← Quay lại trang sách

Chương 2

Trời tím dần một cách mau lẹ rồi sau đó, các lớp mây tro tan vào mặt sóng. Không còn gì ngoài một vệt đen thẫm chạy vòng quanh chân mây. Phía trên vành cung đen ấy, trời lục, nhẹ như khói với dăm bảy vì sao tan vụn ra thành bụi, sau đó chúng hợp lại và chuẩn bị cho một lần tan vỡ khác. Anh nhấm nháp từng hột lạc rang cháy. Anh nhấm nháp như thế từ chiều khi nhận chân gác tàu cho anh em lên thành phố.

Túi lạc đã vơi quá nửa, Cường rút cuốn sách trong ngăn kéo dưới giường ngủ. Cuốn sách nhàu nát, sực mùi dầu máy mùi mồ hôi và mùi tanh khó tả của tất thảy những con tàu. Cường lật trang 87 đánh dấu bằng mảnh nhựa mỏng anh vẫn dùng gảy ghi-ta. Chuyện kể về vụ án mà tội nhân là người da đỏ. Y đã từ bỏ xứ xở của mình, đã tìm đủ phương pháp để xóa đi màu da, dấu vết tổ tông, âm sắc của tiếng nói mẹ đẻ để rượt theo kẻ thù từ Châu Mỹ qua Châu Úc, từ Châu Úc qua Châu Âu và cuối cùng hạ thủ y trong một lâu đài đổ nát vùng Scốt-len. Cường đặt cuốn truyện lên gối, đọc tiếp. Đoạn văn miêu tả cảnh tên tội đồ trở lại vùng quê, sau khi đã đạt được mục đích cuộc trả thù:

“...Trăng sáng đến nỗi y thấy lạnh. Trăng là một thứ tuyết đá tan chảy, nhuốm bụi vàng. Y lột giầy, đạp trên cỏ nháp, nghe những ngọn cỏ sắc cọ vào lớp da chân đã mỏng qua nhiều năm quen đi giày. Hồi bé, y đã lăn trong cỏ, chơi đùa như chú ngựa non. Hồi đó, Hét-tơ thường mang cho y những miếng bánh ngô tẩm mật ong ngọt sắc. Hồi đó... thôi dừng thèm nghĩ tới tuổi thơ vì những ý nghĩ ấy chỉ làm cho người đàn ông yếu lòng. Cái chính là phải sống cho tương lai... Tương lai... Y ngước nhìn những ngọn núi chọc vào bầu trời như răng cá sấu. Chưa ở nơi nào, núi có hình dáng ghê rợn như những ngọn núi quê hương. Các thớ đá bóng như sừng mà ánh trăng quét lên lượt nhũ vàng thấm trên các khe núi âm u đâm vào tim con người như lưỡi dao. Còn những con thác nhỏ óng ánh, chảy như reo. Y ngồi phệt xuống cỏ, nhìn mãi. Ngày hôm nay, ở các lữ quán dọc đường bộ hành, những người dân xứ xở này đều chối bỏ y. Họ không chấp nhận gã đàn ông để ria kiểu Anh, mặc bộ đồ như những tay bán thịt ngoại ô Luân-đôn và đi đôi giày giá một trăm năm mươi bảng. Còn y, khi trở lại núi non này, ngồi xuống cỏ, y thấy mình tan hòa vào núi, vào cỏ, vào ánh trăng, vào khí trời xứ xở. Những thành phố trong ký ức rơi lả tả như tàn tro: Nào Săng-chi- a-gô, nào Niu-ước, nào Pa-ri, nào Luân-đôn, Cai-rô, Síp... Tất thảy chỉ là các phòng trọ với khung cửa vuông, bồn rửa mặt hoặc sạch sẽ hoặc nhơ bẩn, tấm chăn dấp và chiếc giường,... Không, y vẫn chỉ là đứa con của xứ xở này. Bởi vì khi y từ bỏ màu da, y phục, tiếng nói của mẹ đẻ, chính là để cho tái cả ân huệ và tai ương của tổ tông sống lâu bền mãi mãi trong huyết quản y, trong tâm hồn sâu kín của y, và trong mối thù độc địa của y... ”

Một tiếng quát thô lỗ vang lên, cắt dứt những dòng chữ:

- Đồ con lợn, mày không tìm được trò gì khác hay sao mà suốt ngày ru rú như con lợn chờ xuất chuồng thế này?

Cường chưa kịp trả lời, Đính đã xô anh vào sát vách. Đính ngồi xuống giường, lột đôi giày và đôi tất ném vào góc phòng. Hai bàn chân anh ta bốc mùi thối. Cường quay đi. Đính đã thấy. Anh ta cười gằn:

- A, chân tao thối lắm phải không?

Cường im lặng không đáp. Nhưng Đính đã túm tóc anh, quay mặt anh lại và nhìn chằm chăm vào mắt anh bằng đôi mắt vằn đỏ tia máu:

- Công tử Cường không chịu được mùi chân thối. Công tử quen hít nước hoa. Thế mà dân đi biển thì chỉ bốc lên mùi tanh và mùi thối.

Hơi thở Đính nồng nặc rượu. Hẳn anh ta đã uống liên miên suốt buổi chiều, cả tàu, không ai uống rượu như Đính. Anh ta có thể nốc hai ba lít rượu trong một ngày. Nếu lượng rượu đó làm người khác đứt mạch máu não thì chỉ khiến Đính đập tan chiếc cối đá, đạp bẹp dí chiếc xoong nhôm dày năm ly rồi sau đó ngủ liền hai ngày không nhúc nhích. Cường ôn tồn nói:

- Anh về phòng ngủ đi.

Đính trừng mắt:

- Mày đuổi tao về, phải không?

Cường lắc đầu:

- Anh mệt rồi. Anh đi ngủ cho dễ chịu.

- Tao không muốn ngủ, tao ngồi đây dễ chịu hơn.

- Vậy thì tùy anh.

Cường đáp, cầm cuốn truyện định đọc tiếp. Nhưng Đính giật cuốn sách trên tay anh:

- Mày không thèm nói chuyện. Mày khinh tao phải không, thằng nhãi?

- Nhưng tôi biết nói chuyện gì với anh bây giờ? Anh say rồi.

- Tao mà say à?... Này, bố bảo cho con biết, ba mươi năm nữa bố cũng chưa say.

- Anh Đính.

Cường gần như van vỉ:

- Tốt nhất là anh nên đi ngủ, cho dịu thần kinh. Anh uống nhiều hơn cả lần trước đấy.

Đính không nghe Cường nói. Mắt anh ta đỏ vằn. Những đường gân xanh tím bằng chiếc đũa nổi lên trên cần cổ vạm vỡ:

- Thằng nhãi... Tôi biết nói chuyện gì với anh bây giờ?...Mày khinh tao. Mày khinh tao từ lâu rồi...đừng hòng che dấu điều đó.

Bàn tay cứng như thép của anh ta bóp chặt cổ Cường lắc như lắc chai rượu:

- Mày là thá gì mà dám khinh tao?... Lẽ ra, tao phải bóp cổ mày như bóp một con nhái mà quảng xuống biển. Cái điệu bộ của mày chỉ đáng làm thằng thợ may suốt ngày kéo thước dây đo đùi đo đít lũ đàn bà. Cái mớ chữ nghĩa trong đầu mày đem mà bán lấy vài đồng xu rỉ. Đối với dân đi biển, mớ chữ nghĩa ấy không đáng là mớ giẻ cọ sàn tàu.

Nước bọt của Đính phun ra bắn vào mặt Cường. Anh không dám đưa lay lau.

Cử chỉ đó sẽ kích động Đính và khiến gã đánh đập anh tàn nhẫn hơn. Con người này, khi đã lên cơn hung bạo, không gì kiềm chê nổi.

Vả lại, tay gã xiết chặt cổ anh như hai gọng kìm. Chàng trai nhắm mắt, anh không dám nhìn lâu bộ mặt đỏ rực của Đính, với hai nhãn cầu lồi lên như mắt cá vàng chạy ngoằn ngoèo những tia máu. Đính thở hào hển, những tràng chửi rủa tuôn xối xả:

- Bao lâu nay, chúng tao đã chịu dựng mày như chịu chở theo tàu một cái xác thối, cả mày, cả những bãi nôn vàng ệnh của mày, bộ mặt tái xanh tái tử của mày... Tất cả đều làm ngứa mắt tao. Biển không cần thứ mèo ốm mặc áo thủy thủ. Biển chỉ cần những thằng đi biển thật như tao. Mày hiểu chưa? Thằng thối thây...loài ăn bám.

