Chương 3
Hai người xuống cầu tàu, đi dọc theo kè đá, vẫn còn giọng hát của ca sĩ Tuấn hói vọng theo: Em ơi, vì sao trời xanh mãi?...và tình yêu không mòn mỏi, tháng năm qua...
Trưởng máy Bá bật cười:
- Cái thằng suốt đời mê lũ đàn ông khỏa thân lại hát bài kêu gọi tình yêu...
Cường tủm tỉm cười, không đáp.
Hai người ra khỏi bến cảng, đi dọc theo bờ biển. Họ sục chân vào cát, dưới bóng bờ dương. Dương xanh ngắt, đan nối nhau như đường riềm của bờ bể. Đôi chỗ, người ta trồng tỉa chúng thành hình những con thú, xen lẫn các luống cát trồng hoa tứ quý, cúc đỏ, cúc tím và cỏ kim để tạo ra một thứ khuôn viên sơ sài. Dưới các gốc dương có đặt ghế đá. Lũ trẻ vô gia cư và dám khách bộ hành lỡ độ đường túi không đủ tiền trọ thường ngủ ở đó.
Bá hỏi:
- Cậu có hay ra đây buổi tối không?
- Không. Cường đáp. - Em không ham. Tìm được một cuốn truyện mới đọc vẫn thú hơn đi lang thang.
Bá nói:
- Tối ở đây nhung nhúc bóng. Công an đuổi đầu này họ chạy ra đầu kia. Giống như chơi trò ú tim vậy.
Cường dè dặt hỏi:
- Anh mà cũng thích ra đây sao?
Bá đáp:
- Không. Nhưng tôi tò mò. Tôi muốn chính mình chứng nghiệm mọi vẻ mặt của đời sống. Trước đây, tôi cũng ham đọc. Sau, tôi thấy sống cần thiết hơn. Cái đám nhà văn ấy mà, họ hay lừa dối chúng ta. Họ thích thi vị hóa cuộc đời, thích rắc rối, phức tạp hóa những điều đơn giản, thích lu loa, che giấu những nỗi đớn đau thiết cốt của con người, cái khu vực họ không dám và không có quyền xử lý.
Tới đó, hai người im lặng. Họ tiếp tục đi song song những bước dài nhưng không vội vã. Mặt trời lặn sau các dãy núi phía Tây, biển nhòa đi xóa bóng những cánh buồm, những cặp tình nhân ngồi bên bờ cát, những cánh chim âu. Đèn thành phố bật sáng trong những tiếng chuông thánh thót của nhà thờ Tin Lành vọng tới. Hai người chợt nghe tiếng cười sau lưng:
- Các anh đi chơi sớm nhẻ?
Họ quay lại. Trong ánh tà dương, một nụ cười nham nhở hiện trên gương mặt úa héo phô những chiếc răng dài, cao đã ăn đen hết chân. Hai gò má cao chi chít vết nhăn trát phấn. Món tóc uốn loăn xoăn kéo xuống trán che phủ phần sọ hói trơ lớp da. Mấy bông hoa lan cài bên tai người đàn bà tỏa mùi hương dập nát. Thấy Bá và Cường im lặng, chị ta lại nói tiếp:
- Các anh trên tàu xuống?
Bá hỏi:
- Tại sao chị biết chúng tôi ở trên tàu?
- Biết chớ.
Người đàn bà ngoẹo đầu rinh rích cười. Dân phố biển sao không biết các chàng thủy thủ..
"Nhổ neo ra khơi, tàu anh sẽ nhổ neo ra khơi..."
Chị ta lấy hơi, hát cho hết một câu. Những sợi gân to bằng chiếc đũa nổi trên cổ. Hai người im lặng, nhìn người đàn bà đang cố gắng làm duyên một cách thê thảm, nhìn bộ áo quần nhàu nát, nhìn hai bàn chân dơ dáy xỏ trong đôi dép nhựa xanh lè... Chừng như hiểu cái nhìn đó, người đàn bà hát xong ngẩng đầu nói:
- Tôi hả?... Không đâu. Thứ tôi chỉ dành cho ba lão xích-lô già vô gia cư, năm vài lần vớ được món khách sộp, rửng mỡ lên muốn nếm mùi đời. Nhưng tôi biết lối đưa các chàng thủy thủ đến những nơi thú vui đáo để.
