← Quay lại trang sách

Chương 7

Ngày Bích hẹn Trọng chờ cô ở quán Lan Hương, cô đã không tới. Anh chờ cô đúng mười hai giờ trưa, bỏ vào phố, đi lòng vòng chán rồi quay về bãi dương, ngồi tới tận tối sẫm. Mệt mỏi, người đàn ông vác cả xe đạp lên một chiếc xe Lam chạy chợ, trở về nhà.

Sáng hôm sau Bích về sớm. Cô đon đả nói từ ngoài sân:

- Em xin lỗi anh hôm qua cuộc họp chưa xong... Sốt ruột quá mà không bỏ được. Chẳng lẽ giao cho người khác điều khiển hội nghị. Họp đến sáu giờ tối lại phải dự liên hoan...

Khi anh dắt chiếc Hon-da nữ của cô vào góc sân, cô tới sau anh, áp bộ ngực nồng ấm vào lưng anh và thì thầm:

- Anh không giận em chứ?...đừng giận em, tội nghiệp...

Thấy anh im lặng, cô nói thêm:

- Nào em có muốn thế đâu?...

Trọng làm sao còn giận hờn được?... Anh đã tha thứ cho cô, mau lẹ như tất cả những người đàn ông trung thực khác... Sáng nay Trọng có việc trên thành phố, anh phải dự cuộc họp thống kê toàn ngành. Anh rất muốn sau cuộc họp căng thẳng, họ sẽ cùng nhau tới ăn ở một tiệm Hoa kiều trong phố cổ, rồi xem phim. Dẫu sao, thành phố vẫn vui hơn cái huyện ly họ sống:

- Em phải chiếu cố anh chứ?...

Trọng nói với cô: Ngày nào em cũng đi đi về về, còn anh bị cầm tù ở đây...

Bích cười:

- A...Ừ nhỉ...

Dường như cô vừa chợt nhớ tới hoàn cảnh sống của anh, nhưng cô khỏa lấp ngay bằng một lời âu yếu:

- Anh muốn thế nào em cũng chiều. Họp xong anh chờ em ở tiệm cà phê Bông Lau trên bãi biển nhé. Tiệm cà phê treo hộp đèn màu xanh phía trước.

- Mấy giờ?

- Cuối giờ chiều.

- Được, anh sẽ chờ em...

...Bây giờ, anh ngồi đây, đã uống tới chén cà phê thứ ba trong một buổi chiều. Thành phố lên đèn và tín hiệu sáu giờ tối trên đài phát thanh đã phát từ lâu.

Trọng nhìn ra cửa, chờ một dáng quen thuộc. Cô sẽ xách chiếc túi nhỏ bước vào, mềm mại trong bộ đô lụa: quần đen áo đen hoa tím... Người đàn bà của riêng anh... Định nghĩa ấy anh đã nghe ai nói một lần, quyền sở hữu cao nhất của người đàn ông trong cõi đời hạnh phúc hoặc khổ đau của riêng họ, không phân xẻ, không chia xớt với một ai... Những tốp người ra vào, đi qua tiệm giải khát khiến anh mỏi mắt. Trọng ghìm nén nỗi bồn chồn, buông tiếng thở dài: “Chúa là sai hẹn... Cô ấy không biết sốt ruột hay sao?”

Anh đói. Nhưng không phải vì cơn cồn cào của cái dạ dày mà đâm giận Bích. Cô đã quen sai hẹn với anh, hồn nhiên, không mảy may suy nghĩ. Phải chăng vì từ lần lỡ hẹn đầu tiên, anh đã tha thứ cho cô một cách dễ dàng?...

Có tiếng líp xe nảy tanh tách bên ngoài. Trọng ngẩng lên: Bích dựa chiếc xe đạp nữ vào cửa, khóa cẩn thận rồi mới bước vào. Cô đội nón sùm sụp. Trọng ngạc nhiên bước ra:

- Có chuyện gì thế?... Xe em đâu?...

Cô không ngẩng lên, đáp:

- Xe em cho chị Thìn mượn. Anh vào quán rồi nói chuyện.