Hết tràng chửi rủa, chừng đã hả cơn tức, Đính buông Cường ra. Anh ta nhếch môi cười, bọt sùi trắng xóa. Một dòng nước bọt chảy từ mép Đính xuống cằm. Anh ta đưa tay chùi, đoạn quẹt bàn tay dây đầy nước rãi vào môi Cường. Cường định giơ tay đẩy Đính ra, nhưng kinh nghiệm của những lần trước khiến anh phải buông thõng cánh tay xuống. Chàng trai ngồi im, cố chịu đựng cơn say của Đính, vẻ cam chịu của anh khiến gã dịu đi. Gã nhổ bọt phì phì, tỏ vẻ khinh miệt. Rồi, móc túi lấy một nắm tiền, gã ném vào mặt Cường:

- Cầm lấy, vào phố mua rượu cho tao. Nửa tiếng nữa chưa mang rượu về tao sẽ cho mày nếm bã trầu.

Cường nghĩ: Đây là dịp tốt nhất để mình thoát khỏi hắn. Anh cầm tiền, xách chiếc vỏ chai, lên cầu tầu. Đính co chân đạp gối và cuốn sách của chàng trai xuống sàn, nằm vật ra. Phút đó, gã còn ném theo chàng trai một cái nhìn thù ghét, cay độc. Cường leo qua cầu tàu, xuống bến. Anh đi về phía khu nhà bảo vệ cảng, múc nước trong phuy, rửa mặt.

Ông già gác cảng hỏi vọng ra:

-Ai thế?

- Cháu, Cường đây. Cháu xin ít nước rửa mặt.

- Sao không vào bể trong này, nước ấm hơn.

Tiếng ông già khàn như bị viêm phế quản. Thanh âm vọng trong không gian yên tĩnh. Nước ấm hơn... Cường bỗng trào nước mắt. Anh vốc nước rửa mãi vết nước rãi nhơ nhớp của gã say trên môi, rửa cả những dòng nước mắt nóng hổi tràn xuống hai má... Lúc ấy, trên khoảng xi- măng trống vắng, có một người đàn ông bước tới. Anh ta cao lớn, vóc dáng chắc chắn với những bước đi sải dài, đều đặn. Người đàn ông dừng lại trước khu nhà bảo vệ một lát, chăm chú nhìn và nhận ra Cường. Anh bước tới sau lưng chàng trai:

- Cường.

Chàng trai sực tỉnh, ngẩng đầu lên. Anh nhận ra thợ máy trưởng Bá. Bá ngạc nhiên hỏi:

- Sao cậu xuống đây?

- Anh Đính đang ở trên tàu. Anh ấy bắt em đi mua rượu.

- Lại thằng Đính. Nó có gây sự với cậu không?

- Không.

Cường đáp. Nhưng chính anh và Bá đều hiểu rằng đó là một câu nói dối. Hai người im lặng. Rồi Cường nuốt nước bọt, hạ giọng:

- Chuyện ấy...anh đừng để tâm. Anh ta cũng có lý.

-Lý gì?

- Vì…vì em là kẻ vô dụng. Còn Đính, dù có bao nhiêu thói xấu vẫn là một thủy thủ giỏi. Tầu cần anh ta.

Bá dằn giọng:

- Cậu thật lạ lùng... Tôi không hiểu...

Anh bỏ lên tàu. Bóng anh lướt qua khoảng không màu lục treo lơ lửng giửa trời với cây cầu tàu lắt lẻo. Cường ngồi xuống kè. Đá thấm hơi sương làm ẩm lớp vải quần. Chàng trai khẽ rùng mình vì lạnh. Anh khoanh hai tay, dựng cổ sơ mi lên. Lúc đó, một câu hỏi quen thuộc lại lởn vởn trong tâm trí:

- Tại sao?...

Tại sao gã đàn ông tàn bạo ấy thù hằn anh? Tại sao anh phải cam chịu sự hà hiếp trơ tráo của gã? Tại sao mọi cố gắng hòa dịu của anh và thiện chí của những người xung quanh hoàn toàn vô nghĩa. Càng ngày, mối thù độc địa của Đính với anh càng cay nồng và luôn luôn, trong đôi mắt vằn máu của gã, hiện lên ước muốn điên cuồng và âm hiểm của kẻ sát nhân... Bất giác, chàng trai đưa hai tay ôm đầu. Anh nhớ lại buổi chiều hôm ấy, một chiều hè ấm nóng cách đây đã ngót năm năm. Tàu cũng neo tại bến này. Lúc đó khu nhà bảo vệ chưa xây lại, chỉ là một gian nhỏ lợp ngói xi măng đen sỉn. Hàng đã dỡ xong, chờ ăn hàng mới. Đám thủy thủ tụ họp trên boong vì buổi tối có cuộc tổng kết các chuyến đi trong ba tháng qua. Họ vẫn còn thèm xuống phố chơi, nên ai nấy nhấp nhỏm mong tàu trưởng từ tổng công ty tàu biển trở về. Vài anh sắm sửa đồ đạc, là quần áo. Vài anh ăn mặc tươm tất, đứng hóng gió. Còn tất cả xúm quanh Tuấn hói, danh ca của đám thủy thủ cảng. Tuấn hói ngoại bốn mươi, to béo, bụng bắt đầu phệ, tóc chỉ còn một vành đai bao từ hai tai tới gáy. Anh ta khỏe hơn bất cứ người đàn ông nào cùng lứa tuổi. Trí nhớ tốt, thuộc bài hát, có giọng hát nghiệp dư nhưng cũng khá điêu luyện, sổ tay anh ta có ảnh các ca sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước. Ngoài ảnh của các ca sĩ là ảnh đàn ông khỏa thân. Tuấn hói có cái thú kỳ lạ là sưu tập ảnh đàn ông khỏa thân. Tới thành phố nào anh ta cũng lùng sục, mua bằng được.

Trong va ly quần áo của anh ta có tới sáu cuốn sổ ngoại, hàng tư bản đờ-luých, cực kỳ đắt tiền và đẹp. Sáu cuốn sổ đầy ắp ảnh ca sĩ và đàn ông khỏa thân, vừa màu, vừa đen trắng. Anh ta buôn giỏi và có kha khá tiền vì ngoài thú chơi ảnh và gảy đàn, anh ta không ham mê gì khác. Hình như Tuấn hói đã có vợ con ở nhà quê, quê anh ta ở một làng xa tít mù khơi tỉnh Thanh, nhưng Tuấn mập mờ lảng tránh mỗi bận đụng chạm tới điều đó nên cũng không ai rõ thực hư. Nói chung, Tuấn hói là một người đàn ông dễ chịu, ngoại trừ thói ăn cắp vặt. Anh ta không thể từ bỏ thói quen đó. Cứ trông thấy vật gì đó khả dĩ, dù chiếc bật lửa, chiếc đồng hồ đeo tay, cuốn an- bom xinh xẻo, thậm chí hộp kẹo cao su của ai hớ hênh, Tuấn hói phải lấy cho kỳ được. Anh ta không thiếu nhưng thích lấy của người khác. Thế thôi. Đó là một căn bệnh, và đám thủy thủ, vì cuộc đời lênh đênh sóng nước cần tới sự liên kết giữa các cá nhân và vì đều giàu có coi rẻ đồng tiền, đã bỏ qua thói xấu của chàng danh ca. Vả chăng, Tuấn hói cũng là một tay võ nghệ cao cường. Anh la ít tham gia các cuộc đánh lộn, nhưng những kẻ hiểu biết đoán chắc rằng anh ta là một cao thủ trong làng võ Thiếu Lâm. Chiều đó, Tuấn hói ngồi trên chiếc ghế vải bố, gảy ghi-ta và hát. Giọng mượt, có đôi phần trau chuốt:

Biển hiền hòa muôn cánh buồm xa xa

Lòng ta như muốn hát ngàn câu ca...

