CHUYỆN NGƯỜI ĐÀO GIẾNG ZAHARIA
ÔNG lão mù chưa kể hết chuyện thì mẹ già Salomia đã không ngồi yên nổi nữa. Bà cụ bẻ ngón tay và cắn môi. Khổ thêm nữa là khi AncuỊa hôn tay ông lão và một lần nữa đặt trước mặt ông cụ thịt cùng bánh mì thì bà lão không thể ngăn mình lẩm bẩm một vài lời gièm pha. Bà quay lại phía chúng tôi, nói:
- Xem kìa, thế là có những kẻ biết thu xếp sống sao cho thoải mái dù chẳng làm được tích sự gì. Họ bắt người ta cầm tay dắt đi, vì nếu để một mình, họ không đi nổi hai bước. Thế mà vừa đến một nơi nào đó, họ liền tuôn ra những điều dối trá khiến mọi người cứ há hốc mồm ra mà nghe.
- Những lời dối trá nào thế, hả mẹ Salomia? -Tôi liền hỏi.- Ông cụ vừa kể cho chúng tôi nghe về đời mình và chuyện quốc vương Duca mà bản thân chúng tôi không phải là không biết.
-Câu chuyện đó tất nhiên là thật, bởi vì chính tôi đây cũng chẳng phải mới sinh ra ngày hôm qua. Tôi đã từng nghe và từng khốn khổ trăm chiều. Còn những chuyện của lão ta, anh không thấy sao, lão cứ lật qua lật lại khiến bà con ở đây phải căng thẳng lắng tai nghe. Thứ cặn bã như lão còn có thể dùng vào việc gì? Chẳng gì sất. Thế nên tôi tưởng mình bị ngạt thở vì giận khi nghe lão nói và nhất là khi nhìn lão cử động.
-Hỡi mẹ Salomia, tôi van mẹ, chớ nổi giận. Hồi trẻ mẹ từng rất xinh đẹp và như lời ông lão Constandin nói, mẹ cũng từng đeo chuỗi ngọc. Và những người đàn ông phải chăng đã từng săn đón mẹ, miệng làm duyên khi dâng tặng mẹ những lời chúc mừng? Cũng như thế, những người tụ họp lại đây với mục đích mà mẹ cũng đã biết đấy: họ thích nghe kể chuyện. Người nào biết cách kể hay, người ấy sẽ nhận được nhiều lời khen nhất, ông lão ấy bị mù và đói rách nhưng lại biết cách nói, cách hát. Đấy là tài năng Chúa ban cho. Nếu một bông hoa làm mẹ thích vì màu sắc và hương thơm thì cũng chẳng vì thế mà mẹ ghét bỏ bông hoa thiếu hương sắc. Trời phú cho nó thế, biết làm thế nào được.
-Nó có thể dùng làm thuốc chữa bệnh. - Mẹ Salomia trả lời, giọng chua chát.
-Đúng như mẹ nói, nó có thể dùng vào việc đó, mẹ Salomia ạ. Mẹ nói rất có lý, nhưng chúng ta tụ họp tại đây, buổi tối nay, không phải để lo chuyện những người ốm và thảo dược. Cũng như ông lão mù của chúng ta, trước khi mẹ đến đây, những người khác cũng đã kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện sởn tóc gáy, cho đến chết tôi cũng không quên được. Bây giờ chúng tôi đang chờ, nhất là chờ vị quan viên loniỊă sẽ kể cho nghe, tôi đoán sẽ là chuyện có một không hai.
-Phải chăng anh định nói đến vị chức sắc người cao gầy kia?
- Đích thị ông ta đấy, mẹ Salomia ạ.
- Tôi nhớ cũng từng nhìn thấy vị ấy và được nghe kể chuyện xưa. Quả thật, theo tôi thì chẳng có nhiều người như vị ấy. Tôi cũng nhìn những người khác và nhận ra một số người tôi đã được gặp tại đây, nơi quán trọ này. Tôi tin họ biết kể chuyện hay. Nhưng ta không thể tin vào kẻ kém năng khiếu hơn trong tất cả những người ở đây. Tôi, người đã dắt lão đi và khiến mọi người ở đây biết lão, bị gạt ra rìa, còn lão thì được ngồi chỗ danh dự. Nhưng thôi, đừng nói đến tôi nữa. - Mẹ Salomia vừa nói tiếp, vừa chằm chằm nhìn tôi.- Trong số bà con ở đây, tôi thấy có một người đã chứng kiến trong đời nhiều chuyện lạ. Giờ người ấy có thể kể cho ta nghe đôi điều. Sau đó ta sẽ thấy những kẻ mù đáng giá đến đâu. Hay là bây giờ chúng ta nghe ngài quan viên IonỊna vậy. Dẫu sao như thế sẽ tốt hơn và thích hợp với chúng ta hơn.
