NGƯỜI HÀNH KHẤT MÙ
MỘT ông lão và một bà lão từ phía những chiếc xe chở hàng của vị thương gia đi tới và xuất hiện trong vùng sáng của bếp lửa. Người đàn bà đi trước, người đàn ông theo sát sau, đầu hơi ngẩng, chăm chú nghe tiếng lao xao và tiếng nói cười râm ran của chúng tôi bên bếp lửa.
Nhìn ông lão ấy tôi đoán chắc hẳn ông bị mù. Người đàn bà có vẻ đang dắt ông. Còn ông thì đi theo sát bước chân bà lão, hướng thẳng về phía dậy lên mùi thịt quay và tiếng cười nói.
Bà lão quàng khăn vải trắng, mặc chiếc váy ngắn và cái áo nẹp. Ông lão mù cũng ăn vận theo lối dân miền núi: một cái mũ bé màu đen và bộ áo quần trắng, áo vét lót bông vắt vai cho thấy bên nách có chiếc kèn với phần ống thổi chúc xuống đất...
Khi cảm thấy đã gần bếp lửa, người mù dừng lại, bà lão còn đi thêm vài bước. Anh sáng hắt vào khuôn mặt vô cảm mang chòm râu trắng của ông cụ.
Phần đông các bạn tôi còn chưa để ý đến ông lão. Chỉ người thương gia từ Leipzig đến hiểu việc gì sẽ xảy ra. Ông bắt đầu cười rồi nói:
- Này, mẹ già Salomia, mẹ còn chưa tống khứ được lão già khó chịu kia ư? Tôi thấy rõ ông lão không muốn rời mẹ nửa bước.
- Đúng thế, thưa ông chủ.- Bà lão trả lời, giọng rít lên nhưng không ác ý. - Từ hồi tôi đi RădăuỊi, ông lão cứ bám tôi như hình với bóng để tôi đưa ông ta đi Ia§i. Tại đấy tôi sẽ thoát khỏi lão thôi.
Hướng về phía chúng tôi, bà lão nói tiếp:
- Theo lẽ thường, các ngài đây chắc sẽ đoán ông lão này là anh hoặc chồng tôi. Nhưng từ lâu rồi, tôi đã dứt bỏ những trò yêu đương ngông cuồng của tuổi trẻ và các tình cảm bà con. Tôi chỉ còn bận tâm đến những khốn khổ của bản thân thôi. Các ngài biết đấy, chính tôi cũng phải bám vào các xe chở hàng của ngài thương gia đây để đến được thành phố của các vị quý tộc. Tôi sẽ đến nhà thờ Thánh nữ Paraskeva để đặt lên hòm thánh tích một đồng bạc nhỏ, và kể với Người tất cả những nỗi nhọc nhằn của mình. Còn ông lão khốn khổ luôn theo sát chân tôi này bây giờ lại dám lần mò đến nơi hội họp đáng kính của các ngài, bảo sẽ thổi một điệu gì bằng chiếc kèn của lão. Tôi đã la mắng để lão lấy áo lông trùm đầu và đi nằm nghỉ dưới mấy chiếc xe, nhưng uổng công, lão chẳng chịu nghe cho.
Ông già mỉm cười nhìn ngọn lửa với đôi mắt vô thần.
- Tôi thích ở gần những con người vui vẻ.- Ông cụ khẽ khàng nói. - Tôi cũng thích rượu ngon và gà giò quay, nhưng yêu hơn cả là được nghe những chuyện xưa. Hãy để tôi được đền tội. Chúa đã phán tôi không được nhìn thấy ánh sáng trên cõi đời này, phải ngửa tay xin miếng bánh mì của bà con tín đồ lương thiện. Khi đã là ý Chúa, và Chúa đã lo cho tôi như lo cho những loài sâu bọ trên mặt đất này, vậy tốt hơn hết là tôi nên chấp thuận quy luật của Người hơn là rên rỉ kêu ca.
Vị quan viên loniỊă quay lại phía người mù. Sau khi nhìn ông, vị quan viên liền hỏi không khỏi ngạc nhiên:
-Một kẻ khốn khổ như lão lại thích ăn gà giò quay?
-Thưa người anh em, thích chứ ạ.- Người mù trả lời, giọng dễ mến.
-Và thích cả rượu vang?
- Nhất là loại mới cất, mùi cay xộc lên tận mũi tôi.
-Và còn biết kể chuyện nữa, phải không?