Càng yên tĩnh, tiếng hát vang động bầu không gian êm ả, hòa nhập với tiếng nước vỗ dào dạt quanh tàu. Đám thủy thủ lắng nghe, người ru lắc nhè nhẹ trong cơn chao lắc của con tàu và nỗi buồn muôn thủa của kiếp sống trên sóng nước. Lấn trong tiếng ca diệu vợi, là tiếng còi tàu nào đó ngoài khơi, chắc hẳn ở phao số 0 vọng tới. Tiếng còi kéo là là như một giải khói bay trên mặt biển, nhắc nhở tới những chân trời, đại dương xanh hoang vu, những nỗi âu lo và tình yêu cách trở. Các chàng trai trẻ mơ màng mãi khi bài ca đã kết thúc. Tuấn hói bỗng thả cây đàn xuống sàn tàu, vươn vai:

- Cậu nào cho tớ một chai bia lạnh.

- Nhưng anh phải hát nữa cơ...

Một chàng thủy thủ nài:

- Rồi em sẽ đãi anh ba chai bia hẳn hoi. Có cả xúc xích Hà Lan nữa.

Tuấn hói cười:

- Được rồi, nhưng hãy mang bia ra đây trước.

Phía sau, Đính đang ngồi trên đống xích bỗng cất tiếng:

- Hôm nay ông hát hay đấy. Nhưng không phải vì giọng hát mà là vì bài hát. Bài này của thằng cha nhạc sĩ Liên Xô. Chính nó làm bài “Chiều Mát-xcơ-va” nữa đấy.

Tuấn hói nhìn chằm chằm vào mặt Đính. Rồi đôi mắt nhỏ như chuột nhắt của anh ta bỗng tóe lên những tia lửa giễu cợt, nhạo báng.

Anh ta phá lên cười, cười sằng sặc.

Rồi, khi chàng thủy thủ trẻ đưa chai bia ra, Tuấn vừa cầm chai bia vừa gặng hỏi Đính:

- Thế nào, ông nói lại tôi nghe. Nhạc sĩ Liên Xô phải không? Mà lại sáng tác cả bài “Chiều Mát-xcơ-va” nữa chứ?

Mặt Đính đỏ rực lên. Cả cổ và hai bắp tay anh ta cũng đỏ. Các đường gân bắt đầu nổi quanh cổ.

Anh ta trừng mắt:

- Đúng. Chính tai tôi nghe đài Tiếng nói Mát-xcơ-va...

Hai mắt Đính đỏ vằn lên, nhưng trong giọng nói gay cấn đã biểu hiện rõ sự thua cuộc. Anh ta vùng đứng dậy, hoa tay:

- Thằng em tôi làm phiên dịch trên Bộ ngoại giao cũng nghe nhé. Nó bảo thằng cha nhạc sĩ này đã biểu diễn cả một chương trình tại nhà hát Ban-xôi...

Càng nói, Đính càng thua một cách thảm hại. Trong khi đó Tuấn hói đã tu nửa chai bia, nửa chai còn lại cầm trong tay, mắt chăm chú nhìn Đính với ánh mắt của một con mèo nhìn con chuột ngọ nguậy trong nanh vuốt của mình. Đám thủy thủ im lặng. Họ lo ngại trước bầu không khí nhiều độc tố. Tuấn hói vẫn cười cợt, chờ Đính nói xong. Và anh ta hỏi:

- Thế cái Ban-xôi ấy là gì vậy?

- Nhà hát lớn.

Đính hét lên, cảm nhận rõ rệt Tuấn đang chòng ghẹo mình.

Tuấn hói bảo:

- Thế mà tôi không biết đấy. Tôi đã bao giờ đặt chân lên đất Mát-xcơ-va đâu... Còn cái thằng cha nhạc sĩ ấy tên gì hả ông?

- Tên là...tên là...

Tới đấy, Đính tắc họng, mặt anh ta từ màu đỏ chuyển sang tím ngắt. Bỗng dưng, anh ta hét lén:

- Tên là...dài bỏ mẹ đi. Đ...ai mà nhớ được.

Tuấn hói ngọt ngào nói tiếp:

- Thế hả?...Nhưng dù tên dài hay ngắn thì ông ta cũng sinh ra trên đất Ý.

- Sao lại thế được?

Đính tròn mắt hỏi:

- Người Nga chính cống cơ mà?.

Tuấn hói mỉm cười, nói rẽ rọt:

- Bởi vì bản Sê-rê-nát ấy là của một nhạc sĩ khác.

Rồi, quay sang Cường, Tuấn bảo:

- Mày hãy đọc cho ông Đính nghe tên tác giả bản nhạc ấy. Tao đãng trí, quên rồi.

Cường ngần ngại, nhưng rồi cảm thấy không thể im lặng được, anh đáp:

- Nếu em không nhầm, đó là Tô-ri-xen-li.

Tuấn hói, một lần nữa ném vào mặt Đính cái nhìn cao ngạo của kẻ thắng trận, và lại ôm cây ghi-ta lên. Còn Đính, toàn thân tím ngắt như kẻ trúng phong, trừng trừng nhìn Cường. Tuấn hói là một đối thủ khá mạnh, còn thằng nhãi ranh mọt chữ kia chỉ là thứ gà què bất cứ lúc nào hắn cũng có thể vặt trụi lông đuôi lông cánh, Đính khạc nước bọt xuống sàn tàu, dằn giọng:

- Vứt mẹ nó thằng Tô-ri-xen-li của mày cho chó gặm. Đồ mọt chữ...

Đoạn, gã đút tay vào túi quần như một thằng cà lơ mười sáu tuổi, khệnh khạng bước lên cầu tàu... Phải, chính từ chiều hôm ấy, tai họa đã giáng xuống đầu anh. Chàng trai lùa tay vò mái tóc. Anh biết mình không có lỗi, hoàn toàn không có lỗi. Nhưng số phận oan nghiệt xô đẩy anh. Anh phải chấp nhận nó, như người chơi tam cúc phải chấp nhận cỗ bài được chia dù chỉ cọc cạch vài quân tốt với những pháo lẻ và xe thiếu cặp.

Trên tàu, Bá cất tiếng gọi vọng xuống:

- Cường, lên đây.

Cường đứng lên. Anh bỗng thấy đôi vai như còng xuống vì mang vật nặng. Cây cầu tàu treo lơ lửng giữa khoảng trời lục huyền ảo. Nó chênh vênh. Giống như sợi dây treo không bảo hiểm của người làm xiếc. Chàng trai rùng mình, thấy trong bầu không gian bao la sóng, trong cơn say mê mệt của những con tàu nơi vụng nước, trong mùi tanh mặn muôn thuở của biển nỗi hiểm nguy mà anh không dò biết được.

❆❆❆

- Ba ơi, tới nơi rồi.

Bích vỗ nhẹ lên vai lão Ngạn khi chiếc ô tô lượn vào bến. Lão Ngạn choàng mắt hơi choáng váng. Vài giây sau, lão định thần, nhận được khung cảnh bến xe ngoại vi thành phố, người ta thường gọi là bến phụ cách cảng ngót nghét hai chục cây số. Cuối cùng, lão đã chấp nhận gửi nhà cho ông Hai để đi theo Bích, đứa con gái lão không mảy may yêu quý. Tất nhiên, với dụng tâm lão không nói cho ai biết là nhân cơ hội này lão sẽ tới cảng thăm Cường.

- Xuống xe đi ba.

Cô con gái nói. Xe đã đỗ lại hẳn, sau khi tuôn ra làn khói hôi xì làm hành khách nhức dầu. Lão già xuống xe, đưa mắt nhìn khung cảnh cái bến xe đã lâu không tới. Không có gì thay đổi ở nơi đây. Vẫn các quán cơm chạy thành hai dãy ven đường, treo các tấm biển xiên lệch: Cơm bình dân, xin kính mời. Có cơm. Thịt cày bảy món. Những dòng chữ nhố nhăng, không theo kiểu gì, sơn quét sặc sỡ với các hình vẽ minh họa vụng dại như bất kỳ thứ nghệ thuật quảng cáo ba xu nào ở các tỉnh lẻ ven đường.