- Mẹ Salomia này, mẹ nói về chuyện gì và về ai vậy?
-Hãy nhìn đi và anh khắc biết. Tôi muốn nói về con người đang ngồi giữa vị tu sĩ và anh chăn cừu ấy.
- Nhưng đó là bố già Zaharia làm nghề đào giếng mà mẹ Salomia. Từ lúc đến đây, tôi không hề nghe thấy giọng bác ấy. Mẹ không thích người mù, nhưng theo tôi, mẹ lại có cảm tình với người câm.
- Hãy yên trí, bác ấy không câm đâu. Chỉ có điều là thích rượu quá nên bác ấy không có thì giờ để nói thôi. Hãy để bác ấy kể chuyện đã xảy ra với mình rồi anh sẽ cho tôi biết ý kiến.
-Đã xảy ra chuyện gì với bác ấy vậy, mẹ Salomia?
Tôi đang hỏi mẹ Salomia thì vị quan viên liền chen vào:
- Chuyện nào xảy ra và với ai?
-Thưa ngài quan viên loniỊă, chuyện xảy ra với người đàn ông kia, bác Zaharia đào giếng ấy.
Mẹ Salomia nói với tôi về một chuyện đã xảy ra với bác ấy, nhưng tôi không được biết là hồi nào.
- Ở đâu vậy? - Vị quan viên IoniỊă hỏi.
- Chính bác ấy sẽ nói cho ngài nghe.- Mẹ Salomia bỗng dịu dàng hẳn.- Hãy yêu cầu bác ấy kể câu chuyện đã xảy ra trong rừng, phía bên kia sông ấy.
Tức thì bà cụ kêu to, giọng cao vút:
-Ê này! Người anh em Zaharia!
Bác thợ đào giếng quay mặt về phía chúng tôi, đầu tóc bù xù, râu ria xồm xoàm.
-Hu-u! - Bác ấy hét tưởng như từ đáy giếng vọng lên vậy.
Bà lão liền nói:
- Này người anh em Zaharia, bà con ở đây muốn nghe chuyện xảy ra với bác hồi trẻ, ở khu rừng phía bên kia sông.
Bác Zaharia đáp ngay:
-A há! Tại Pastraveni.
- Đúng đó bác Zaharia ạ, chỗ khoảng rừng trống bác biết đấy. - Mẹ Salomia xác nhận, giọng khích lệ.
- Cánh rừng trống ngày xưa thì có đấy nhưng giờ bị người ta dọn quang đi rồi. Người ta gọi nó là rừng Vladica Sas.
-Các ngài nghe thấy không?- Mẹ Salomia vừa nói vừa cười, rồi phác một cử chỉ từ chối cốc rượu vị quan
viên mời. - Rất cảm ơn ngài quan viên đáng kính, tôi đang bị một vết loét nên không uống rượu được. Tôi chỉ uống nước thôi. Nhưng tôi vui lòng nhấm những chiếc bánh kia, cái nào mềm nhất ấy, vì lẽ, thưa vị quan viên đáng kính, đã từ lâu răng tôi bị rụng cả, đâu còn cắn được như thời trẻ. Bánh ngon tuyệt không chê vào đâu được. Hệt như những chiếc do chính tay tôi làm. Giờ thì tôi dám nhấp thử một tí rượu ấy, chỉ nhấp đầu lưỡi thôi, nhất là vì đây không phải thứ rượu lâu năm. Nào hãy kể đi, người anh em Zaharia, câu chuyện xảy ra trong rừng thưa ấy.
-Câu chuyện nào? - Bác thợ đào giếng thong thả hỏi.
-Bác biết đấy, chuyện ngài quý tộc vùng Pastraveni gọi bác đến nhà và ra lệnh cho bác phải làm sao để nước phun ra ngay trong rừng ấy.