-Tôi biết kể như bất cứ người nào, tại sao tôi lại không biết nhỉ?
- Theo ta, lão chỉ khoác lác thôi. Hãy biết rằng khắp xứ Moldova này, không ai biết kể chuyện như ta và bạn ta - đại úy Neculai Isac đây.
-Về điều đó, tôi không dám nói trái lời ngài, thưa ngài quan viên.
- Lão nghĩ thế là tốt, vì ta sắp kể cho tất cả các bạn đây chuyện hay nhất và kỳ diệu nhất chưa ai từng kể.
- Hãy kể đi, thưa ngài, và tôi sẽ vừa nghe vừa uống rượu mới cất trong chiếc cốc ngài vừa rót đầy, vì cô chủ quán trọ của chúng ta sẽ mang đến cho ngài một chiếc cốc khác để ngài rót đầy rượu mát. Thế đấy, và nhất là không thiếu thức nhắm. Kèm theo rượu, tôi sẽ thích thú nghe câu chuyện ngài kể, sau đó theo ý thích của ngài, tôi sẽ chơi một điệu nhạc bằng chiếc kèn này và hát một bài.
- Lão mù khốn khổ, thế ra lão không chỉ biết uống, biết ăn mà còn biết hát nữa!
- Nhờ lòng khoan dung của Chúa, tôi cũng biết điều đó, thưa ngài, và còn biết nhiều cái khác nữa.
- Thật ư? Chiếc kèn của lão tiếng có tốt không?
- Tốt đấy ạ, thưa ngài, người ta cứ tưởng nó được làm bằng da người.
-Có thể lắm. Thế lão sẽ hát cho ta tại quán trọ AncuỊa này, vào giờ khuya khoắt này, vì ý muốn của ta là thế. Đêm đã khuya, mấy con gà trống đang đập cánh gáy. Có con giọng gáy nghe khàn khàn. Chắc nó sẽ được nằm vào trong món súp rau chua sáng mai.
-Gà trống gáy để xua rắn rết và quỷ sứ lảng vảng quanh đây. - Lão mù nhận xét.
Cuộc trò chuyện của chúng tôi dừng lại một lúc. Chúng tôi im lặng lắng nghe tiếng gà đập cánh gáy. Đầu tiên là tiếng gáy nghe rất gần, ở ngay trong bờ tường quán trọ, sau đó như vẳng dần nơi xa, đến tận bờ bên kia sông Moldova. AncuỊa đặt một chiếc cốc khác vào tay vị quan viên.
-Này người anh em loniỊă, - viên đại úy Isac nói - Cô AncuỊa tặng ông bạn một chiếc cốc mới, còn tặng tôi một nụ cười. Thế là tôi có quyền được thỏa mãn hơn ông bạn.
Cô chủ quán nở nụ cười vui thích.
- Nếu vậy, - vị quan viên nói- lẽ đương nhiên tôi phải chuyển cốc kia cho ông lão mù để ông ta thổi cho tôi nghe một bản nhạc.
- Thưa ngài, tôi xin sẵn lòng.
Chẳng hiểu tại sao bà lão dắt ông cụ mù bỗng tỏ vẻ bực mình khi ông cụ tiến về phía chúng tôi, hai tay giơ ra trước.
-Tại sao cứ phải có những kẻ tàn tật và đói khổ đến làm vẩn đục ngày lễ của những bà con lương thiện?
-Đừng giận, bà chị Salomia ạ, - ông cụ mù quay lại phía bà lão và nói - bởi vì giận dữ là do quý sứ đưa lại đó.
-Tôi chẳng phải chị em gì với ông. - Bà già chống chế, bĩu môi và nhìn chòng chọc vào mặt ông lão.
-Bà không phải là chị tôi, đúng vậy, vì tôi là kẻ đói rách tội nghiệp lang thang trên thế gian này. Thế giới thì đẹp nhưng tôi không nhìn thấy nữa. Thế giới trẻ trung nhưng tôi không còn cảm nhận được nữa. Bà bạn Salomia, hãy nhớ lại thời bà còn cổ đeo chuỗi ngọc, hãy tốt bụng như hồi ấy và đừng giận tôi nữa.
Bà lão lặng im. AncuỊa bật cười.
- Cái gì? Lão cũng biết cả những chuỗi ngọc à? - Vị quan viên loniỊă ngạc nhiên hỏi.