Anh đưa tay định gỡ chiếc nón trên đầu Bích, nhưng cô gạt đi:

- Đừng.

Họ vào ngồi trong chiếc bàn ở góc phòng, nơi ánh sáng của cây đèn chụp thủy tinh đục màu xanh chỉ rọi tới chút ánh sáng lờ mờ, yếu ớt. Lúc ấy, Bích mới bỏ nón xuống. Trọng thấy hai mắt cô sưng húp, chắc cô vừa khóc xong.

- Có chuyện gì thế em?

- Có, chuyện dài lắm. Anh hãy gọi cho em một cốc nước cam. Đang chết khát rồi đây.

- Được, có ngay bây giờ.

Anh gọi cho cô cốc nước cam, lấy cho mình một miếng bánh sừng bò vì cả ba cốc cà-phê đang cào xé cái dạ dày rỗng tuyếch. Rồi anh trở lại chỗ ngồi:

- Em có muốn rửa mặt không? Anh gọi chủ quán lấy cho em thau nước ấm?

- Không cần. Chỉ một lát là mắt em sẽ trở lại bình thường.

Người hầu bàn bưng khay nước cam và bánh ra. Cô cầm cốc nước uống một hơi. Trọng ăn bánh, vì đói quá nên bụng anh đau quặn và bắt đầu sôi.

- Em ăn bánh nhé?

- Không. Ruột em đang đầy ứ vì tức đây.

Bích nói, và bắt đầu kể lể:

- Cái lũ tồi tàn ấy làm hại em. Chúng nó đã họp ba cuộc họp liền mà không ngã ngũ. Lỡ thời cơ này thì em vỡ hết kế hoạch, toi bao nhiêu công sức..

Trọng nói:

- Anh chẳng hiểu gì cả. Đầu đuôi chuyện ra sao chứ?

Cô vùng vằng đưa mắt lườm anh:

- Có thế anh cũng không hiểu. Chúng nó họp ba lần mà không quyết định kết nạp Đảng cho em. Cái chi bộ thối hoắc, nửa phiếu thuận, nửa phiếu chống, lượt nào cũng vậy. Đảng ủy cử người xuống tham gia cũng không dứt điểm. Mà thằng chống em quyết liệt nhất, anh biết ai không?... Chính là Quỳ, cái thằng loẻo khoèo mình đã mời cơm hồi sau Tết... Lần nào, nó cũng nói: Đồng chí Bích cần phải thử thách thêm, vì phẩm chất chưa rõ ràng. Vậy mà hồi đầu, chính nó đề nghị chi bộ nhận em là đối tượng Đảng và nhận là người giới thiệu thứ nhất cho em.

- Hồi đó cách đây bao lâu?

- Hai năm.

- Trong hai năm ấy, giữa em và anh ta có chuyện khúc mắc à?

- Không... Anh nhớ hồi sau Tết, mình còn mời nó đi ăn cơm ở tiệm bò non bảy món không?...

- Thế thì vì sao?...

Cô bĩu môi:

- Biết được?... Chúng nó có quyền phán xét, chúng nó cứ phán xét. Lấy gì làm tin?

- Hay anh ta yêu em?

- Không thèm...