Chị ta cười, những nếp nhăn xô vào hai đuôi mắt. Rồi chị ta rút trong túi áo một sập ảnh, xòe ra như xòe cỗ tam cúc. Mỗi quân bài là một cô gái, cô chụp thẳng cô quay nghiêng, cô ngửa cổ lên, cô cúi đầu xuống. Các gương mặt và các kiểu tóc. Những làn môi tô son đậm với nụ cười treo trên đó như một thứ mặt nạ hổ phù phô bày không thương tiếc vẻ trụy lạc của nỗ lực tồn sinh. Nhìn các tấm ảnh ấy, người ta thấy đám phụ nữ ở đây như một bày rắn nước, cố ngoi lên thở trong mảnh đầm bị phủ váng dầu.
Người đàn bà nghênh mặt nhìn họ:
- Khá chứ hả? Toàn gái thành phố chính hiệu đấy. Mấy ả bò lạc không lọt được vào đây. Chúng nó ở ngoài ga...
Chưa nói hết câu, chị ta bỗng cụp vội cỗ bài độc đáo thu trước bụng rồi lủi vào bụi dương. Cường đưa mắt nhìn ra quãng đường phía trước, thấy một công an trẻ thong thả qua bờ cây cọ cảnh, lên hè. Điếu thuốc lập lòe trên môi, anh ta vào quán bán đồ lưu niệm và giải khát ngay kề đó. Người đàn bà sau gốc dương bước ra, mắt nhớn nhác liếc quanh rồi thở phào:
- Hú vía.
Bá hỏi:
- Chị có bị bắt lần nào không?
- Có...
Người đàn bà gật đầu:
- Trước đã có lần tôi phải tập trung vào trại cải tạo. Bây giờ, các trại chật chỗ, họ chỉ nhốt chúng tôi trong đồn vài ngày rồi thả ra. Nhưng bị tóm ngày nào khốn đốn ngày ấy. Mình thì sao cũng được, nhưng lũ trẻ nó có chịu nhịn đói cho đâu?...
Loáng qua đôi mắt đục của chị, nỗi lo lắng, niềm trìu mến, cả bóng dáng của cái lũ trẻ thân thương kia. Một tích tắc sau, đôi mắt trở lại tinh ranh, trơ tráo:
- Thế nào, các anh định chấm đứa nào tôi liệu.
Đoạn, đưa mắt lục soát kỹ càng từng người một, chị ta hạ giọng:
- Trông bộ kén lắm. Có đủ đạn không, tôi bán tem cho.
Cường hỏi:
- Tem là cái gì?
Bá vội đập tay anh, rồi hỏi:
- Tem loại nào?
Người đàn bà đáp:
- Không chê vào đâu được.
Bá khẽ cười:
- Tin vào đầu lưỡi của các bà...
Chị ta quắc mắt:
- Xem ngay.
Và sau một lát, buông từng tiếng nặng nề:
- Nó là cháu tôi. Cả nhà sống dở chết dở, vừa từ khu kinh tế mới về.
Mắt chị cúp xuống, không nhìn vào mặt họ. Bá nói:
- Thôi được. Giá bao nhiêu?
- Hai ngàn.
Người đàn bà đáp, vẫn không ngẩng lên.
- Đấy là của cô ta hay cả phần chị?
- Tôi chỉ kiếm hoa hồng của người ngoài, còn nó... Thôi đi đi...
Chị ta quay ngoắt, bước đi đột ngột. Bá ra hiệu cho Cường theo anh. Họ qua lối cát, ẩn dưới các tán dương. Ánh sao mờ trộn ánh đèn đường khúc đậm khúc nhợt. Thi thoảng, lại gặp một cặp đứng dưới gốc dương, thì thầm, hổn hển. Những đôi trai gái yêu nhau thường ngồi lui dưới kia, sát với mép sóng, ngắm những làn bọt trắng tắm ánh sao, những con tàu sáng rực nổi lênh đênh trên biển đêm như thành phố thần thoại, bàn chuyện tương lai. Đại dương vẫn dạt dào, tiếng sóng che lấp cả những câu ân ái lẫn những tiếng hổn hển tục tằn và cùng khốn. Người đàn bà đưa họ xuyên qua bãi dương, tới khoảng bờ cát, nơi trơ trụi một cây dương già, cành vươn bờm xờm như mái tóc không được cắt tỉa. Chị ta cất tiếng:
- An ơi. Cháu vẫn ở đây chứ?
Sau gốc dương, bóng một cô gái bước ra, câm lặng. Người đàn bà bảo họ:
- Đây rồi.
