xuân. Tôi uống mừng sức khỏe quý hóa của cô và của tất cả những người khác, mà lòng vui sướng như được thấy những mầm xanh đầu tiên nhú lên trong rừng.
Cha Gherman vừa nói hết câu vừa uống đến giọt rượu cuối cùng. Những lời chúc mừng dào dạt ấy khiến chúng tôi thật vui thích, nhưng người cao hứng hơn cả là vị quan viên loniỊă.
- Thưa Cha Gherman rất mực tôn kính, - ông nói - tôi rất muốn biết Cha xuất thân từ đâu và công việc gì khiến Cha phải lặn lội đến thành phố Ia§i.
Vị tu sĩ trả lời:
- Như tôi đã thú nhận với ngài, ngài quan viên đáng kính ạ, trong khi chờ đợi thần chết tìm đến, thiên đường của tôi là ở trên ấy, tại tu viện Durău. Chính tại đấy tôi đã sống cùng những đạo hữu của tôi trong nhà tu khổ hạnh. Chúng tôi không có nhiều của cải, và có chăn nuôi vài con cừu cùng trâu bò. Đôi khi chúng tôi cũng xích mích với hàng xóm, tức là lũ gấu ấy. Chúng gây cho chúng tôi nhiều thiệt hại lớn. Thế là chúng tôi đành phải tuyên chiến với chúng. Nhờ Chúa che chở, chúng tôi đã đánh đuổi được chúng bằng rìu và dao, vì luật không cho chúng tôi dùng súng, gươm kiếm giáo nhọn và súng lửa: chúng tôi đã thực hiện đúng theo tinh thần lời dạy của Chúa. Thời gian dần trôi, rồi ngày Lễ Thánh Dimitrie cũng tới. Trên ấy hễ Đông về là chúng tôi sống trong hang, không hề thấy một bóng người nào cho đến mùa Xuân sau. Tới lúc bấy giờ chúng tôi mới xuống vùng sông BistriỊa thăm bạn bè và người quen. Cuộc sống trên vùng cao của chúng tôi thật khó khăn vô chừng...
Ông ngừng lời vì cô AncuỊa đã lại gần, với bình rượu trong tay.
- Rất cảm ơn người đẹp về rượu ngon và cái nhìn dễ ưa. Hãy rót đầy cốc để khỏi phải tốn công đi lại nhiều lần. Còn về nơi chôn rau cắt rốn của tôi, thưa vị quan viên đáng kính, nó cũng ở trên núi, tại làng Bozieni. Tôi không rõ mặt bố tôi. Chỉ có mẹ tôi với Chúa là biết ông thôi. Trên giường hấp hối, mẹ đã hiến dâng tôi cho tu viện Durău để tôi thay người chuộc lại các lỗi lầm xưa kia. Cũng vì lời thề ấy mà ngày hôm nay tôi hành hương đến nhà thờ Thánh Haralambos ở Ia§i. Khốn nạn thân tôi, đáng lẽ ra tôi phải thực hiện lời thề ấy từ lâu rồi. Vừa đi khuất dãy núi Ceahlau, tôi thấy mùi vị nước đã khác. Tôi không sao uống nổi một ngụm nào. Tôi theo sông BistriỊa đến Moldova, vừa đi vừa trầm trồ đất nước ta sao mà rộng lớn thế. Tôi đã dừng lại ở các làng, trọ lại các nhà và được đối đãi chẳng khác nào anh em ruột thịt. Đang ngất ngưởng cưỡi trên lưng ngựa, bỗng kìa dưới bóng cây anh đào, tôi thấy một quán trọ trông như một pháo đài, nghe có tiếng vĩ cầm và tiếng nói râm ran. Tôi liền giục ngựa phi tới rồi dừng lại và đặt tay nải vào một góc. Tôi thấy hối hận đã không ra đi sớm hơn để thực hiện lời thề với mẹ cách đây ba mươi bốn năm, lúc mẹ tôi sang thế giới bên kia...
Vị chức sắc cắt ngang:
- Những lời của Cha khiến tôi rất đỗi ngạc nhiên. Bản thân tôi chưa từng thấy nhà thờ Thánh Haralambos, và giá như tôi không bận nhiều việc, tôi sẽ lên ngựa đi theo Cha. Nhất định bà cụ sinh ra Cha có một bí mật mà Cha không biết.