-Có thế thật, - Zaharia đồng tình - vị quý tộc gọi tôi đến và ra lệnh: “Ngươi phải tìm ra mạch nước và đào cho ta một cái giếng trong khoảng rừng Vladica Sas. Đến mùa thu, đoàn đi săn của quốc vương sẽ dừng chân tại đó. Phải có nước cho ta.”
Bác thợ đào giếng Zaharia ngừng nói.
- Thế nào? - Vị quan viên hỏi, giọng khích lệ.
-Chỉ có thế thôi.
-Sao lại chỉ có thế thôi?- Mẹ Salomia vừa hỏi vừa lắc đầu.- Ông bạn, hãy nhớ lại và kể hết tất cả đi. Cả đoàn người đã đến đấy như thế nào, bác đã giẫm chân lên đất tại chỗ đó rồi chỗ khác, và nhận thấy những dấu hiệu chỉ mình bác biết thôi ra sao. Rồi bác rút ở thắt lưng ra đôi đũa màu nhiệm không bao giờ nhầm lẫn, đặt nó lên mặt đất và đã nhìn...
- Quả thật tôi đã nhìn đôi đũa,- bác Zaharia nói - nhưng vị quý tộc, ngài Dimachi Mârza, có nhìn cũng vô ích, ông ta chẳng hiểu gì sất. Với chính đôi đũa ấy tôi đã tìm ra nước trong khoảng rừng Vladica Sas.
Bác Zaharia rút từ bên trái chiếc thắt lưng da rộng bản hai cái que gỗ tròn bóng loáng được buộc vào nhau. Bác cố gỡ những sợi dây mảnh quấn quanh. Và dưới ánh lửa, người ta bỗng thấy chúng sáng chói lên nhờ một quả cầu bạc.
- Những chiếc đũa này, - bác giải thích - được làm bằng gỗ cây du. A ha! Ai biết được người nào đã chuốt ra chúng và lúc nào chứ? Tôi được thừa hưởng từ ông bà tôi - cũng là những người chuyên đào giếng. Họ từng dùng chúng để phát hiện nguồn nước và giếng nước, cũng như bản thân tôi đã làm công việc ấy trong rừng thưa trước mắt ngài Dimachi Marza. Thế đấy.
- Và sau đó thế nào? - Vị quan viên hỏi.
-Nào, hãy kể đi ông lão. - Mẹ Salomia lên tiếng, giọng khích lệ, vừa nhăn mũi, vừa nhíu mày. - Hãy kể bác đã làm gì. Đốp, bác nện gót giày đế cao xuống đất và bảo: “Đây, thưa ngài, chỗ này có nước. Chính tại đây, ngay tại đây, thưa ngài Dimachi. Cho tôi một vài nông nô, thuổng và cuốc, cần hai mươi xe để chở đá đem chất lên chỗ này, cạnh tôi đây. Hãy cho tôi đủ số người cần thiết và nói một tiếng với ông chủ tiệm rượu - để tôi có thể uống không trả tiền. Sau đó ít lâu, tôi sẽ mời tất cả đến đây, đem theo chiếc cốc thủy tinh và tôi sẽ cho các bạn nếm nước của mảnh đất này.
-Đúng là việc đã xảy ra như thế.- Zaharia xác nhận.
Sau đó vị quý tộc nói: “Đồng ý, hãy đào giếng cho ta.” Rồi ngài về nhà với bác thợ đào giếng, gọi người thư lại mang bút lông đến. Tiếp đến, vị quý tộc lại bảo đem tới đấy một chiếc bàn con và giấy. Ngài viết những yêu cầu của Zaharia, rồi ra lệnh cho mọi người. Ngài chỉ định các nông nô phải đào đất, những người đánh xe phải đưa đá đến, những thợ nề phải giúp việc xây giếng. Mọi người đều cúi đầu tuân lệnh, bước lùi rồi quay ra thi hành nhiệm vụ.
- Quả đúng như thế. - Zaharia xác nhận thêm.- Vị quý tộc ấy nhìn xoáy vào mặt họ và huýt lên một tiếng theo thói quen. Tất cả sợ hãi vụt chạy hết.