Trọng im lặng, sự hàm hồ của người đời anh từng chứng kiến. “Không thèm...” đó có thể là câu trả lời lửng lơ vô tội của bất kỳ người đàn ông hay người đàn bà sĩ diện nào. Anh chỉ đặt câu hỏi ấy ra vì vô tình, và coi như một giả thiết không mấy khả năng hữu hiệu... Nhưng anh thấy buồn, tâm trí nặng trĩu. Anh nhớ lại buổi chiêu đãi vui vẻ dạo đầu năm. Một quán ăn ấm cúng, biển vẽ cái đầu bò nhe răng cười, với dòng chữ kẻ diệu đàng: Xin kính mời bò non bảy món. Cặp vợ chồng chủ quán vừa nấu thức ăn vừa phục vụ khách tận bàn. Cả hai ăn mặc nhăng nhố, vui vẻ, cười ha hả luôn miệng và nấu khá ngon. Hôm đó, ba người cùng hài lòng. Quỳ là một chàng trai mảnh dẻ, yếu ớt, gương mặt trắng xanh với đôi mát to, trông thông minh nhưng kém từng trải. Với đôi mắt ấy, người ta ngỡ anh một thày dòng bẩm sinh hơn là một cán bộ quản lý từ quân đội chuyển sang. Quỳ đã có người yêu, một cô gái kém anh tám tuổi, học trung cấp y. Nếu chưa có, chắc anh cũng không yêu Bích. Trọng đoán. Chất người Quỳ không thích hợp với tình yêu kiểu như vậy. Anh là loại người chỉ chấp thuận mọi nguyên tắc giản đơn, mọi mối quan hệ không gợn vẩn, không phức tạp, mọi bản ma-két (bản kiểu) về đời sống rành mạch, phân minh. Loại người như anh tin ở những nguyên lý đạo đức và luân lý cổ truyền như những tín dồ đạo Gia tô tin rằng Jesu là con đường độc đạo của tín ngưỡng... Không, Quỳ không thể có mối hiềm khích cá nhân với Bích... Hôm đó, cô đã nói bao nhiêu lời tốt đẹp để khen ngợi Quỳ, đến mức Trọng cũng nóng mặt vì ngượng và vì đôi phần ghen tị... Anh thú nhận điều đó, mỉm cười buồn... Anh cất tiếng hỏi Bích:

- Anh ta nhận định về em ra sao?

- Nó nói rằng...

Những ý nghĩ thoáng qua đôi mắt hẹp của cô rất nhanh. Cô ngắc ngứ, chọn lựa ngôn từ hay ý tưởng... Cô nói:

- Nó nói chung chung...cần phải có thời gian, để kiểm nghiệm các hành động, động cơ hành động...vân vân và vân vân...

- Họp chi bộ, làm sao em biết được?

- Chị Thìn nói với em. Nhưng anh phải giữ kín điều này đấy nhé. Nguyên tắc bí mật tổ chức mà...

Cô quay vào trong, gọi:

- Cho cốc nước cam nữa.

Trọng hỏi:

- Cái bà em cho mượn xe máy phải không?

- Vâng.

Chủ quán bưng ra cốc nước cam thứ hai cho Bích. Cô uống, liếm mép một cách thỏa mãn rồi cười:

- Em có cách rồi.

Trọng thấy gương mặt cô trở lại vui vẻ. Anh hỏi:

- Chuyện gì thế?

- Đã có cách trị cho thằng Quỳ một mẻ.

-Sao cơ?

- Em sẽ báo cáo với Thích, bí thư đảng ủy rằng chính Quỳ tiết lộ bí mật tổ chức với em, rằng chính nó cho em biết nội dung ba cuộc họp vừa rồi... Mọi người sẽ tin sái cổ vì xưa nay Quỳ là người nhận giúp đỡ em vào Đảng, chúng em thân nhau.

Trọng sửng sốt nhìn Bích. Anh chưa tin hẳn những điều cô nói. Anh hỏi:

- Nhưng em vừa bảo rằng chị Thìn đã cung cấp tin tức các cuộc họp vừa qua.

- Chính thế... Nhưng em sẽ nói ngược lại hết. Gậy ông sẽ đập lưng ông.

- Đừng vội, em ạ... Anh nghĩ là em sẽ lấy gậy của bà Thìn để đập vào lưng Quỳ.

- Anh ngây thơ lạ.

Cô đưa mắt nhìn anh và lại cười:

- Chẳng lẽ bỗng dưng mụ Thìn lại ngứa lưỡi kể với em những tin tức quan trọng thế?... Không, chính mụ ấy đã trao vũ khí vào tay em để em giết thằng Quỳ. Xưa nay, mụ ấy có ưa em đâu?... Nhưng Quỳ mới là đối thủ của mụ. Hạ được Quỳ, chắc chắn mụ ấy sẽ được bầu vào Đảng ủy kỳ này... Còn em...