Phía trước bến xe vẫn còn tấm biển trắng loang lổ hình ngọn lửa, tín hiệu cho trạm bơm xăng ngày xưa. Lão Ngạn thấy hai thái dương nhức, lão tìm chỗ vắng. Cô con gái chạy đi tìm người đàn ông mà cô đã giới thiệu với lão:

“Rồi ba sẽ thích bạn trai của con. Anh ấy tên là Trọng, hiền ơi là hiền”.

Chỉ lát sau, Bích quay lại, dắt theo một người đàn ông vạm vỡ, cao tới gần một thước tám, da đen, tóc đen. Anh ta bận đồ bộ cỏ úa, như nhiều sĩ quan chuyển ngành. Một gương mặt dầu dãi nhưng thành thực:

- Cháu chào bác ạ.

Người đàn ông đưa cả hai tay nắm tay lão, vồn vã chào, và ánh mắt thân thiện của anh tố cáo niềm si mê anh đã giành cho Bích.

- Vâng chào anh.

Lão già đáp, thầm so sánh hình vóc người đàn ông với tên Ân Kiều bán vải, nhân tình của mụ vợ trước: To gần như nhau, da đen gần như nhau, nhưng thằng này hiền hơn... Lòng lão dấy lên mối thương hại. Người đàn ông đỡ chiếc túi quần áo trong tay lão:

- Bác đi đường có mệt không ạ?

- Cảm ơn anh, cũng thường thường.

- Cháu sẽ đưa bác về nhà ngay.

Đoạn, quay sang Bích:

- Đưa ba về nhà rồi anh sẽ quay lại đón em.

Giọng yêu chiều của người chồng tận tụy. Lão già ngồi lên xe, nhắm mắt lại:

- Con quỷ cái, nó cũng ghê gớm như mẹ nó ngày xưa.

Lão không nghe tiếng Trọng nhắc nhở:

- Đường xóc lắm, bác ngồi cho vững nhé...

Non nửa giờ sau, Trọng đã đưa lão Ngạn tới nhà. Đó là một biệt thự nhỏ, nếu có thể gọi như thế, một ngôi nhà hai tầng xinh xắn như tổ chim cu với những khuôn cửa sổ nhỏ sơn màu ghi và cẩm thạch, lắp kinh mờ, với những bồn hoa nhỏ trồng thứ hoa giấy hai màu với những mảng vôi còn thơm nồng mùi nắng. Nơi trú náu thần tiên cho một cặp uyên ương - lão già thầm nghĩ - nhưng khốn thay cho mày, hỡi gã đàn ông khờ khạo kia, nó cũng sẽ là nấm mộ táng. Lão lại nhớ tới căn nhà rộng rênh, sang trọng của mình ngày xưa, giờ chỉ còn là những vụn gạch vùi dưới một cửa hàng bán sơn, vôi ve, kính vụn khả ố trong thành phố. Trọng dìu lão Ngạn ngồi vào sa-lông, pha trà như một chủ nhân hiếu khách rồi mới quay xe đón Bích.

Lão Ngạn ngồi nhấm nháp chén trà đen, thứ trà trồng trên cao nguyên Blao. Từ khuôn cửa sổ phòng khách, một khóm nhài tỏa mùi hương đĩ thõa, lẫn mùi sơn cửa hăng hăng vì chưa kịp khô dầu. Ước chừng non nửa giờ sau, cô con gái trở về thay quần áo rồi nhanh chóng bước ra phòng khách:

- Ba chờ con có lâu không hả ba?

Bích hỏi, không chờ ông bố trả lời đã quay sang bảo người yêu:

- Cho em cốc nước chanh, ít đường thôi nhé.

Lão già khinh khỉnh nhìn cô con gái, không nói gì. Bích ngửa cổ về phía sau, kêu:

- Ôi chao, mệt quá.

Giọng nói nhỏ, lời nọ dính vào tiếng kia, nhưng lại kéo dài sau mỗi âm tiết... Khốn nạn, đến cả giọng nói nó cũng giống mụ ấy. Thế mà mụ ấy đã bỏ nó không thương tiếc chạy theo trai. Còn mình, cho tới lúc già lọm khọm này vẫn chưa thoát nợ.

Trọng đã quay ra với cốc nước quả. Anh ta đặt cốc nước xuống bàn, đoạn đưa mắt âu yếm nhìn Bích. Trái tai anh đỏ hồng lên. Trọng mặc may ô, ngực và cổ nổi cuồn cuộn những thớ thịt màu đồng hun, như được đẽo ra từ loài gỗ tứ thiết. Hai bả vai và cánh tay cũng thế, giống như vai và tay của chàng bốc-xơ chính hiệu. “Mặt mũi vậy, thân xác vậy, kiếm đâu chẳng được một đứa con gái ngon lành. Sao nó lại dính vào quỷ cái này cơ chứ... Nhưng mà, chính mình, chính mình ngày xưa cũng bị con mẹ nó trói bằng cái lưới của bà Nữ Oa. Không sao tính xuể sự mù lòa của kiếp người...” Lão bỗng thấy thương Trọng, lần này không chỉ là sự thương hại mà là mối đồng cảm. Rồi lão sực nhớ tới Nghĩa, chàng rể lão đang ở với đứa con gái sáu tuổi trong thành phố. Nghĩa hơn Bích mười sáu tuổi, gương mặt đẹp nhưng dáng người thanh mảnh yếu ớt. Anh ta mắc chứng đau gan. Năm họ cưới nhau, Nghĩa là phó ty thương nghiệp còn Bích mới tham gia hoạt động không lương ở khối phố. Anh chồng tuyển dụng cô vợ trẻ vào làm nhân viên mậu dịch. Đã mười một năm qua, giờ đây Nghĩa được cử làm trưởng ty, có chân trong thường vụ tỉnh, còn Bích đã là cửa hàng trưởng cửa hàng bách hóa lớn nhất thành phố. Nghĩa là một anh chồng lý tưởng, theo cách đánh giá của mọi người. Ngoại trừ việc săm sắn, lo tạo đủ điều kiện cho vợ leo lên bậc thang danh vọng, anh ta còn chú ý săn sóc vợ con đến từng chi tiết. Từ đôi dép kiểu mới, từ tấm áo ngủ, lọ nước hoa đến mảnh vải trải giường. Anh ta yêu đứa con gái một cách đặc biệt, si mê và thờ phụng. Con bé có cặp mắt nai, khác hẳn mẹ, vẻ đẹp của nó trong trắng. Nghĩa thường nói với mọi người rằng đứa bé rất giống bà nội.

Mẹ Nghĩa chết từ năm anh còn ở chiến khu Việt Bắc. Chắc hẳn, xưa kia anh đã từng yêu mẹ với tình yêu tôn giáo. Khi bà đã xa, tình yêu ấy được ký thác vào đứa nhỏ. Người ta chứng kiến nhiều lần Nghĩa ngồi ngắm đứa bé ngủ đam mê hơn tất cả những họa sĩ nhìn ngắm tác phẩm của mình. Bích uống hết cốc nước, cất tiếng hỏi đột ngột khiến lão giật thót: - Ba đỡ mệt chưa?

Tim lão Ngạn đập thình thình. Thay vì trả lời con gái, lão cau có hỏi:

- Mày đưa tao đến đây làm gì?

- Ba ơi...

Cô con gái nài nỉ:

- Rồi chuyện đâu có đó. Ba đừng làm con mất mặt với người ta. Anh ấy lên đây bây giờ.

Quả thực, Trọng đã bưng mâm cơm lên, tươi cười:

- Mời cả nhà xơi cơm. Hôm nay, bác thử kiểm tra tài nấu ăn của cháu xem sao.