-Vâng, vì lẽ có một thời tôi cũng được biết ánh sáng lộng lẫy của nó. Ngọc, thưa ngài, là thứ quý giá trong con trai sống tận dưới đáy biển. Vào một đêm mùa thu như đêm nay, khi nước lặng, một số con lên tận trên bờ và hé mở dưới ánh trăng. Con nào nhận được một giọt sương liền khép lại và trở về nơi đáy biển. Từ giọt sương ấy viên ngọc được nảy sinh.
- Theo tôi thấy có vẻ lão mù không thiếu đầu óc hóm hỉnh. - Vị thương gia Leipzig vừa nói vừa rung chòm râu trên cốc rượu.
Tất cả chúng tôi đều nhất loạt nhích lại gần bếp lửa. Ông lão mù xoay người một cái, thân hình đang còn lắc lư, ấy thế mà ông lão tợp ngay một ngụm rượu. Mặt ông quay về phía chúng tôi, và mỉm cười từ trong đêm tối triền miên của mình, ông lão đặt chiếc cốc xuống đất, ngồi chồm hỗm bên cạnh, kéo về phía mình miệng chiếc kèn túi. Ông thổi mạnh vào túi da làm nó căng phồng lên, rồi dựng chiếc kèn lên dưới tay trái siết mạnh nó, làm bật lên một âm thanh sắc gọn tưởng như nó vừa bị bóp đau. Sau đó nó bắt đầu kêu vo vo rồi hát một làn điệu cổ.
- Đây là tiếng hát của con cừu con. - Ông lão mù quay lại giải thích và mỉm cười với chúng tôi. - Nếu các ngài thích một điệu khác thì xong điệu này tôi sẽ xin chơi hầu các ngài.
- Chơi đi. - Anh chăn cừu liền nói, giọng chua chát, khó chịu. Còn ngài đại úy Isac thì nhìn anh qua đầu chúng tôi, mỉm cười thích thú.
Người chơi kèn làm phồng căng cái túi da rồi lả lướt vuốt những ngón tay trên các lỗ ống sáo. Từ đó vang lên điệu hát từ thời xa xưa. Ông lão giương cặp mắt về phía các vì sao và buông miệng kèn... Đây là câu chuyện ba người chăn cừu cùng bầy cừu xuống núi. Hai người trong bọn đã có những ý đồ đen tối với người thứ ba trẻ hơn.
Hãy lắng nghe, lắng nghe
Trên núi xa
Tiếng sừng gõ và tiếng lục lạc
Ba người chăn cừu đi đầu
Thổi tù và
Đàn cừu lao nhanh xuống...
Từ chiếc kèn túi lại bật lên tiếng kêu cổ xưa. Nó làm sống dậy trong tôi nhịp đập con tim của những người không còn trên cõi đời. Đây là lần đầu tiên tôi nghe tiếng hát của những người chăn cừu. Tôi lắng nghe bằng tất cả tâm hồn con cừu cái tơ đang than vãn. Bằng ngôn ngữ của con người, nó báo tin chủ mất và âm mưu của hai kẻ kia.
Giết người
Khi ngày tàn
Khi bóng tối đến
Dang những cánh tay dài ngoẵng
Lên núi, lên suối
Lúc những con cừu
Và cả đàn cừu
Đều đang yên ngủ...
Những đoạn khác của bài hát chỉ để lại trong tôi một kỷ niệm mơ hồ. Giữa các đoạn là tiếng rên rỉ của chiếc kèn.
Tôi vẫn còn nghe trong khi chiếc ống gió đã xẹp dưới đất như một con quái vật kiệt sức bên chân ông lão mù. Ông lão đang cắn ngập răng vào một đùi gà giò và nuốt lấy nuốt để. Đôi mắt trắng dã căng ra trong cái hốc đen ngòm dưới vòm chân mày. Ông cũng uống cạn cốc rượu rồi lấy lại vẻ bất động, quay mặt về phía chúng tôi.
Anh chăn cừu ở Rarău thô lỗ và kiệm lời của chúng tôi, và cả vị tu sĩ hành hương đến nhà thờ Thánh Haralambos đều khóc sướt mướt không chút xấu hổ. Thế cho nên tôi có thể không xấu hổ mà gợi lại cảnh tượng ấy khi bản thân tôi cũng chảy nước mắt vì những ảo ảnh kia.
- Thưa ngài, nếu ngài muốn, tôi có thể hát cho ngài nghe những bài hay hơn. - Người hành khất nói.