- Có thể. - Vị tu sĩ trả lời - Nhưng khi tôi còn bé, chỉ bằng chừng này này, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng ghê gớm khiến tôi sợ đến lạnh cả người, mặc dù có mẹ ở bên. Lúc bấy giờ chính mắt tôi đã trông thấy ông Haralambos ấy.
Vị quan viên bối rối đưa mắt nhìn về phía chúng tôi.
Haralambos nào vậy? - Ông hỏi Cha Gherman.
- Vào thời xa xưa có một người tên là Haralambos rất nổi tiếng, ngay cả triều đình cũng biết danh ông. - Vị tu sĩ đáp, giọng đột ngột thay đổi và cẩn thận đặt cốc rượu xuống đất, ngay sát bên mình.
- Ông ta là ai, là người như thế nào, và đã làm gì? - Quan viên loniỊă hỏi dồn. - Tôi chưa từng nghe nói đến ông ta.
- Có lẽ vậy, - vị tu sĩ lại nói - vì câu chuyện này đã bị thời gian nhấn chìm vào đêm tối. Ông Haralambos ấy từng là lính cận vệ. Bỗng một hôm, thưa ngài quan viên IoniỊă đáng kính, Đấng Toàn Năng lại muốn ông ghê tởm công việc hằng ngày ở cổng lâu đài các vua chúa, và ông bèn trốn vào rừng cùng với các bạn hữu, mà vào thời ấy chuyện đó chẳng có gì là hiếm lạ. Cứ như thế, trên mình mặc bộ đồng phục thêu, ông dùng vũ khí của chủ mình để cướp phá nhà cửa của giới quý tộc, cũng như các làng mạc, chiếm đoạt nhiều của cải. Có những khu rừng, những con đường chỉ mình ông biết, rồi một số giếng nước và đường tắt hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của ông. Kẻ nào chống lại đều bị đâm hoặc bắn chết. Trước bao nhiêu việc làm tàn bạo ấy, nhiều vị quý tộc, nhà buôn cũng như dân thường đã đến quỳ lạy khóc lóc dưới chân quốc vương, tố cáo hành động cướp bóc và sát hại dân lành của Haralambos. Quốc vương lệnh cho các quan đầu tỉnh phải truy lùng và tóm kỳ được bọn cướp. Các đội tuần tra đã mở chiến dịch, đụng độ bọn cướp, nhưng Haralambos vẫn giành phần thắng. Có những lần khác, nếu thấy đánh không chắc thắng, Haralambos lại rút lui theo các đường tắt, vào tận nơi thâm sơn cùng cốc, là chỗ ở của các loại thú dữ. Bọn cướp cứ gieo tang tóc khắp nơi, mãi đến lúc quốc vương thực sự phẫn nộ. Vào Lễ Đức Mẹ lên Trời, ngày mười lăm tháng Tám, Hội đồng Nhà vua họp và quốc vương Ipsilanti ủ ê xuất hiện giữa các nhà quý tộc. Quốc vương không buồn đáp lại những lời chào kính cẩn của quần thần, chỉ vân vê chòm râu và khịt mũi.
“Ta lại nghe thêm chiến tích mới của bọn cướp!” Quốc vương thét lên. “Haralambos đã bất ngờ xuất hiện ở Dumbraveni thuộc lãnh thổ của chúng ta, rồi cướp phá quán trọ và những xưởng xay bột. Không thể nào tha thứ những tội phạm thượng như thế. Nhân dân ca thán và kêu khóc khắp nơi. Này, các thống đốc, các ngươi dã làm gì và ra lệnh ra làm sao?”
“Thưa quốc vương,” vị thống đốc vùng Thượng Moldova đứng lên trả lời, “Tôi đã thúc giục không ngớt tất cả các tỉnh trưởng. Họ cho nhiều quân lính đi dẹp loạn, nhưng than ôi lại không đạt kết quả mong muốn.”
“Không kết quả hả, ông thống đốc? Không kết quả sao?