❆❆❆

Cái ngày anh chàng Ngạn tuyên bố thành hôn với cô Ngọc Bảo, con bà buôn ngũ cốc ở Chợ Chính, cả nhà rầu rĩ như có tang. Bà mẹ nhỏ như chim sẻ, nhưng chẳng mấy tinh ranh khóc sưng mắt, một điều rằng sẽ nhảy xuống sông, hai điều rằng sẽ đâm đầu vào đường ray chết nếu con trai dại dột như thế. Các bà cô, bà thím, các ông chú, ông bác từ dưới quê lên, các ông anh làm đốc học, làm thẩm phán từ trong Nam ra, từ mạn ngược xuống đều răn đe, dọa nạt Ngạn. Bà nội anh, tám mươi tư nhưng mắt chưa đeo kính, có giọng nói trong trẻo, im lặng. Một tối, bà gọi Ngạn tới, dỗ sẽ sàng:

- Con ơi, nghĩ lại đi. Trời sinh ra cho con người đủ thứ, có may lại có rủi, có nhân duyên lại có duyên nghiệt. Mày lấy nó, sợi dây oan nghiệt quấn quanh cổ không gỡ được ra.

Ngạn cúi đầu, lắp bắp:

- Thưa bà, cô ấy...

Bà lão nhìn hồi lâu vào đôi mắt bạc nhược của đứa cháu trai, rồi lắc đầu. Bà cụ không nói thêm lời nào nữa. Ngạn lẩn tránh các cuộc gặp gỡ với mọi người thân. Suốt ngày anh lang thang trong thành phố với cô Ngọc Bảo. Da thịt cô ấm nồng, các trò vui, các quán rượu, các màn kịch hay các bộ phim cô đưa anh đi xem đều hấp dẫn hơn mọi lời khuyên nhủ của gia đình. Hai người thường xuyên hú hí với nhau trong ngôi nhà gỗ vá víu của Bảo ở gần kề chợ Chính.

Ở đó, mùi bụi cám, bụi ngô bám vào các bức vách gỗ, vào chăn màn, vào quần áo. Cái bến nhỏ phía sau nhầy nhụa thức ăn thừa và thỉnh thoảng những con chuột ngày to bằng bắp chuối non đủng đỉnh bò trong cống ra ngó nghiêng nhìn mọi vật. Cái nhà tắm che tạm bợ bằng mấy tấm gỗ thùng sữa hiệu Tổ chim. Bảo tắm trong đó hở từng mảng da thịt trắng phốp, chẳng những Ngạn ngồi trong nhà mà cả khách qua đường cũng nhìn rõ mồn một. Bên nhà hàng xóm tiếng những đám người đánh bạc chửi bới, cãi cọ cả ngày lẫn đêm vẳng sang. Đôi khi tiếng rú man rợ của một gã thua bạc hoặc tiếng dao chém, tiếng đấm đá vật lộn kéo đám người bốn xung quanh bu lại, hệt như một đàn kiến cụng râu quanh giọt mật rơi. Không khí nồng mùi xào nấu, mùi cống rãnh, mùi thối rữa của các đống lá rau già, bắp cải thối, ruột lợn, ruột cá... Tất cả, kích thích một tâm hồn nhạy cảm nhưng bạc nhược và thiếu từng trải.

Ban ngày, mẹ Bảo đi chợ. Chiều về, rũ bộ quần áo trắng xóa bụi ngũ cốc, bà bận một bộ đồ lụa, sức thứ nước hoa mua ở quán tạp hóa trong chợ, gài một chiếc trâm có gắn mặt đá giả lên búi tóc. Bà gọi Ngạn:

- Chàng công tử, chẳng mấy khi rồng hạ cố xuống nhà tôm, xin mời nâng với chúng tôi ly rượu đắng.

Trong lúc nói, mắt bà đã khám xét chiếc giường, và ghi nhận dấu vết cuộc mây mưa của cô con gái với chàng công tử con ông thủy sư đô đốc, vẻ đắc thắng. Hai mẹ con bà chuốc rượu cho chàng công tử say khướt, rồi khiêng chàng vào giường. Cứ như thế, ngày nọ nối tiếp ngày kia. Tới một ngày, bà không vực Ngạn vào giường mà khiêng thẳng ra chiếc xích-lô, kéo tới nhà ông thủy sư đô đốc. Bà biết chắc chắn dịp đó, ông chủ từ hải cảng trở về. Tàu của ông, có ba lá cờ đuôi nheo vẫy gió vừa cập bến. Trước sự náo loạn của gia đình, ông thủy sư cất tiếng cười hảo hớn mà rằng:

- Không một ai được khóc, không một ai được bàn tán. Cho cậu Ngạn làm lễ cưới ngay. Nó thích nếm quả đắng cho ăn hẳn mật cá mè. Khi nó tỉnh ra khắc tính lại. Đời thằng con trai cưới năm bảy lượt cũng là lẽ thường...

Đám cưới được cử hành ngay, sau lời tuyên bố của ông thủy sư đô đốc bốn mươi tám giờ. Cô Ngọc Bảo từ giã căn nhà gỗ ngột ngạt bụi cám mặc áo gấm vàng, đội khăn vành dây kiểu hoàng hậu Nam Phương, đi hài gấm lên chiếc Xi-tờ-rô-oen trở về nhà chồng. Ngày hôm sau cô nghiễm nhiên thành bà chủ đại lý thuốc tây Thủy Tiên, và hãng kem sữa gói. Sáng sáng, cô cùng chồng đi ăn điểm tâm bằng xe riêng của nhà rồi trở về đại lý, ngồi sau chiếc bàn bầu dục dài một thước tám, rộng một thước hai, sai phái người ăn kẻ ở. Cô bắt đầu ăn nói nhẹ nhàng thưa dạ, bắt đầu học thói cảnh vẻ của các cô gái trâm anh thế phiệt, đi lại một cách từ tốn và may sắm một tá quần áo mới cho tương xứng với địa vị mới của mình. Lúc đầu, Ngạn thấy ngộ nghĩnh. Sau anh chàng đâm hoảng sợ vì những thay đổi đột ngột của cô con gái bà buôn ngũ cốc. Trước kia, mỗi lần đói, Ngọc Bảo thường làm một chảo cơm rang, hoặc bánh đa thái chỉ, rồi cô đổ tất tật những thứ thức ăn thừa bữa trước vào thành món hẩu lốn, sau đó rút hai cái thìa nhôm ngắn cán, cô chìa cho Ngạn một chiếc, một chiếc cho mình, không ra một hiệu lệnh nào khác ngoài cái hất hàm ra hiệu: Ăn. Cô vục thìa vào chảo, cắm cúi xúc ăn, vừa há miệng hà hơi cho bớt nóng. Giờ, cô bắt chồng ngồi vào bàn rải khăn trắng lên đầu gối, rung chuông chờ chị bếp bưng mâm cơm lên mới thong thả so đũa. Trước, cô thì thầm rót vào tai công tử Ngạn những chuyện ái tình tục tĩu, những chuyện tiếu lâm dọc cầu chợ, máy nước, những chuyện vô luân bại lý mà đám dân kẻ chợ góp nhặt từ khắp các ngả đường, khắp các quán trọ mang về. Và khi chàng thiếu niên đỏ mặt tía tai vì xấu hổ, vì bị kích thích bởi ham muốn của thân xác thì cô dẫn chàng đi vào hang động lạc thú một cạch hờ hững và bí ẩn như thầy phủ thủy làm phép ếm hồn ma. Giờ, bất cứ ai đùa cợt hoặc nhắc tới chuyện lứa đôi, cô cau mày nghiêm mặt bỏ đi tức khắc. Và những quan khách bẽ bàng trước một bà chủ quá đoan chính, không còn cách nào hơn là cắp mũ lễ phép cúi chào... Gia đình Ngạn cũng ngạc nhiên không kém gì anh. Bà mẹ chồng bán tín bán nghi nhiều lần tới tận nơi xem xét. Bà cho là cung phúc đức của họ nội, họ ngoại quá tốt nên đã cải hoán được cô con dâu. Nhân dịp cô sinh cháu gái đầu lòng, bà đã tới tận nơi đặt tên cháu là Ngọc Bích và thửa cho cháu một cặp khánh vàng lẫn chiếc vòng ngọc bích đắt tiền nhất thành phố. Chỉ riêng ông thủy sư đô đốc là không tin phép màu nhiệm đó. Ngồi ngả lưng vào chiếc ghế bành lớn bọc nhung, ông đang cặp chân khỏe như chân ngựa trên tấm thảm Ba-Tư, và cất tiếng cười ha hả:

- Quạ là quạ mà công vẫn là công. Có nhổ hết lớp lông này nó cũng sẽ mọc lớp lông khác. Rồi đấy mà xem... Nhưng thôi, cũng là dịp để thằng bé trưởng thành. Đối với một người đàn ông, không có trường học nào tốt hơn là những kinh nghiệm rút ra từ chính cuộc sống chung với cô vợ của họ...