- Nếu lão biết những bài hay hơn thì sao lại hát bài ấy?- Ngài quan viên loniỆă giận dữ kêu len.
- Đây là lẽ tại sao, thưa những người anh em, thưa các ngài. - Ông lão trả lời. - Từ thời còn bé tôi đã bị mù. Tôi bỏ làng đi lang thang khắp thiên hạ. Một mùa đông nọ, tôi tìm được nơi trú ẩn ở một trại chăn cừu trên bờ sông Prutul. Tôi sống ở chỗ những người chăn cừu lớn tuổi, quanh những đống lửa to không bao giờ tắt. Ở nơi hiu quạnh ấy, bên bếp lửa, các bác chăn cừu đã dạy tôi bài hát kia, nhưng họ bắt tôi phải thề không được quên và bao giờ cũng phải hát nó trước tiên mỗi khi thổi chiếc kèn này, nếu không sẽ bị nguyền rủa.
Sau khi rời những người chăn cừu ấy, hỡi các ngài tốt bụng, hỡi những người anh em thân thiết, mọi người nên biết rằng tôi qua sông Prutul nhờ được một bác già nghèo khổ dắt đi. Ông cụ không đến nỗi mù như tôi nhưng biết cách ăn xin nhờ ê a những bài hát, và biết rõ cách mưu sinh của kẻ mù lòa. Mỗi khi chúng tôi còn lại một mình với nhau, tôi nghe thấy ông cụ cười. Nhưng Đức Chúa trời sẽ tha lỗi cho ông về những mưu mẹo đó, vì ông không hề quên đi lễ nhà thờ và quỳ lạy rất cung kính trước các tượng thánh. Ông lại còn cầu nguyện và làm dấu thánh giá ở rìa làng, khi chuẩn bị đánh cắp một con gà mái hay một con cừu con. Ông cầu nguyện với niềm tin chân thành nên Chúa đã giúp đỡ chúng tôi. Cùng với ông cụ đi chân đất ấy, tôi đã đi xuyên qua đất nước của người Nga. Chẳng ai ngăn cản chúng tôi, dù là người lớn hay người bé, vì ở nước họ, hành khất cũng được xem là những con người do Chúa sinh ra. Chúng tôi đi lang thang tùy thích qua các thị trấn, làng mạc và các phiên chợ lớn. Những con người tốt bụng hào phóng bố thí cho chúng tôi. Những thứ thừa ra chúng tôi có thể đem bán lại cho các tiệm rượu Do Thái hay cho các thợ thuyền nghèo. Nhưng lerofei- đó là tên ông bạn già đi cùng tôi- không bao giờ quên mua một cây nến sáp nhỏ để thắp trước các tượng thánh. Các vị thánh thích được cúng dâng nhưng không biết giá trị của một cây nến và chẳng thể biết chúng tôi có còn đồng tiền nào không. Những đồng tiền chúng tôi cóp nhặt được, lerofei buộc chặt vào thắt lưng. Nhờ chúng, chúng tôi đã sống qua cả một mùa đông.
Trong suốt thời gian này, chúng tôi sống đầy đủ và khá vui tươi trong cái phường hội hành khất mù của mình, trong đó có cả người mù thật và mù giả. Tại đấy tôi đã học được cứ như học ở trường một loạt những bài học mà trước đây không biết: nào là nghệ thuật kêu van xé lòng người cũng như nhiều mánh khóe tinh vi, tế nhị của nghề ăn xin. Nhưng rồi vào một đêm chè chén, lerofei phải bỏ mạng trong một cuộc ấu đả. Tôi liền rời khỏi Kiev và lại lang thang khắp chốn với những người bạn khác, cho đến một lúc đến bờ một con sông lớn, ở đấy tôi nghe mọi người nói tiếng Tatar. Tôi sống khá đầy đủ một thời gian trong một bộ lạc dị giáo. Sau đó, vào một mùa xuân, tôi bỗng nảy ra ý muốn được hít mùi nhựa thông quê hương. Thế là quay lưng lại nhóm người dị giáo, tôi hướng thẳng về xứ Moldavia.
Suốt giai đoạn này, thưa các ngài, thưa những người anh em, chiếc kèn không bao giờ rời tôi và tôi cũng không bao giờ quên lời căn dặn của những người chăn cừu vùng Prutul. Đấy là lý do tại sao tất cả các ngài ở đây đã nghe bài hát kia. Không phải tôi thích nó, mà tôi bắt buộc phải hát bài ấy, không hát không được, và bây giờ, nếu các ngài thích, tôi có thể hát một bài hát khác hay hơn và táo bạo hơn.