“Quả thật, thưa quốc vương, không đạt kết quả, nhưng hiện nay chúng tôi đã biết được một số sào huyệt, một vài dấu vết và danh tính kẻ chứa chấp bọn cướp ấy. Con sói thường quay lại nơi nó từng bắt được cừu. Vì lẽ ấy chúng tôi giờ chỉ cần một thợ săn gan dạ.”
“Thợ săn gan dạ nào vậy, hởi thống đốc này, ngay bây giờ ta chỉ thấy toàn những phường hèn nhát.”
“Thưa quốc vương, tên Haralambos trước khi phản bội chỉ là một tên lính quèn trong đội cận vệ. Nó có một người anh tên George Leondari, là một con người trung thực và một quân nhân dũng cảm. Người anh đó hết sức tức giận về những hành vi xấu xa của em mình. Thưa quốc vương, theo ý tôi, quốc vương hãy cho gọi người chỉ huy cận vệ này và lệnh cho hắn buộc em mình đầu hàng!”
Vị quốc vương bắt đầu suy nghĩ, vân vê chòm râu và đi đi lại lại.
“Ông có lý, ông thống đốc ạ.” Cuối cùng quốc vương nói. “Ta biết hai anh em họ, và vẫn mến tính trung thực của George, người chỉ huy cận vệ. Có điều ta không nghĩ hắn là tay thợ săn chúng ta cần. Cho truyền George!”
Các môn lại phục vụ tại chốn cung đình bổ nháo bổ nhào chạy đến chỗ đội cận vệ, và chẳng mấy chốc, George đã xuất hiện. Quốc vương cúi đầu, râu chạm ngực, và nhíu mày nghiêm khắc nhìn người chỉ huy cận vệ.
“Nhà ngươi hãy nghe kỹ đây, ta đánh giá cao lòng ngay thẳng và tinh thần phục vụ tận tụy của ngươi. Chẳng thế mà ta đã trọng thưởng ngươi. Dưới triều đại của ta, ngươi có nhà cửa, đất đai ở Ia§i. Nhưng như nhà ngươi đã biết, Haralambos em ngươi đang gieo rắc tang tóc trong dân chúng. Giờ khắc nhà ngươi phải chịu trách nhiệm về em mình đã đến. Ta cho ngươi kỳ hạn đúng hai tuần, muốn mang theo bao nhiêu lính tráng tùy thích. Nhưng đến kỳ hạn, phải đưa em ngươi về đây dù sống hay chết, nếu không hãy coi chừng, ngươi sẽ không thấy mặt ta và ánh sáng mặt trời nữa!”
Người thủ lĩnh cận vệ George im lặng một hồi lâu.
Khi các vị quý tộc ngẩng lên nhìn, họ thấy ông mặt mày nhợt nhạt, dáng người cao lớn cứ run rẩy như chực đổ. Cuối cùng ông đáp lời:
“Xin tuân lệnh quốc vương!”
Ông cúi đầu, hôn tay quốc vương và rút lui. Vừa về đến chỗ đội cận vệ, ông cho tập hợp quân lính, chọn ra năm mươi người, phân phát vũ khí và định giờ xuất phát. Khi màn đêm buông xuống, họ lên đường hướng thẳng đến vùng hoang vắng. Ngày hôm sau, George nghe tin có vụ cướp bóc quanh đây. Tức khắc, ông liền lần theo dấu chân Haralambos, như chó đánh hơi mùi thú hoang, vây dồn em mình từ hang ổ này đến hang ổ khác, suốt ngày đêm.
Đến ngày thứ tám, vào lúc rạng đông, trời đang mưa thì có người gõ cửa sổ nhà chúng tôi tại làng Bozieni.
Mẹ tôi đang nằm bên tôi liền choàng dậy, và vội vàng kéo chốt cửa. Tôi thấy một người quen bước vào nhà trong bộ dạng ướt đẫm, khuôn mặt hốc hác, ánh mắt dữ tợn, khác hẳn với vẻ đẹp đẽ và chững chạc thường lệ. Đôi khi buổi tối ông đến nhà chơi, ngồi trên ghế dài, nhẹ nhàng vuốt tóc tôi.
Ông nói nhanh, giọng khàn đặc:
“Cho tôi ăn đi!”