- Họ tất tả chạy. - Mẹ Salomia nói tiếp. -Và mọi thứ được chuyển đến nơi đúng lúc. Bọn Digan bắt đầu đào giếng bằng thuổng và dùng cuốc móc đất, những người chở xe chuyển đá chất lên cỏ trong khi người anh em Zaharia ung dung nằm nghiêng nghiêng dưới mái lều lợp lá, vừa quan sát vừa khoắng rượu trong cốc.
-Thứ rượu bã nho vùng Cotnari. - Người thợ đào giếng nói rõ thêm.
-Đúng thế, bác ấy nằm trong lều, duỗi dài trên chiếc giường trải từ đám lá cây cho tới khi các nông nô đào đến lớp đất đen, đất sét, rồi tới cát và sỏi. Cuối cùng lớp đất bùn cũng lộ ra. Bấy giờ người anh em Zaharia mới đứng lên, đến bên hố giếng. Bác ấy bảo: “Nào, những anh em Digan, nếu các bạn khát, hãy kiên nhẫn một chút xíu nữa thôi, vì chẳng mấy chốc nước sẽ hiện ra.”
Sự việc xảy ra đúng như lời tiên đoán của bác già và đôi đũa. Cuối cùng, bà con ạ, họ đào đến nước. Rồi họ lại đào nữa. Họ cho bùn vào thùng, chuyển lên bằng ròng rọc. Cứ ra sức đào, những nông nô đưa bàn tay lau trán đầy mồ hôi. Họ hỏi: “Chúng tôi còn phải đào lâu không, hả bác Zaharia?”
“Hãy đào đến khi nào tôi nói dừng lại.”
Rồi cũng đến một hôm bác ấy đứng lên và bảo:
“Dừng! Bây giờ phải đặt khung giếng, san đất, đặt những thanh chống vững vàng, sau đó bắt đầu xây.”
Nói là làm, bác thợ đào giếng tự mình xuống đó với mấy người thợ nề xây thành giếng. Khi lá cây trong rừng bắt đầu rụng, vị quý tộc đến với một chiếc cốc thủy tinh đúng như lời Zaharia nói và nếm thử nước.
-Quả thật đúng như thế, - Zaharia xác nhận - ngài Dimachi lại:“Suỵt! Nước này ngon tuyệt bác Zaharia ạ!” Quả là nước ngon thật. Chỉ có điều riêng tôi, tôi thích rượu hơn, và rượu hợp với tôi hơn.
-Rồi sau thế nào? - Vị quan viên hỏi.
-Làm gì còn sau đó? Tôi đã đào xong giếng. Xin chào.
- Nào, hãy bình tĩnh đã người anh em Zaharia, bác biết rõ là chưa hết cơ mà. - Mẹ Salomia vừa cười vừa nói tiếp. - Có phải tôi kể với bà con đây những điều bác đã thấy và đã biết, bản thân tôi không hề ca ngợi bác? Sau khi xây xong giếng, một kỵ sĩ trong đoàn hoàng gia đi tiền trạm đến báo trước cuộc đi săn của quốc vương.
Khi người sứ giả về rồi, ngài Dimachi lại gọi tất cả gia nhân đến, ra lệnh dọn dẹp khu rừng, dựng những lán trại làm nơi nghỉ chân cho quốc vương. Khi quốc vương đặt chân xuống đất thì Zaharia sẽ trình diện với một bình nước trong mát, rồi rót vào cốc thủy tinh dành riêng cho quốc vương. Trong khi đó, một người Digan đứng gần đấy sẽ bưng đến một khay có đặt đĩa mứt và chiếc dĩa bạc.
Mọi thứ được chuẩn bị xong xuôi thì quốc vương ngự giá đến Pastraveni với cả một đoàn tùy tùng đông đúc.
- Đấy là quốc vương Calimah. - Ông thợ đào giếng nói rõ thêm. - Bộ râu của Người dài xuống đến tận đây... và lúc nào Người cũng đưa tay lên chải râu.
- Quốc vương đến, hết sức huy hoàng và lộng lẫy. Ngài quý tộc Dimachi Marza cùng phu nhân và người con gái xinh đẹp, mảnh mai ra nghênh đón. Vị quý tộc cúi chào quốc vương, hôn tay Người, nhưng cô con gái cứ khóc và thở dài thườn thượt.
“Sao vậy?” Quốc vương Calimah hỏi. “Tại sao cô bé này cứ thở dài thế?”