Trên đường về quê, tôi hỏi thăm một ngôi làng nằm bên sông Moldova, nhưng không tìm thấy nữa vì lẽ nó đã bị tàn phá. Các vua chúa và quý tộc chuyển làng đến một nơi khác. Bao nhiêu năm trôi qua, tất cả những người bà con ruột thịt của tôi đều đi đâu mất hoặc đã chết. Các trận lụt của sông Moldova đã phá hủy hết mồ mả của họ. Hài cốt của họ giạt vào những bãi sỏi hay bên các gốc liễu. Bấy giờ tôi lại tiếp tục tìm một quán trọ có từ thời xưa khi tôi còn bé, nó đã tồn tại ven quốc lộ. Nhiều người cho tôi biết nó cách không xa một ngôi làng mang tên Negoie§ti. Cái quán ấy ngày nay là quán trọ Ancu|a. Những hành khách đi Ia§i hay Roman thường dừng lại đấy nhiều ngày.
Thế là tôi theo mùi nhựa thông và đi ngang qua quán trọ AncuỊa. Đã bao nhiêu năm trôi qua rồi nhỉ? Tôi không nhớ được. Nhưng đối với tôi đã đến lúc phải đến Ia§i, thành phố của ngai vàng để được quỳ xuống lạy trước thánh tích của Thánh nữ Paraskeva tại nhà thờ Ba Ngôi. Lần này nữa tôi lại nhận ra mình đã dừng chân tại quán trọ AncuỊa. Tôi cảm ơn Thượng đế đã cho tôi tìm thấy ở đấy những lời nói tốt lành và một sự đón tiếp nhân hậu.
Thưa các ngài, thưa những người anh em, khi tôi còn bé tí và mắt còn nhìn thấy ngôi làng mà nay đã biến mất và nghĩa địa bị sóng đánh giạt đi, tôi được nghe một người ông bên ngoại kể lại một chuyện có thật về phép lạ màu nhiệm của Thánh nữ Paraskeva. Nó xảy ra từ thời xa xưa, khi một cụ bà của chúng tôi còn trông coi cái quán này.
Thời ấy có vị quốc vương tên là Duca. Đó là một tay chống đạo đã trị vì xứ Moldavia. Bị giày vò bởi một cơn khát vàng bạc vô hạn độ, ông ta tìm mọi cách bòn rút lũ dân khốn khổ của mình. Từ đó mới có câu: “Cái gì đè nặng lên các mái nhà tranh? Ấy là thuế của quốc vương Duca.”
Lính tráng cưỡi ngựa đi khắp đất nước, gươm giáo lăm lăm trong tay. Chúng bắt súc vật, cướp bộng ong, áo quần, tiền bạc. Ai chống lại, chúng cướp luôn cả tính mạng.
Cảnh cướp bóc của quốc vương diễn ra khắp đất nước. Không ai thoát khỏi tai họa ấy. Dân chúng chạy trốn sang bên kia biên giới. Người trốn đi nhiều đến độ tới mùa thu, chỉ còn một nhóm người nghèo khó đổ về Ia§i kêu khóc trước bàn thờ Thánh nữ. Họ lên án tội ác của vị quốc vương đã tưới đầy nước mắt lên hòm thánh tích.
Nó rung lên sau những lời cầu nguyện. Vào ngày 14 tháng 10, giữa trưa, trước toàn thể dân chúng tập họp, trời bỗng tối sầm, nước cuồn cuộn dâng lên thành một cơn bão tuyết và mưa dông. Ngày hôm sau, tuyết đóng thành từng đụn khiến dân chúng hoảng sợ.
Đêm hôm ấy có một cơn gió thả xuống trước cung điện nhà vua một con quỷ. Quỷ gõ móng vuốt vào cửa sổ, báo cho quốc vương phải rời bỏ mọi của cải thu nhặt được trên trái đất này và chuẩn bị đi một chuyến thật xa không quay về nữa.
“Giờ đã điểm, thưa quốc vương cao quý. Ngài phải thanh toán nợ nần và chịu trách nhiệm về chữ ký của mình.”
Các bạn nên biết để làm nổ ra trên thế gian này một tai họa to lớn như thế thì quốc vương phải thỏa thuận với quỷ Satan, phải ký một khế ước có đóng dấu hẳn hoi.