Bà vợ ông nghe tới đó mặt đỏ như vông vang. Và ông, lại tiếp tục cười ha hả mà rằng:

- Như bà chẳng hạn. Bà đã dạy cho tôi biết rằng người vợ là một thiên thần bé nhỏ...và ngốc nghếch.

Vợ ông im lặng, mặt lại càng đỏ hơn. Ông thủy sư thôi cười, và tiếp:

- Nhưng bà yên tâm, tôi thừa sức cưới cho thằng bé ba lần vợ nữa. Chỉ có điều, tôi sẽ khuyên nhủ nó đôi câu. Nó khờ khạo quá, dễ tin người quá. Một thứ công tử bọc nhung. Cứ thế này, tới lúc nào đó gặp cơn nguy biến, người ta sẽ lột da nó ra. Để lần sau, tôi gọi thằng bé xuống tàu trò chuyện. Chuyến đi này có lẽ cũng đến vài tháng...

Chuyến đi ấy ông không trở về. Ông đã trúng phong chết ngay trên tàu, khi neo chờ ăn hàng mới ở cảng Tu- lông. Ông không kịp khuyên nhủ đứa con trai khờ khạo. Ngạn, đã sang tên cửa hiệu kem Đại Dương lẫn đại lý tân dược Thủy Tiên cho vợ, chiều theo mọi gợi ý cô đưa ra trong hơi ấm của những ái ân.

Đám ma ông thủy sư đô đốc vừa xong, nhang khói nghi ngút trên bàn thờ, sáng hôm sau, ông chủ Ngạn lững thững sang nhà mẹ liền bị vợ gọi giật lại.

- Anh ở nhà.

Ngạn hỏi:

- Sao cơ?

Ngọc Bảo đáp:

- Từ nay anh ở nhà làm kế toán. Tôi cho ông Hạnh thôi việc rồi.

Chàng công tử lắc đầu:

- Thôi, tôi ngại lắm.

Bà chủ cười nhạt, giọng lạnh tanh:

- Chơi quen rồi. Nhưng thời buổi làm ăn khó khăn muốn giữ được đại lý phải bớt đi một xuất lương. Đám ma ông cụ tốn kém thế, mình cũng phải góp một phần, anh không biết hay sao?

Ngạn cáu:

- Từ xưa tôi đã ghét tính toán. Tôi không làm sổ sách bao giờ.

Ngọc Bảo đáp:

- Xưa chưa làm, nay phải làm. Từ giờ trở đi, không còn ông bố nào nữa để chìa tay xin tiền đâu.

Ngạn đáp:

- Còn hai cửa hiệu đấy. Chúng mình vẫn sống cơ mà.

Bà chủ nói:

- Cả hai cửa hiệu đều là của tôi. Tên tôi ghi trên môn bài.

Công tử Ngạn đứng chưng hửng giữa khoảng trống trong phòng khách giữa những Sa-lông bọc gấm sang trọng, những tủ kính sáng choang và những chùm đèn lồng giả óng ánh.

Chàng chưa tin nổi những điều vừa nghe. Đầu óc mung lung, chàng đặt ra mọi hồ nghi, mọi giả định. Vợ chàng, đứng phía sau tấm bình phong, nhìn chàng lạnh lùng, dằn từng tiếng:

- Ở nhà làm sổ. Không làm, không có gì mà hốc đâu.

Sau ba năm, ngôn ngữ thật lại xuất hiện trên khuôn miệng đầy ứ của cô. Ngạn lạnh toát sống lưng. Đấy là lời nói thật sự của cô Ngọc Bảo. Và cô Ngọc Bảo sẽ làm đúng những điều cô nói. Tay chân rụng rời, anh ngồi phịch xuống ghế, ôm mặt khóc.

Quá vãng trở về, như cuốn phim quay chậm, lần giở từng trang ký ức. Lão Ngạn thẫn thờ buông tay. Chén rượu đổ nghiêng xuống mặt bàn khiến mùi rượu thơm sực lên, tỏa đầy gian phòng.

Ngoài trời vẫn mưa sầm sập. Mưa này, lão không thể vào thành phố tìm Cường. Ngồi đây, chỉ nhớ lại toàn những chuyện cay đắng. Bởi lẽ con gái lão giống mẹ nó quá, giống đến rùng mình. Sáng nay trước khi đi làm, nó từ buồng ngủ bước ra trong bộ quần áo lụa mỏng như cánh chuồn chuồn. Lão nhìn rõ những ngấn thịt bụng hằn thành từng tầng dưới lớp lụa ấy. Ngày xưa, mụ Ngọc Bảo cũng có những tầng thịt bụng như thế. Khi bỏ quần áo ra, mụ trắng như lợn cạo. Trắng khiến lão sởn gai ốc. Tại sao mụ lại trắng thế khi mà bộ mặt dài và nục nạc luôn luôn ửng đỏ như hoa mào gà?... Vì tầng thịt bụng của đứa con gái mà lão nhớ lại cái dĩ vãng buồn của lão. Và hình ảnh mụ Ngọc Bảo lại lởn vởn trong tâm trí không sao xua được. Lão tìm chai rượu, rót chén nữa. Từ phòng trong, Trọng bước ra. Sáng nay, anh chàng hì hục trang trí căn buồng hạnh phúc, sau khi cọ rửa bóng loáng các khuôn cửa sổ. Trọng đặt các chậu hoa cảnh nhỏ xíu lên đó. Rồi anh lồng kính vào khung, treo các tấm ảnh chụp thẳng chụp nghiêng của cô Ngọc Bích, xoay ngang xoay dọc, ngắm nghía chán chê mới đặt lên nóc chiếc tủ ly lót gương ở góc phòng. Giờ, chừng công việc đã xong, anh rửa tay bước ra ngoài:

- Mưa lâu quá bác nhỉ.

Lão Ngạn đưa mắt nhìn bộ mặt hớn hở như bắt được vàng của Trọng khẽ gật đầu. Rồi lão rót một chén rượu khác:

- Anh ngồi xuống đây, uống với tôi một chén.

- Cháu xin bác.

- Anh vẫn chờ việc phải không?

- Vâng.

- Con Bích nó bảo sao?

- Bích bảo rằng đầu tháng sau mới có quyết định chính thức. Bởi vì ông trưởng phòng tổ chức đi họp ngoài trung ương, cuối tháng mới về.

- Đàn ông, hay hớm gì theo đuổi cái nghề buôn bán lời lãi. Trước, anh làm ở đâu?

- Trước, cháu làm trên nhà máy thủy điện An Hoa.

- Ở chỗ đó khó sống lắm à?

- Không. Trên ấy công việc thuận lợi, và anh em đối với cháu rất chân tình. Quá nửa số cán bộ kỹ thuật, công nhân nhà máy là bộ đội phục viên và chuyển ngành. Chúng cháu dễ hòa hợp với nhau.

- Trên đó không có đàn bà hay sao?

- Có chứ ạ.

Trọng đáp lời, sửng sốt trước câu hỏi hiểm hóc, và xấu hổ. Mặt anh đỏ rần lên.

Hớp một ngụm hết chén rượu, đặt chén xuống, anh phân bua:

- Với Bích, hoàn toàn là chuyện khác. Một người phụ nữ nhiều năng lực, khao khát sống nhưng gặp toàn cảnh éo le, trắc trở. Cháu thương Bích...Chúng cháu yêu nhau. Tuổi thơ của cháu, cũng như Bích, đói khổ và bơ vơ. Mẹ cháu cũng qua đời năm cháu lên ba. Bà dì ghẻ thì...

Lão Ngạn nhìn chằm chằm vào hàng ria mép của Trọng:

- Khoan đã, nó nói với anh là dì ghẻ rất ác nghiệt?

Trọng lúng túng, anh lảng tránh ánh mắt lão già:

- Cháu không muốn làm bác buồn phiền... Nhưng sự thực là... Nhân gian đã có câu: Mấy đời bánh đúc có xương...