Cường bất giác đưa tay nắm vai Bá. Chàng trai thấy tim đập rộn một nỗi sợ vu vơ lẫn sự khắc khoải tràn ngập tâm hồn. Hai người bước lên vài bước.
Người đàn bà nói:
- Hai anh ấy bằng lòng trả hai ngàn. Xong rồi đấy. Giờ, dì đưa cháu đưa khách tới cửa hàng. Đã thỏa thuận hết với mụ Liên. Cô gái vẫn câm lặng như cái bóng cúi đầu lùi lũi đi trước.
Người đàn bà cười gượng, phân bua.
- Tính nết con bé thật là... Hai anh thông cảm.
Đoạn, rảo bước để theo kịp cô gái, chị gọi giật giọng:
- An, từ từ đã...
Nắm vạt áo cô, chị hạ giọng nài nỉ:
- Hãy chào hỏi, làm quen với hai anh ấy đi nào.
Cô gái dừng lại, quay đầu nhìn họ. Hai người sững sờ. Đó là một gương mặt trẻ thơ. Cô ta chỉ mười lăm mười sáu tuổi. Lớp lông tơ phủ trên hai má mượt như lông trái đào. Cái nhìn ném vào mặt họ không phải lời chào. Đó là cái nhìn căm ghét, hờn oán.
Bá cất tiếng:
- Khoan đã, cho tôi hỏi.
Người đàn bà quay mặt lại:
- Có chuyện gì hả anh?
Bá nói:
- Chị đưa chúng tôi đi đâu?
Người đàn bà đáp với vẻ ngạc nhiên:
- Tới nhà hàng? Anh định đi đâu?... Hay xuống tàu?...
Bá lắc đầu:
- Không. Chúng tôi muốn xem nhà cô bé.
- Không, không... Không được đến nhà tôi...
Cô gái đột ngột cất tiếng kêu. Đoạn, dứt tiếng kêu tấm tức ấy, cô ngồi thụp xuống cát, khóc nức nở. Người đàn bà đứng ngây. Chị bối rối nhìn hai chàng thủy thủ, lắp bắp:
- Tôi không ngờ...tôi không...
Bá nói:
- Chúng tôi không tới nhà cô ta để mua chữ trinh. Chúng tôi không động tới cô ấy... Nhưng chị yên tâm, chúng tôi sẽ trả tiền...
Người đàn bà cau mày, ngờ vực nhìn Bá. Chị dứt khoát từ chối:
- Không. Chúng tôi không quen các anh. Chúng tôi không liên quan tới những người lạ.
Đoạn, chị ta gọi giật giọng:
- An, đứng lên. Về thôi...
Rồi chị dìu cô gái đi:
- Thôi, rủi lại hóa may... Biết đâu tối nay thằng Hưng lại đem gạo về?... Nín đi cháu... Nín đi...
Bá giữ tay Cường đứng lại, chờ cho họ đi xa. Anh bảo:
- Ngay lòng tốt bây giờ cũng trở nên khó tin. Người ta sẽ ngỡ mình có âm mưu xấu xa nào đó, còn khủng khiếp hơn cái việc bỏ tiền mua cô con gái kia... Hoặc mình là một thứ mẹ mìn, hoặc là công an trá hình, dò xét. Cậu thấy chưa?
Ngừng lại một lát, Bá nói tiếp:
- Nhưng sao tôi thấy nhói trong ruột. Cái cô bé này giống hệt con bé em út của tôi. Cũng trạc tuổi ấy, gương mặt ấy, cả cái vẻ bướng bỉnh ấy... Có lẽ gia đình cô ta gặp một hoàn cảnh gay cấn, không thoát được... Cường này, cậu có muốn vào phố không? Nếu không, ta đi tới nhà cô ấy để xem sao. Cũng là dịp để cậu bớt đi một chút cái chất sách vở và thêm hiểu phần đời.
Cường đáp:
- Tùy anh.
Nói thế, có nghĩa như một lời tòng phục. Chàng trai không dứt được cảm giác khắc khoải từ khi ánh mắt oán hờn của cô gái lóe lên như tia lửa thiêu đốt anh.
Bá nói:
- Đi đi.
Hai người đàn bà đã khuất sau lùm dương bên trái bãi cát, cách họ chừng hơn trăm thước. Bá và Cường hối hả đuổi theo. Tới bãi dương ven thành phố, người đàn bà lẩn vào trong đó, còn cô gái tiếp tục men theo bờ biển, đi ngược lên phía Bắc.