Nghe tiếng nói của quỷ, quốc vương Duca đang nằm trên chiếc giường nạm bạc liền kinh hãi, lạnh toát người. Ông ta chồm lên như bị ai quất mạnh, gầm lên, ra lệnh cho bọn tôi tớ thắng các cỗ xe sang trọng. Thế là ông ta chạy trốn, cố mang theo các kho của cải. Ông ta đi đến một ngôi làng ở vùng đồng bằng. Tại đây ông gặp một cơn bão, và cả một toán cướp Ba Lan nữa. Chúng bắt được quốc vương và cướp sạch vàng bạc. Quỷ Satan có mặt lúc bấy giờ đã nhe răng cười trao vị quốc vương cho kẻ thù. Chúng tóm cổ và lôi quốc vương đi theo chúng.
Trên đường, quốc vương chỉ gặp toàn những đống tuyết, ông ta bước đi thật khó nhọc, rồi những con ngựa cũng ngã quỵ. Bấy giờ rút trong túi ra ba đồng lu-i vàng còn giữ được trên người, ông ta đặt vào tay một người dân quê khốn khổ để đổi lấy chiếc xe trượt tuyết do một con ngựa cái kéo. Chính trên chiếc xe trượt tuyết tồi tàn ấy, quốc vương Duca đã dừng tại đây, tại quán trọ AncuỊa này. Trên người quốc vương không còn một chút gì từ tất cả những kho của cải trên trần gian này. Ông xin một cốc sữa. Bà lão chủ quán chẳng biết ông ta là ai. Bà than vãn:
“Con ơi, không còn sữa, chẳng còn bò, chả có gì cả, bởi quốc vương Duca đã nuốt chửng tất cả. cầu sao đến lượt hắn, hắn cũng bị nuốt trôi xuống tận đáy sâu lòng đất và bị những loài sâu bọ địa ngục gặm nhấm.”
Quốc vương lặng im, cúi đầu bước lên xe và đi mất. Sau đó, người ta mới biết ông ta là ai. Bọn ác ôn lôi ông ta ra phía biên giới. Nhưng quốc vương không bao giờ đến được đất nước Ba Lan. Ông ta bị lạc con ngựa cái, đi vào những vùng rừng rú mênh mông hoang vắng rồi rơi xuống vực thẳm, thế là ông ta sang bờ bên kia, rơi vào thế giới của sự trừng phạt. Câu chuyện về phép màu nhiệm ấy được truyền từ lớp người già này đến lớp người già khác, cho tới tận ngày nay.
Hỡi những người anh em của tôi, hỡi các ngài có lòng nhân hậu, những chuyện đó đã thuộc về dĩ vãng. Vào giờ này để làm vui lòng các bạn, nếu các bạn thích ra lệnh, tôi có thể hát một bài hát khác...
Đúng lúc đó đã xảy ra một việc mà chúng tôi, những chức sắc nhỏ, thương gia, người chở hàng và những người dân quê không hề chờ đợi.
Vị quan viên vừa kêu lên rằng mình thích nghe hát. Đúng lúc đó, cô AncuỊa trẻ trung bước lại gần ông lão mù, và nắm tay ông. Cô nói:
- Xin ông biết cho rằng cháu đã nghe câu chuyện này từ chính miệng bà mẹ tội nghiệp của cháu. Hãy quay lại cho cháu nhìn xem, phải chăng ông là ông Constandin đã bỏ làng đi lưu lạc khắp nơi khắp chốn?
- Chính là tôi, - ông lão trả lời - tên tôi đúng như vậy.
Và ông mỉm cười trong bóng tối. Những ngón tay ông nhẹ nhàng chạm lên khuôn mặt AncuỊa.
Cô nắm bàn tay đang sờ mặt mình, lật lại và đưa lên hôn. Sau đó cô đặt vào những ngón tay ấy bánh mì và thịt gà quay. Ông lão, với những chiếc răng cứng như sắt, bắt đầu cắn thịt ăn.
Tưởng như ông lão không còn nhớ mình đang ở đâu và chẳng có gì để nói. Chúng tôi nhìn ông thán phục, nhưng người tỏ vẻ thán phục hơn cả là vị quan viên: Ông vừa lắc lư người dưới ánh lửa bập bùng, vừa nhìn chằm chằm không chỉ ông lão tội nghiệp đang đói, mà cả cái túi kèn bằng da trông tựa như con quái vật bẹp gí và chết lặng đang nằm trên đất bên cạnh ông lão.