Lão Ngạn tiếp:

- Nó có nói với anh là bà vợ sau của tôi đuổi nó khỏi nhà? Và vì thế nó phải kiếm sống từ năm mười bốn tuổi?...

Trọng nài nỉ:

- Thôi, bác ạ, chuyện đã qua hãy để nó qua... Vì bác hỏi nên cháu mới lỡ miệng nhắc tới dĩ vãng. Nhưng chẳng ai sống bằng dĩ vãng. Chúng cháu bây giờ có tất cả những gì chúng cháu ước muốn. Cuộc đời ở trong tay, quá khứ chỉ là một cuốn sổ lưu niệm thỉnh thoảng lật lại xem chơi.

Lão Ngạn gật gù, môi nhếch lên cười. Một nụ cười lạ lùng, chẳng ra vui sướng, chẳng ra mai mỉa. Trọng tưởng những lời lẽ văn hoa của mình đã trấn an được lão, anh rút lui vào phòng trong. Còn lão, lão nhớ tới những năm tháng khác...

... Năm một ngàn chín trăm bốn mươi tám, lão Ngạn bỏ chiến khu kháng Pháp trở lại vùng tề. Cùng về với lão là đốc-tờ Hải. Hải cũng ngoại bốn mươi, béo trắng, vợ thanh mảnh như cây sậy nhưng đã có tới bốn thằng con trai. Trước kia, cặp vợ chồng này cũng ở thành phố, cách đại lý Thủy Tiên vài chục căn nhà. Sau thời gian tiêu thổ kháng chiến, tất cả bọn họ bị cuốn vào dòng thác cách mạng, bồng bế dắt díu nhau ra chiến khu. Nhưng cuộc sống khó khăn ở những dãy phố rừng không dung nạp được đám dân đô thị đã quen sung sướng. Qua một cái Tết đạm bạc nữa trong những dãy nhà nứa lá, nghe tin vùng tề đã lập lại yên ổn, họ lục đục kéo nhau trở về. Tới thị trấn ven sông Cam, cả hai bị mắc nghẽn vì loạt đạn bên kia những dãy đồi đan tiêu đỏ rực. Quân du kích đang đánh nhau với Pháp ở đó. Lão Ngạn lẫn đốc-tờ Hải không đủ can đảm vượt qua vùng tranh chấp về thành phố cảng. Họ dừng lại, sinh cơ lập nghiệp tại thị trấn Cam. Cùng mức gia sản, cùng cảnh ngộ, hai người thân thiết nhau mau lẹ. Chiều chiều, chị vợ gày gò của đốc-tờ Hải lúi húi tráng bánh cuốn hoặc đổ bánh ca-ra-men mời bố con lão Ngạn sang ăn. Ban đêm, họ chụm đầu trên bàn mạt chược. Các buổi sáng lão Ngạn pha cà-phê mời đốc-tờ Hải sang uống với thứ bánh quế bỏ lò giòn tan mà lão rất nghiện, cửa hàng tạp hóa của lão Ngạn cũng như phòng mạch của đốc-tờ Hải khá thịnh vượng. Thị trấn Cam không phải nơi buôn bán phát đạt gì nhưng dân cư trú trong các phố và các làng lân cận đều cần tới kim chỉ băng phiến, sách bút học trò cùng trăm thứ nhu yếu phẩm lặt vặt khác. Lão Ngạn có đủ mối lấy hàng, vả lại, lão còn tích trữ được một số hàng đắt tiền từ trước thời kháng chiến. Dân chúng cũng cần tới đơn thuốc trị bệnh, thương hàn, cảm cúm, viêm phế quản, lao xương, lao phổi, các bệnh xã hội và bệnh da liễu. Đơn thuốc của đốc-tờ Hải hiệu nghiệm hơn đơn thuốc của các thầy thuốc ăn lương làm công trong nhà thương. Nghiễm nhiên, hai người trở thành những kẻ có máu mặt trong thị trấn. Mùa hè, sau bữa cơm họ thường sóng vai đủng đỉnh đi dạo vài vòng quanh phố, trước ánh mắt thèm muốn của đám người xung quanh. Dạo ấy, Bích lên tám nhưng phổng phao như con nhà khác mười một, mười hai. Con bé dạn dĩ, quyến luyến ông hàng xóm vui tính. Ông đặt cho nó biệt hiệu Mi Mi.

- Thơm chú đi nào, Mi Mi. Trông cháu còn đẹp hơn cả con Tây đấy. Anh Ngạn, bà vợ anh ngày xưa tốt da tốt thịt lắm phải không?...

Ngạn ừ hữ không đáp. Bích cười tít mắt, leo lên đầu gối ông chú đốc-tờ. Năm sau, nhờ mối lái, lão Ngạn cưới vợ kế, một người đàn bà yếu ớt, xinh đẹp nhưng rầu rĩ. Cô ta sống trong mấy gian phòng của lão như cái bóng, lướt từ phòng này qua phòng kia không một tiếng động, mắt lúc nào cũng ngơ ngác như nhìn vào cõi vĩnh hằng. Thỉnh thoảng, cô lại cúi mặt vào tường hoặc ngăn tủ tạp hóa giấu giếm những giọt nước mắt. Cô sợ Ngạn, mặc dù lão yêu chiều. Cô sợ cả đứa con gái táo tợn của lão. Không bao giờ cô dám đối mặt hoặc gọi tên nó. Mười lăm tháng sau, cô cho Lão một đứa bé trai nặng ba cân mốt và chết luôn khi chưa kịp rời bàn đẻ. Gánh nặng nuôi dưỡng đặt trên vai lão Ngạn. Lão thuê vú em, nhưng suốt ngày vẫn bận bịu với đứa con trai quý. Ngoại trừ những giờ buôn bán, coi sóc cửa hàng, lão ngồi bên nôi thằng bé, ngắm nghía, ve vuốt, mơ tưởng tới tương lai của nó, hát những câu hát không mạch lạc. Trong suốt khoảng thời gian ấy, Bích lớn lên như thổi. Càng ngày, con bé càng gần gũi thân thiết với ông chú láng giềng hơn. Năm năm trôi qua, lúc ông bố còn mê mải chăm sóc cậu con trai, cô con gái đã thành một thiếu nữ dậy thì. Dân thị trấn bắt đầu thầm lén đưa ánh mắt dõi theo Bích, khi nó bá vai bá cổ đốc-tờ Hải đi qua phố. Hai người dạo quanh khuôn viên hoặc đi lên đồi cây đan tiêu hóng gió. Đứa con gái mười ba tuổi phốp pháp như các cô gái mười bảy khác. Hai má đỏ như cà chua, cổ trắng nõn nà. Bích thường mặc váy, lần nào nó đi ra phố, những gã đàn ông dâm đãng cũng núp sau cánh cửa nhìn theo bứt rứt. Những người đàn bà lắc đâu ái ngại. Con bé nửa thơ ngây, nửa ý nhị như một thiếu phụ từng trải. Mọi cử chỉ của nó giống cánh cửa nửa khép nửa mở, hứa hẹn và gợi nỗi tò mò. Lũ đàn ông vô sỉ ghen tị với đốc-tờ Hải ra mặt. Y thường khoác vai hoặc dắt tay con bé đi dọc phố, vừa đi vừa to tiếng trò chuyện như một ông chú thật sự, một kẻ có chủ quyền bảo vệ cái sinh lực phập phồng, hàm chứa nhiều bí ẩn kia...

Tới một chiều oi nồng, dân thị trấn đổ ra sông tắm. Họ chợt nghe tiếng kêu điên dại của thằng khùng vang lên trong cánh rừng nhỏ bên kia sông. Xen vào đó là tiếng vụt của cành khô, tiếng cây gẫy, tiếng nói ú ớ không rõ nghĩa. Đám người tắm sông cụm lại xì xào. Kẻ cam đoan thằng khùng lên cơn tự cào cổ hoặc đập đầu vào thân cây tự vẫn. Người đoán nó bị gã lưu manh nào đó cướp số tiền bán kem nên chống lại quyết liệt. Sau rốt, một người đàn ông đứng tuổi, để ria mép kiểu sĩ quan Nhật lên tiếng:

- Chẳng lẽ cả lũ đàn ông đứng đây mà sợ một thằng khùng?... Bơi sang đi.