“Thưa quốc vương, cháu rất nhút nhát.” Vị quý tộc trả lời, vừa trợn mắt nhăn mày với cô gái. “Con bé còn nhỏ dại...”
- Tiểu thư tên là Aglaita. - Bác Zaharia nói thêm.
- Cô Aglaita ấy chẳng ốm đau gì đâu. Chỉ có điều cô đang say mê, bằng tất cả tấm lòng của tuổi trẻ, anh con trai một nhân viên không chính ngạch ở Războieni. Anh chàng chỉ là một tay nhân viên quèn. Anh ta bị vị quý tộc đối xử rất thô bạo, mắng rằng:
“Hừ, tên khốn nạn, hãy chui xuống đất cho rảnh, Sao mày dám nhìn con gái ta?”
Cô gái lúc ấy đang tuyệt vọng trong tình yêu, cứ khóc thầm. Ngài quý tộc nắm vai cô, bóp mạnh tay cô như kẹp trong gọng kìm, và thô bạo đẩy cô vào một căn nhà nhỏ phía sau để cô đừng làm phiền buổi lễ và để quốc vương không nhận thấy cái điều sỉ nhục ấy.
Sau đó ngài quay lại phía chòm râu đáng kính của quốc vương, khuôn mặt vô cùng rạng rỡ. Ngay lập tức ngài cho gọi những người gác rừng đến, lệnh cho họ kể với quốc vương về lũ hoẵng và lợn lòi sống trong rừng sâu, tại các hang hốc chỉ họ mới biết.
Tiệc xong, quốc vương và đoàn tùy tùng đi nghỉ để sáng mai dậy sớm. Quả thật, quốc vương là người đầu tiên lên ngựa, ngài Dimachi đi bên cạnh ra lệnh cho những người gác khu săn bắn và những người đuổi con mồi. Tất cả lên đường vào rừng. Tại đấy, sau khi giăng cả một hệ thống vây dồn, người ta bắt đầu lùng sục các thung rãnh, vừa kêu la vừa thổi tù và.
Trong khi đó, Zaharia vội vàng đến chỗ giếng xây.
-Đúng thế thật. - Bác thợ đào giếng xác nhận.
-Nhưng trước khi tới đó, bác thấy con gái ngài Dimachi từ một ngõ hẻm đi ra. Cô gái khóc, hai tay ôm đầu, đi lang thang như một người điên giữa đám cây cối trong rừng.
“Tôi xin hôn tay cô, hỡi cô Aglaita. Nhưng tại sao cô cứ thở dài và khóc lóc mãi như trong đám tang vậy?”
“Chao ôi, bác Zaharia,” Cô bé ngừng khóc, kêu lên. “Làm sao không khóc được hỡi bác Zaharia? Tôi phải chết thôi. Tôi đã quỳ lạy trước tượng Đức mẹ Đồng trinh, van xin Người tạo nên một phép màu nào đó có thể làm mềm những trái tim sắt đá. Tôi không thể quỳ gối trước quốc vương để thổ lộ với Người, tôi cảm thấy bị đến cả mẹ đẻ bỏ rơi. Tôi nghĩ là từ nay chẳng có gì còn lại cho tôi, ngoài việc tự hủy đời mình. Bác Zaharia, bác có thấy là tôi không thể sống thiếu Ilies Ursachi không? Vì thế tôi sẽ nhảy xuống giếng đây. Khi nào quốc vương đến để giải khát, bác không được đưa nước và hãy thưa với Người rằng: Thưa vị chúa tể lỗi lạc, cô con gái vị quý tộc đã nhảy xuống giếng.
“Chẳng lẽ cô định làm việc ấy thật sao, cô Aglaita?”
“Thật, bác Zaharia ạ. Nhưng trước tiên, tôi phải nhờ bà vú tôi bảo Ilies đến, để chúng tôi cùng nhau sống những giây phút cuối cùng như hai người yêu nhau vô tư vậy, sau đó tôi sẽ gieo mình xuống giếng.”
“Nhưng anh ta sẽ không để cho cô làm thế đâu. Đấy là chàng trai từng vượt mọi thử thách. Anh ta chẳng thà bắt cóc cô và cùng trốn đi với cô còn hơn.”
“Nếu thế, tôi sẽ không nhảy xuống giếng nữa, bác Zaharia ạ.” Cô gái trẻ vừa cười vừa nói.