Chẳng mấy chốc, họ đã đuổi gần kịp. Bây giờ, cô ta chỉ đi trước họ chừng năm chục thước. Nhưng cô không quay đầu lại. Vả chăng, nhiều du khách thường lững thững đi dọc mép sóng rong chơi, nên cô chẳng thể nghi ngờ hai chàng thủy thủ bám gót mình.
Cái bóng nhỏ của cô phiêu diêu bên mặt biển mênh mông. Trong khoảng nước tối, thi thoảng ánh lân tinh của loài mực ma lóe lên tia lửa xanh non yếu, chập chờn. Cô gái đi hết bờ cát, tới bãi đá. Có những đám dây rau muống biển bò từ dưới chân núi đá ra tận mép nước. Bãi đá dài ước chừng năm trăm thước. Tận cùng là mỏm núi từ giải núi phía trong nhô ra như mũi một con tàu. Nhiều dòng nước róc rách chảy qua lớp đá vụn và sỏi dưới mỏm núi. Cô gái đi khá nhanh, chẳng máy chốc đã lấp sau mỏm núi.
Bá bảo Cường:
- Rảo bước lên.
Họ cố đuổi kịp cô. Lúc này, không còn mặt biển trống vắng mà là những nếp nhà tranh, những mái lều thấp lụp xụp của ngư dân xen lẫn các bụi cây, bụi mía. Đèn dầu hỏa hoặc cây tọa đăng thắp sáng phía sau các bức vách, thùng gỗ, hoặc tôn gỉ. Bóng người đi lại, làm lay động các vầng sáng. Thoắt cái, đã thấy mất hút cô gái. Hai người rạch bụi mía, vượt qua khoảng sân cát của một ngôi lều khiến con chó trong lều chạy vụt ra, sủa ầm ĩ.
- Đừng quay lại, nó đuổi đấy. Bá bảo Cường. Họ qua mấy cái chum chượp mắm bốc mùi nồng nặc. Nghe rõ một bà già càu nhàu phía sau:
- Đồ ôn vật. Cứ tối đến là chạy quáng lên như chó đực... Vá, thôi vào nhà...
Cường chợt đứng lại, kéo tay Bá. Anh thấy cô gái, gần như ngay trước mặt mình. Cô cách anh chừng ba bốn bước chân. Cường kéo Bá giật lùi, núp sau bụi mía lau gần đó. Họ thấy cô dừng lại trước một căn lều được dựng sơ sài bởi hai chiếc thuyền mục úp vào nhau, hai cây trụ chính bằng tre. Phía trên, những tấm bìa các-tông lớn xen lẫn những tấm cốt ép và ni-lông lợp dày cộm. Chỗ mảnh ván thuyền mục ải được khoét thành cửa ra vào, treo tấm chiếu buồm thay cho cánh cửa. Cô gái nép mình bên mảnh chiếu nát nhìn vào. Phía trong, ánh đèn hoa kỳ soi lờ mờ những đồ vật cũ nát. Một chiếc bàn thờ nhỏ bằng gỗ, gãy chân, kê chồng gạch tạm. Vài chiếc ghế đẩu xiêu vẹo đặt phía dưới. Chiếc ấm sứt vòi với dăm chiếc chén đủ loại gom góp bày trong đĩa nhôm. Bên trái, kê chiếc giường rẻ quạt, trên vắt đầy quần áo. Một người nằm trùm chăn mặt quay vào trong. Lát sau một phụ nữ trạc ngoại tứ tuần mặc bồ đồ thẫm màu từ phía đuôi thuyền khuất lấp bóng tối đi ra. Tới giường, bà ta cúi hỏi người bệnh:
- Anh cố ăn nửa bát cháo loãng nhé?
Không có tiếng trả lời. Người đàn bà buông tiếng thở dài, vén manh chiếu, bước ra.
- Mẹ ơi..
Cô gái cất tiếng gọi, rồi chạy tới:
- Mẹ ơi... Cô nói - Con đã không...con không đem được tiền về...
Cô ôm mẹ, gục đầu vào ngực bà. Người đàn bà khẽ vuốt tóc con, mắt thẫn thờ. Cô gái bắt đằu khóc, tấm tức rung đôi vai mảnh dẻ:
- Mẹ tha tội cho con... Mẹ tha cho...
Mẹ cô vẫn không ngừng vuốt tóc con, và thì thầm như để riêng mình nghe:
- Cha con sốt cao quá, không ăn được gì... Nhà cũng không còn bơ gạo nào hết.