Nói xong, ông ta nhảy ùm xuống nước. Như căn bệnh hay lây, lòng quả cảm kích thích đám đông. Người nọ nối người kia bơi sang bờ bên kia, cả thanh thiếu niên lẫn các vị trung niên và các ông già. Họ vào rừng, nơi tiếng la man rợ của thằng khùng mỗi lúc mỗi rõ. Chừng trăm thước sau, họ tới một đám cỏ lọt giữa rừng cây. Đốc-tờ Hải trần truồng như nhộng đang cầm cành cây quật thằng khùng. Thằng này, bận bộ áo quần rách tướp cũng cầm một khúc cành to hơn bắp tay, chống trả hăng hái. Vừa đánh, nó vừa rú lên những tiếng kêu ú ớ, rối loạn, bọt sùi dây hai mép. Cách đó mười lăm mét, sau bụi gai quả đỏ, Bích ngồi thu hình như con mèo nhúng nước, hai tay kẹp giữa đùi, trần truồng hệt như ông chú. Sau cùng, đám người thị trấn thấy trên ngọn cây dâu da rừng, cao tới tám mét, mớ áo quần của đốc-tờ Hải và con bé Bích. Chiếc sơ-mi trắng chấm nâu, chiếc quần Ga-ba-đin trắng, chiếc quần lót kẻ ô của ông đốc-tờ. Tấm váy dài màu thanh thiên lẫn chiếc quần lụa lót trong của cô cháu gái. Tất cả mắc giữa đám cành cây và đều bị xé tơi tả.

Chuyện thế này: Thằng khùng bán kem đã đem lòng say mê con bé Bích từ hơn một năm nay. Nó mười tám tuổi, con một mụ đàn bà dở điên dở dại chuyên nghề xay bột thuê. Từ năm lên bảy, thằng bé đã tự bán kem nuôi thân. Nó không được học, cũng không đủ trí khôn nhớ mặt chữ. Nhưng nó không lẫn một hào tiền lời bán kem. Vốn liếng cất trong chiếc túi mề gà dắt bụng, nó sống lang thang. Thi thoảng, nó về ngủ nhà với mẹ. Mùa hè, nó ngủ trên ghế đá công viên, thùng kem buộc ngang bắp chân. Mùa đông, nó rúc vào bếp tiệm hủ tiếu của chú khách, ở đó vừa được ăn các tô hủ tiếu thừa vừa được hưởng hơi than ấm áp. Trí óc nửa sáng nửa tối của nó không hoàn hảo như những đứa bé khác, nhưng tấm thân niên thiếu vẫn lớn theo thời gian. Trong huyết mạch nó, đốm lửa tình dục nảy nở theo thông lệ. Vào một sớm hè rạo rực, thăng khùng chợt thấy cặp đùi nần nẫn của con bé Bích hiện dưới lần váy xanh làm nó tê dại chân tay. Nó sững sờ, há miệng như bị câm hẳn. Bích cầm que kem, thấy thằng khùng nhìn chòng chọc vào đùi liền đưa mắt lườm, ném tiền vào nắp thùng kem rồi bỏ đi. Lũ trẻ trong phố bắt gặp cảnh đó, hò reo chế nhạo. Chúng đặt vè ghép đôi thằng khùng với Bích, tất nhiên là sau lưng con bé. Chúng làm đủ động tác tục tĩu đùa cợt. Gã thiếu niên cùng khốn sướng rơn. Ngày nào nó cũng ôm thùng kem lượn qua cửa hiệu tạp hóa của lão Ngạn, nhìn trộm đứa con gái. Những câu chòng ghẹo của lũ trẻ tựa những viên sỏi rơi vào khoảng trống âm u trong óc đứa con trai bất thành nhân, lấp đầy dần bằng những hy vọng của kẻ đang yêu. Ngày một ngày hai, ý tưởng mập mờ phôi thai về tình ái được tô đậm dần trong cái đầu nửa tỉnh nửa mê của nó.

Chiều ấy, thằng khùng đi tắm. Tắm xong, nó chợt nảy ý định hái quả gai chua ngọt, thứ quả trời cho vừa lành dạ vừa dễ kiếm nó đã quen thuộc từ thuở nhỏ. Khi luồn sâu vào các bụi gai, nó chợt thấy đứa con gái nó hằng tơ tưởng đang cùng một gã đàn ông to béo làm cái công việc của gà trống với gà mái. Cái phần tinh khôn có được cộng với nỗi đau đớn âm u trong bản năng loài giống khiến thằng khùng hiểu được nỗi mất mát của mình. Nó đờ đẫn nhìn. Rồi nó hét lên, vồ xé đống quần áo của hai người ném cạnh đó.

Đốc-tờ Hải trong cơn hoan lạc chợt tỉnh vì tiếng hét của thằng khùng. Nó vẫn xé vải roàn roạt, hệt như con khỉ xé vỏ chuối mà kẻ tinh nghịch dấu bọc mắm tôm bên trong, vừa xé vừa rít lên những tiếng oán hận. Đốc-tờ Hải đứng lên, chưa kịp xô tới thằng khùng đã tung mớ vải lên ngọn cây. Đốc tờ Hải vơ vội một đoạn cành cây, vụt mạnh vào vai thằng khùng. Ngọn đòn xé rách vai nó, máu bắn tóe ra. Cơn đau nhục thể khiến thằng khùng trở nên điên dại. Nó xông tới gã đàn ông, cắn ngập hai hàm răng vào cổ gã. Đốc-tờ Hải giáng cho nó ngọn đòn thứ hai rồi đá bật nó ra. Trời xui đất khiến, thằng khùng vớ được ngay một khúc cành cây có mắt gỗ cứng. Thế là, có vũ khí trong tay, nó lao vào cuộc chiến...

Khó khăn lắm, dân thị trấn mới kìm giữ được thằng con trai cùng khốn. Họ giúp gã đốc-tờ khều đống áo quần trên ngọn cây xuống rồi bỏ đi. Từng người một bơi trở lại bờ bên kia. Gã đốc-tờ mặc quần áo, ngồi trong rừng cho tới lúc trời tối mịt mới dám đưa con bé trở về.

Sau câu chuyện nhục nhã ấy hai hôm, Hải biến khỏi thị trấn. Vài tuần sau, chị vợ với lũ con biến theo. Nghe đâu gã trở về thành phố, bán ít tư trang trong số của hồi môn của vợ, xin vào làm trong nhà thương tỉnh. Cũng từ ngày ấy, Bích xấu hổ không dám tới trường. Nửa năm sau, nó biến mất, đem theo sợi dây chuyền mặt kim cương tháo ở cổ đứa em trai cùng bố khác mẹ. Lão Ngạn không đi tìm, không nhắn nhe dò hỏi bất kỳ ai. Ba tháng sau ngày con bé trốn đi, một người bà con đem hàng từ thành phố lên thị trấn Cam báo cho lão biết rằng đốc-tờ Hải đã thuê một căn phòng nhỏ gần rạp hát Tân Hưng cho con bé ở. Bích bán ô-mai, các loại kẹo, các thứ lạc ngọt lạc mặn và hạt bí cho đám người đi xem hát. Đêm đêm, nó là vợ lẽ lão đốc-tờ.

-Ông có nhắn gì cháu không?

Người bà con hỏi lão, sau khi kể chuyện.

- Không nhắn. Cũng đừng ai nhắc nhở tới nó với tôi.

Lão đáp, và quay đi...

Từ đó tới nay, năm tháng qua. Bao nhiêu biến đổi. Nhưng lão khó quên được các biến cố, các đổi thay. Lúc nào lão cũng sửng sốt ngơ ngẩn... Giờ, lại là chuyện Bích bị xua đuổi khỏi nhà. Tấn kịch dì ghẻ con chồng từ xửa từ xưa. Mà cái gã đàn ông khờ khạo kia lại vì thế mà đem lòng thương yêu nó... Trời hỡi trời, nhưng lão thề một ngày nào đó, lão sẽ đem bộ mặt con yêu quái phơi dưới nắng ngày, cho dù trong huyết mạch nó có một phần dòng máu lão. Cho dù nó vẫn mang dòng họ Phạm như một thứ thẻ căn cước, một thứ giấy chứng chỉ không đổi thay...