“Nếu như thế, đừng nhảy xuống giếng. Cô hãy tin tôi, sau khi gặp người yêu hãy đến tìm tôi tại chỗ giếng, tôi sẽ để hai người ở căn nhà lán tiếp quốc vương. Vào giờ nghỉ trưa, đoàn đi săn hẹn gặp nhau tại rừng Vladica Sas. Tôi sẽ dâng cho quốc vương bình nước mát và chiếc cốc thủy tinh. Người hầu Digan sẽ dâng mứt và dĩa trên một chiếc khay. Vị quốc vương sẽ ‘a’ lên một tiếng và nói: ‘Nước này ngon tuyệt! Hoan hô!’ Tôi sẽ rút lui còn quốc vương sẽ vào căn nhà lán. Bấy giờ Người sẽ nhìn thấy cô và người yêu cô đang cúi đầu quỳ đó, nước mắt đầm đìa van xin tha lỗi. Thế rồi quốc vương sẽ nắm tay cô bảo đứng lên và gọi vị quý tộc đến nhận con rể mình. Cô ạ, theo ý tôi, đấy là cách sắp xếp tốt nhất. Sự việc sẽ không thể nào khác được, nhất là các bạn trẻ yêu nhau, họ sinh ra là để được tha thứ.”
Đến đoạn kể này, Zaharia bắt đầu cười trong chòm râu xồm của mình. Bác có vẻ sửng sốt hơn ai hết trước một biến cố như vậy, vì thế bác không cười nữa, mà vươn cổ, ngẩng đầu, mở to mắt để nghe cho rõ hơn đoạn sau mà chính bác đã biết. Thường mọi câu chuyện sẽ trở nên khác hẳn qua lời nói của người bên cạnh.
-Hừm, - bác làu bàu nói - theo tôi, quả thật họ không thể làm gì hơn.
- Họ không thể làm gì hơn. - Mẹ Salomia nói tiếp và tự cho phép mình kẹp một miếng bánh phó mát giữa hai ngón tay. - Đúng thế, trong thời gian đứng dưới bóng cây rừng, hai người luôn dỏng tai nghe tiếng hò hét lẫn tù và của đoàn săn thú. Sau đó họ đi về giếng nước. Trong khi đó, qua các quý tộc thân cận, quốc vương được biết tại sao cô gái đã khóc khi hôn tay Người, bởi lẽ những chuyện như thế thường được lan truyền rất nhanh. Sau khi nhắm mắt và uống một cốc nước, quốc vương “a” lên một tiếng và vuốt râu. Người mỉm cười, quay mặt về phía quần thần và dân chúng như tìm một ai đó.
“Này, Dimachi Mârza tận tụy của ta đâu rồi?”
“Thưa quốc vương, xin có kẻ hạ thần đây.”
“Ta muốn biết việc gì đã làm ngươi phiền lòng và đang quấy rầy ngươi. Ta rất muốn nhìn thấy, giữa chúng ta, trong bữa tiệc tại rừng thông này, cô con gái yêu của ngươi, cháu tên là gì thế?”
“Aglaita, kính thưa quốc vương.”
“Ta thích được thấy cô bé Aglaita rót cho quốc vương của mình thứ rượu xưa vào chiếc cốc bạc.”
Ngài quý tộc Dimachi hoảng sợ, vì lẽ vợ ngài vừa cho biết con gái họ đã trốn nhà đi tìm cái chết.
“Thưa quốc vương, chẳng còn thì giờ nữa. Các món ăn đã sẵn sàng và đoàn tùy tùng đang chờ.”
“Ta muốn biết hiện nay con gái ngươi đang ở đâu?”
Lúc bấy giờ người thợ đào giếng Zaharia dùng hết nghị lực mới rút từ trong thắt lưng da rộng bản ra đôi dũa mà các bạn đã biết đấy, cầm giữa các ngón tay, giữ cho chúng đứng yên. Lúc bấy giờ cái quả cầu bạc lắc lư như một ngọn đèn con. Chẳng ai hiểu gì cả. Bản thân vị quý tộc không biết trả lời ra sao với quốc vương.
“Có phải đây là Zaharia, người thợ đào giếng?” Quốc vương hỏi, vừa mím môi vừa nhìn người thợ làm giếng từ vị trí tỏ rõ uy quyền cao sang của mình.