Cô gái ngước mắt nhìn mẹ, gương mặt đầm đìa:
- Anh Hưng con vẫn chưa về?
Mẹ cô không nhìn cô, hạ giọng:
- Mẹ không dám cho cha biết. Anh Hưng con bị tai nạn trên đèo Lau từ thứ Bảy tuần trước, cả xe không sót người nào.
Bà móc túi, lấy mảnh giấy gập tư đưa cho con. An ghé mắt vào khe cửa, lật bật mở tờ giấy. Cô đọc dòng chữ ghi trên đó, đọc đi đọc lại mấy lần rồi kêu rú lên:
- Mẹ ơi...
Cô ngã vào lòng mẹ. Hai người ôm nhau khóc. Nhưng ngay lúc tiếng khóc của cô gái vỡ òa, bà mẹ đã hốt hoảng bụm miệng con:
- Khẽ chứ, An ơi... Cha con biết bây giờ...
Trong lều, nổ ra một tràng ho. Người ốm gọi:
- Hạnh ơi, cô Hạnh đâu rồi...
Mẹ An buông cô con gái, hối hả:
- Em đây...
Bà tới bên chồng, quỳ xuống để giấu gương mặt đẫm lệ:
- Bố nó đã tỉnh chưa?
Người chồng không đáp, chống tay nhìn quanh:
- Con đâu?
Bà vợ đáp:
- Con nó vào trong xóm. Em sai nó đi mua dầu.
Người chồng bảo:
- Ba hôm nay còn đồng xu nào mà mua dầu? Cô đừng nói dối quanh.
Người vợ đáp:
- Sao anh lại nghĩ thế. Em vừa vay được mấy chục sáng nay. Em vay dì Lan...
Người ốm bỗng đập tay xuống giường.
- Tôi cấm cô, tôi cấm cô gặp mặt con điếm ấy...đem trả tiền nó ngay. Dù tôi chết, dù cô chết, dù có phải cho thằng Hưng đi ăn cướp cũng không thể bán con bé đi... Tôi không...
Tới đó, ông ta lại bật ho rũ rượi một tràng dài. Mái tóc mềm rũ xuống, và đôi vai nhọn nhô lên dưới tấm vải chăn. Dứt cơn ho, người bệnh đưa tay lau mép, rồi ngẩng đầu lên nói:
- Gọi con bé về đây cho tôi... An đâu?... Con An đâu?...
Ông ta lại nấc lên, toàn thân lảo đảo. Bên ngoài cô gái bịt chặt miệng, cố nén tiếng khóc khỏi bật khỏi môi. Tiếng người cha vẫn vọng ra, mỗi lúc mỗi thúc hối:
- Gọi nó về đây... Tôi sẽ đâm chết nó trước khi tôi chết...
Người đàn bà nức nở:
- Em lạy anh... Chưa có chuyện gì với con bé hết. Chưa có chuyện gì xảy ra. Tin em đi.
Người chồng lắc đầu:
- Không. Trước đây tôi tin cô. Tôi tin cô cả đời. Nhưng lần này tôi không tin cô được... Cô muốn cứu sống tôi bằng cái cách khả ố ấy?... Thế là cô giết tôi hai lần. Hai mươi năm sống mà cô không hiểu được tính tôi.
Ông ta đưa tay lên lau mắt. Hình như ông ta khóc, và giọng nói của ông ta chùng xuống:
- Tin nhau cả đời để trước khi nhắm mắt không tin nhau nữa. Thương nhau cả đời để trước khi chết oán hận nhau. Cô làm cái điều ngu xuẩn ấy làm gì?...
Giờ thì ông ta khóc thật, ông khóc ồ ồ, giơ bàn tay xương xẩu che mặt. Người vợ vẫn nửa ngồi nửa quỳ dưới chân giường thút thít khóc theo. Một khoảng thời gian câm lặng trôi qua. Người ốm gọi:
- An ơi...con gái tôi.
Tiếng gọi ấy che giấu một biển sâu thương yêu, xa xót. Những ngón tay gày gò của người cha rung lên từng cơn, từng cơn. Chòm râu loăn xoăn không được cạo rửa dưới cằm ông ta óng ánh vì những giọt nước mắt rơi xuống.
- An ơi...