Mẹ tôi hoảng sợ. Bà run rẩy tìm chiếc tô đựng món xúp ngô đã nguội ngắt. Tôi còn nghe được những lời mà cho đến lúc chết cũng không quên được.
“Anh George đang vây dồn tôi như dồn một con sói!”
Ông Haralambos chẳng kịp nuốt lấy một miếng. Có tiếng bước chân bên ngoài rồi những giọng nói cất lên:
“Hãy bước ra Haralambos! Khu vườn đã bị bao vây, và nếu mi không ra, họ sẽ mất đầu!”
Tôi nghe tiếng ông Haralambos kêu lên giận dữ. Ông rút súng từ thắt lưng rồi lao ra cửa. Mẹ nắm tay tôi và chúng tôi chẳng mấy chốc đã ở ngoài hiên. Trong vườn, đám cướp đang lăm lăm vũ khí. Họ có khoảng tám hay mười người. Chính lúc ấy tôi mới hiểu Haralambos là ai. Mẹ bắt đầu khóc thút thít và ôm chặt tôi vào lòng, tôi đoán đây là giờ phút nguy hiểm. Trong làng chó sủa không ngớt. Bỗng đột ngột bên bìa rừng xuất hiện một đội lính kỵ binh đang dàn hàng chiến đấu. Tôi nghe thấy nhiều tiếng nổ ở các đường hẻm gần đấy và phía sau nhà. Còn đồng bọn của Haralambos đột nhiên rút lui, dãn ra rồi hạ vũ khí. Vừa lúc ấy một người đàn ông cao lớn, râu đen xuất hiện. Mẹ thì thào:
“Anh của ông ấy đấy, giống thật!”
Người anh giơ con dao găm lên dọa nạt:
“Hãy đầu hàng đi!”
Haralambos giương súng bắn và định nạp đạn vào khẩu súng đang cầm ở tay trái thì viên chỉ huy đội cận vệ đã đâm ông một nhát chí mạng. Mẹ tôi hét lên một tiếng hãi hùng. Bọn cướp nằm rạp xuống và đầu hàng.
Lính nhà vua từ khắp nơi xông đến. Khi cơn bạo động và mọi sự ồn ào đã qua, một người lính cận vệ giơ thủ cấp của người chết lên cho tất cả cùng thấy.
Lúc đó mặt trời đang lên, chiếu hàng nghìn tia nắng vào lớp băng đóng trong vườn, còn cái đầu thì nhìn tôi chòng chọc. Tôi nở một nụ cười buồn.
George quay về cung vua, mang theo thủ cấp của người em. Ông trình diện trước Hội đồng Nhà vua, đặt chiếc đầu phủ tấm voan đỏ trên thảm ngay chân quốc vương. Rồi quỳ xuống bên cạnh, ông giãi bày giữa dòng nước mắt:
“Thưa quốc vương, tôi đã thực hiện lệnh của ngài. Nhưng tôi xin ngài cho tôi từ chức, lui về sống trên mảnh đất của mình, vì lẽ tôi đã làm đổ máu người thân ruột thịt, mang cùng dòng máu đang chảy trong huyết quản tôi.”
Thật là một cảnh tượng xé lòng. Cả quốc vương và các vị quý tộc đều không cầm được nước mắt. Còn vị chỉ huy cận vệ George được vua chấp thuận cho từ chức. Ông rút về sống tại đất ban của mình, và chiu lễ chuộc tội cho hành động giết người. Để linh hồn người em sai đường lạc lối được yên nghỉ, ông cho xây tại thành phố Ia§i chính cái nhà thờ mà tới đây, tôi sẽ đến làm lễ.
Đấy là lý do, thưa vị quan viên đáng kính, vì sao tôi hiến dâng đời mình cho tu viện Durău. Thực lòng tôi thường ước mong được sống giữa những con người. Vì thế đôi khi tôi ngán ngẩm: Than ôi, sao cuộc đời mình lại tẻ nhạt và buồn bã như vậy.
Vị chức sắc xúc động mạnh trước câu chuyện của người tu sĩ, đến độ ông không nói được nên lời. Nhưng ông bình tĩnh lại ngay và cam đoan với chúng tôi rằng câu chuyện ông muốn kể còn lạ lùng và khủng khiếp hơn nhiều.