“Vâng, thưa quốc vương.”
“Ông ta muốn gì ở chúng ta vậy?”
“Thần không biết, thưa quốc vương.”
Nhà vua quay lại phía Zaharia, mặt sa sầm:
“Có gì đấy, hỡi con người trung hậu?”
Zaharia không dám trả lời, nhưng đi theo hướng chiếc đũa chỉ và mở cửa ngôi nhà dành cho vị quốc vương. Thế là quốc vương nhìn thấy rõ đôi trai gái đang quỳ và cúi lạy.
Chẳng ai hiểu tại sao lại xảy ra sự việc như thế và quốc vương đặc biệt ngạc nhiên về sự sáng suốt của đôi đũa. Sau đó chẳng bao lâu, quốc vương và hoàng hậu đã trở thành bố mẹ đỡ đầu trong lễ cưới của đôi trẻ tổ chức tại thành phố Ia§i. Vì lẽ một khi mọi người đã giải hòa thì tâm trạng vui vẻ đã biến đoàn đi săn thành đoàn dự lễ cưới. Trên đường đến thủ đô, đoàn tùy tùng hoàng gia đã tổ chức một buổi nhảy múa vui vẻ tại đây, chính quán trọ AncuỊa này.
- Hừm! - Zaharia vừa gật đầu vừa mím môi.- Đúng là sự việc đã xảy ra như thế.
Bà lão kết thúc:
-Tôi chẳng đã nói với các bạn là bác thợ đào giếng biết nhiều hơn bao kẻ khác còn gì.
- Quả là chuyện của Zaharia hay tuyệt. - Vị quan viên loniỊă vùng Drăgăne§ti xác nhận. - Rất có thể những người khác biết nhiều chuyện khác hay hơn, lạ hơn, nhưng lần này chuyện của bác ấy hay hơn hẳn, chẳng phải nói thêm gì nữa.
Bác thợ mỉm cười, người cứ đờ đẫn. Bác nhìn chúng tôi như nhìn qua một lớp vải mỏng, người đung đưa nhẹ nhàng. Đêm đã khuya, lửa bếp đang lụi tàn, phần lớn các khách trọ đã đặt cốc xuống đất. Do mệt quá và vì buồn ngủ, cái nhìn của họ hóa chập chờn như nhuốm màu hoàng hôn.
Từ góc cuối quán trọ bỗng rít lên tiếng hí của con ngựa còm. Nó đã cất lên một tiếng kêu sợ hãi cao vút khiến tôi nhảy nhổm lên vì hoảng hốt.
Mẹ Salomia nhăn mặt và ngập ngừng thì thầm:
- Các bạn nên biết rằng đấy là giờ khắc của ma quỷ. Tôi biết những ám hiệu của đêm tối, đặc biệt là những ám hiệu của ma quỷ. Con ngựa đã đánh hơi thấy, vì thế mà nó nổi lên hí.
Cái quán trọ cũ kĩ cũng cảm thấy thế, vì lẽ như có một luồng hơi lạnh chạy ngang qua. Đâu đó trong sâu thẳm của bức tường dày nghe có tiếng cánh cửa đóng sầm lại. Sự im lặng bao quanh bếp lửa. Dù vẫn nhìn nhau nhưng bỗng nhiên chúng tôi không thấy mặt nhau nữa. Mẹ Salomia nhổ nước bọt ba lần vào đống tro và làm dấu thánh. Chỉ khi đó chúng tôi mới sực tỉnh. Có lẽ ma quỷ đã biến mất vào chốn tĩnh mịch vô biên của sông nước và cây rừng, vì từ lúc đó chúng tôi không còn cảm thấy sự có mặt của chúng nữa. Tuy nhiên, vì mệt lả như sau một ngày lao động nặng nhọc, chúng tồi chỉ vừa đủ sức xê dịch để tìm một góc kín đáo, hay một chỗ nghỉ ngơi nào đó. Một số người trong chúng tôi quá buồn ngủ liền nằm ngay tại chỗ, chân co lại. Và chính vị quan viên loniỊă, sau khi ôm hôn đại úy Neculaí, cũng quên bẵng còn mắc nợ chúng tôi một câu chuyện tuyệt vời hơn hết thảy.
HẾT
.