Cô gái vụt nức lên, chạy đâm sầm về phía hai chàng thủy thủ. Cô băng qua bụi mía, qua mảnh sân nhà láng giềng rồi biến vào bóng dêm. Bên trong lều, giọng người cha vẫn rung lên, như những nốt ngân của một sợi dây đàn sắp đứt.
- Tôi sinh nó ra cõi đời này làm gì? Khốn khổ thân con. Thật ngu xuẩn cho cái kiếp sống này. Có đủ hai bàn tay, hai con mắt mà không kiếm đủ miếng cơm độ nhật. Đẻ con ra mà không thể chở che... An ơi, cha có tội với con...
Người đàn bà ngẩng lên, níu tay chồng:
- Tin em đi...em xin mình. Chưa có chuyện gì xảy ra cho con đâu...
Dường như người chồng không nghe những lời nói ấy. Ông ta vẫn khóc lặng lẽ, toàn thân run rẩy, đắm mình trong cơn đau. Đột nhiên, ông ta ngẩng phắt lên, đôi mắt long lanh sáng quắc:
- Cút đi... Đừng để tôi nhìn thấy mặt nữa... Đồ độc ác, cô đã hại tôi...
Sau tiếng hét, ông ta vung cánh tay lên, toàn thân chồm về phía trước trong tư thế chuẩn bị giáng cho người đàn bà một cái tát trời giáng. Người đàn bà không né tránh, không van xin, không giơ tay che đỡ. Bà ta vẫn nửa quỳ nửa ngồi trước giường bệnh, ngước mắt nhìn chồng. Và chắc hẳn, bà ta vẫn khóc vì đôi vai run lên, và những tiếng thút thít đã chuyển thành cơn nức nở. Đôi mắt sáng lóe của người chồng mờ dần đi, làn môi ông ta đang bặm lại trong cơn tức giận từ từ giãn ra. Cánh tay người đàn ông rơi chầm chậm. Nửa chừng, ông ta lấy can đảm giơ nó lên lần nữa, lần này nó lại mềm rũ ra, như không còn xương cốt và rơi thõng xuống. Hai chàng thủy thủ lặng lẽ chứng kiến cảnh tượng ấy. Tới đó, Bá bảo Cường:
- Lúc này, ta xuất hiện là hợp lý nhất.
Cường ngần ngừ:
- Đừng, ông ta hổ thẹn.
Bá gạt đi:
- Không. Người đàn ông cư xử như thế là người đầy lòng phục thiện. Điểm này tôi nhiều kinh nghiệm hơn là cậu. Vào đi...
Họ tới trước tấm chiếu buồm che cửa lều, hắng giọng hỏi:
- Có ai trong nhà không đấy?
Cả hai người im bặt. Không nghe cả đến hơi thở của họ. Rồi lát sau, người đàn bà hốt hoảng đáp lời:
- Ai gọi chúng tôi đấy ạ?
Bá nói:
- Chúng tôi, thủy thủ dưới tàu An Khánh. Không làm phiền gì tới ông bà đâu.
Vợ chồng chủ lều khe khẽ nói gì đó với nhau, rồi người đàn bà bước ra, vén manh chiếu:
- Mời hai ông vào.
Bà ta vặn to ngọn đèn hoa kỳ không bóng. Lửa cháy cao lên, tuôn làn khói đen xì. Mùi muội dầu tỏa khắp gian lều hôi khét. Bá và Cường chào người chồng, lúc này đã ngồi thẳng lên, trùm chăn kín vai. Ông ta đưa mắt nhìn họ với vẻ ác cảm không che giấu. Phía sau vẻ ác cảm ấy, còn là tia lửa của sự liều lĩnh, báo hiệu những hành động điên rồ có thể xảy ra đối với một kẻ đã hết hoàn toàn hy vọng vào cuộc đời. Người vợ mời họ ngồi bằng hai chiếc ghế đẩu vững nhất trong đám ghế xiêu vẹo đặt dưới chân bàn thờ. Bá nói:
- Xin lỗi ông bà, nếu sự xuất hiện của chúng tôi làm ông bà phiền lòng.
Mắt mgười đàn ông dịu đi đôi chút nhưng mối ngờ vực vẫn còn nguyên. Vợ ông ta rót nước ra hai chiếc chén, mời họ. Nước trắng, không có chè. Chén sứ mỗi chiếc mỗi kiểu nhưng được đánh trắng bóng. Ngay cả chiếc đĩa nhôm cũ cũng sáng nhoáng lên. Bàn thờ long vẹo cả chân, mộng hở ra, nhưng những hình khắc chạm cầu kỳ còn giữ nguyên vẻ tuyệt mỹ. Trên bàn cố đôi chân nến cũng bằng gỗ khắc, thứ gỗ đen bóng như sừng trâu chuốt dầu, chạm con hạc xòe hai cánh nâng mặt trời, chiếc cổ dài mềm mại vươn lên cao, mỏ há ra hớp gió. Đồ vật nơi đây khiến ta đau lòng vì vẻ đẹp bị dãi dầu, tàn phá, và cả vì sự gắng gỏi đến cùng của những bàn tay giữ gìn...
Bá đưa mắt liếc qua căn lều, anh ngẫm nghĩ đôi chút rồi cất tiếng:
- Chúng tôi không phải bọn người say vào nhà dân sục tìm mua rượu nặng. Cũng không tới xóm nghèo này tìm các cô gái... Anh dừng lại, lưỡng lự không biết nên hay không nên thuật lại cái cảnh trên bờ biển vừa rồi. Hai vợ chồng chủ lều vẫn hau háu nhìn anh, chờ đợi. Họ ước chừng mới ngót nghét tuổi năm mươi. Người chồng cao gầy, khuôn mặt dài, mũi thẳng và râu rậm. Người vợ thấp nhỏ, mặt tròn, mũi hơi hếch, đôi mắt đen đuôi rất dài như nét mực vẽ. Họ đúng là một cặp vợ chồng lý tưởng, vẻ đẹp của họ tương phản và bổ sung cho nhau. Chắc hẳn, ở tuổi hoa niên, họ đã từng cố một thời gian sung sướng. Bá quyết định nói lại sự thật. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt trong cơn sốt, rực như hòn than của người chồng, nói:
- Trước đây một tiếng rưỡi đồng hồ, chúng tôi đi dạo dọc bãi bể trong thành phố. Ở đoạn Rừng Dương, gặp người đàn bà dẫn mối. Chị ta bảo có một cô gái còn trinh, muốn bán thân với giá hai ngàn...
Người chồng mím môi, hai bàn tay ông bất giác cũng nắm lại và ông ta phải cố gắng lắm để tự cưỡng chế mình. Bá thấy chiếc cằm đầy râu của ông ta giật liên hồi. Lúc đó, người đàn bà cúi đầu xuống. Không thấy gương mặt bà ta, vì khuất lấp trong bóng tối. Bá vội nói:
- Xin bảo đảm với ông bà là chưa có chuyện rủi ro nào xảy ra... Cô con gái ông bà vẫn còn nguyên vẹn... Ông bà hãy bình tĩnh, tôi kể trình tự câu chuyện. Hai chúng tôi không ham gái, nhưng mà tò mò nên đã gặp cô bé An, lúc đó đứng chờ sau gốc dương... Cô bé quá trẻ. Chắc chắn, trong gia đình ông bà, cô ta là một đứa con ngoan...
Người đàn bà chợt nức lên. Ông chồng ngồi im, gương mặt tê dại. Mắt ông ta vẫn nhìn chằm chặp vào mắt anh. Bá nói tiếp:
- Người dẫn mối đưa chúng tôi và cô gái tới nơi nào đó gọi là nhà hàng mụ Liên. Dọc đường, tôi bảo chị ta dừng lại, đòi đưa chúng tôi tới nhà cô gái. Nhưng cô ta cương quyết chối từ, đoạn khóc òa lên... Cuộc mua bán như vậy là đổ vỡ. Nhưng chúng tôi đã theo cô gái tới đây...như ông bà đã biết...cả người chồng lẫn người vợ đều im lặng. Bá cũng ngừng lời. Xóm mạc yên ắng theo. Chỉ còn tiếng sóng làm đầy không gian bởi những cồn cào. Ngọn đèn dầu hỏa nổ lách tách trong hơi gió lùa, sợi khói đen uốn ngoằn ngoèo theo... Lát sau, Bá hạ giọng tiếp:
- Vô tình, chúng tôi biết được tình cảnh ông bà. Vài hôm nữa chúng tôi xuống tàu, không bao giờ quay về thành phố này nữa. Vì thế, ông bà sẽ không bao giờ phải gặp mặt chúng tôi. Sự giúp đỡ của chúng tôi với ông bà hoàn toàn không kèm theo một điều kiện nào hết. Ông bà hãy nhận cho, trước hết để sinh sống trong vài tháng khó khăn. Và để tránh cho cô bé nỗi đau khổ.
Bá rút trong túi ra một xếp bạc, đặt trên bàn thờ, dưới chân con hạc gỗ. Hẳn anh không muốn họ nhìn rõ xấp bạc, nó quá lớn, nó là cả một gia tài đối với cảnh túng quẫn của họ. Vợ chồng chủ lều ngồi đờ ra như tượng gỗ. Ánh mắt của họ vừa như hoảng loạn, vừa như hồ nghi. Bá quay sang bảo Cường:
- Ta về đi.
Đoạn, anh đứng lên:
- Chúng tôi phải về cảng, xuống tàu. Xin chào ông bà. Chúc ông bà mọi sự tốt lành. Và chúc cho cô An hạnh phúc...
Cường đứng lên theo anh. Họ xoay lưng định vén tấm chiếu buồm bước ra sân. Tới lúc đó, người đàn ông mới choàng tỉnh. Ông ta hớt hải gọi:
- Hai ông... Hai anh... Xin mời quay lại đã...
Các chàng trai vẫn đứng giữa khuôn cửa nham nhở của căn lều, ngoái đầu lại nhìn chủ nhân. Ông ta tung tấm chăn, run rẩy quơ chân tìm đôi guốc gỗ dưới đất:
- Xin chờ cho...chờ tôi một chút... Tôi muốn gửi biếu hai anh một vật này...
Người vợ vội chạy lại, tìm đôi guốc đặt sẵn dưới chân chồng. Rồi bà ta choàng tấm chăn lên vai ông ta.
Người đàn ông lách vào sau lưng bàn thờ, cúi xuống mở chiếc hòm nào đó đặt trong bóng tối, lục lọi một cách hối hả. Chừng dăm phút sau, ông ta ngẩng lên, thở hồng hộc. Rồi ông ta đặt lên bàn thờ một cục giẻ lớn, buộc chằng chịt những sợi dây cước, thứ cước dân chài dùng dệt lưới trù. Dưới đôi tay trắng xanh, nổi chằng chịt những đường tĩnh mạch của người đàn ông, từng lớp vải rách được gỡ ra, hết lớp này tới lớp khác. Trong cùng, một mảnh lụa trắng đã hoen ố. Lớp lụa được giật lên, tức khắc hai chàng trai cùng nhào tới bàn thờ. Trước mắt họ là một pho tượng gỗ chạm tinh xảo. Một người đàn bà, thân thể mềm mại, tươi mát, những đường cong êm ái tạc nên một vẻ đẹp sung mãn đang rót bình rượu xuống hồ. Những con sóng say ngả nghiêng dưới dòng rượu tuôn chảy. Gương mặt tuyệt mỹ của người đàn bà tựa như bông lan cách diệu, tựa như niềm hạnh phúc và nỗi đau khổ cùng hiển hiện trong một thời khắc, nơi chân trời ngưỡng vọng, lừa mị thế gian...
Bá cất tiếng kêu:
- Đẹp quá.
Người đàn ông nói, giọng khản đục:
- Đã thất lạc hết cả. Chỉ còn được vài pho. Cái này, tôi thích hơn cả.
Bá hỏi, bỗng dưng giọng gay gắt:
- Sao bác không làm?
Người đàn ông nhìn anh:
- Ai cho làm?... Họ lùa tất cả chúng tôi lên vùng khai hoang, bảo cái nghề này không phục vụ gì cho sản xuất, không có lợi cho cách mạng... Trên đó chúng tôi trồng sắn, nhưng không đủ ăn. Gạo không có. Trước, còn bán cho năm cân mỗi tháng, sau rút xuống ba. Rồi chẳng còn. Vợ tôi sốt rét, mấy đứa con trai chết đuối dưới suối... Tan nát cả cơ nghiệp. Cha mẹ tôi đã trót sinh ra tôi với cái nghề này. Chúng tôi hèn lắm, không kiếm nổi miếng ăn bằng nghề nông... Ông ta đặt pho tượng vào tay anh:
- Xin tặng hai anh, gọi là một chút, để đa tạ tấm lòng nhân ái...
Bá xiết chặt bàn tay ông ta, hạ giọng:
- Thôi, chào ông...cảm ơn ông...
Nói rồi, anh hấp tấp bước khỏi căn lều. Cường đi theo. Họ lạc hồi lâu trong xóm chài mới tìm thấy lối ra. Hai người không ai nói với ai lời nào, men theo bờ nước mà đi. Lát sau, họ thấy ánh đèn thành phố.