Cô uống một ngụm nước cam hạ giọng:

- Em sẽ nhẫn nhục với từng đứa một trong chi bộ... Mụ Thìn đang có chuyện kiện tụng tranh chấp vườn đất dưới quê, em cho mụ ấy mượn xe máy hẳn ba tháng. Con mụ Lan làm thi đua có bà mẹ ốm thập tử nhất sinh, lão chồng bộ đội đi biền biệt, em sẽ tặng vài củ nhân sâm và tán ông Thích cho nghỉ thêm phép. Còn lão Phùng già thì dễ thôi, lão ưa nịnh...xưa nay mình bận nên chưa dịp nào tới thăm nhà lão... Rồi đấy anh xem, kỳ họp sau thế nào số phiếu bầu cho em cũng quá bán phải em sẽ nhẫn nhục, và sau khi kết nạp, em sẽ tiêu diệt từng đứa một...

Mắt cô hằn lên vẻ oán thù, một quyết tâm cay độc, sự khinh ghét và lòng kiêu mạn... Sao từ trước tới nay, anh chưa nhìn thấy những ánh lửa đen tối trong đôi mắt kia. Phải chăng vì nó chỉ hiện lên, những khoảnh khắc anh xa vắng?... Lòng hờn oán của đàn bà, chuyện nhỏ nhen, vặt vãnh... Những người đàn bà đều thế chăng?... Có lẽ anh không nên bắt cô phải sống theo khuôn mẫu của mình, vì anh một người lính...và cô, một người đàn bà lớn lên trong thành phố, cuộc sống thời hoa niên đã nhào nặn họ theo những hình vẻ khác nhau.

- Cuộc họp chi bộ kỳ tới khoảng đầu tháng sau... Nhất định không thể chậm trễ.

Bích vẫn đang nói. Tiếng cô như tiếng trống gõ rất xa, nghe ầm ào nhưng không rõ lời.

- Cái thằng ấy...làm sao hơn em được?... Nó sẽ biết tay... Tới ngày nào đó, không xa...em sẽ bắn rụng từng đứa một...

Trọng nghĩ vớ vẩn... “Bắn rụng...” Cái từ vô tình lọt vào trí não anh... Tim Trọng nhói lên. Anh chợt nhớ người bạn của mình, trung sĩ Quất, người được phiên chế cùng tiểu đội với anh mười sáu năm. Một người bạn chân tình, xẻ chia nửa điếu thuốc cuối cùng, húp với nhau miếng canh rau bay cuối cùng, bẻ mảnh lương khô cuối cùng... Hồi mới nhập ngũ, Quất trung sĩ là tiểu đội trưởng, Trọng hạ sĩ tiểu đội phó. Họ đã sống với nhau bao nhiêu chiến dịch, bao nhiêu đợt chỉnh huấn chỉnh quân. Họ đi với nhau bao nhiêu cây số đường rừng đường biển. Họ ngủ cùng nhau bao nhiêu đêm đông trong khe núi hoặc những ngày mưa ẩm ướt dưới hầm... Quất rất thích bài hát: Nguyễn Viết Xuân. Suốt ngày anh nghêu ngao hát bài ấy, tới mức mọi người xung quanh phát bực: “Có hàng nghìn bài hát sao cậu cứ hát quanh quẩn mỗi một câu?...” Quất cười hiền lành như có lỗi: “Tớ chỉ thuộc câu ấy thôi...” Trọng hay nạt nộ Quất...hay vòi vĩnh Quất xem như đứa em trai vòi vĩnh người anh mặc dù họ xưng hô với nhau là cậu tớ. Quất là bí thư chi bộ, người đã giúp đỡ và kết nạp Trọng ngay ở chiến trường, sau một chiến dịch mà thắng lợi được mua bằng giá quá cao: một nửa phiên chế trung đoàn hy sinh và mất khả năng chiến đấu. Quất hy sinh năm 72, dưới chân thành Quảng Trị. Cái câu hát mà Quất nghêu ngao suốt ngày lại làm anh đau:

“Nguyễn Viết Xuân lời anh nói thiết tha, theo ngọn gió bay xa: Nhằm quân thù mà bắn... ”

Tim Trọng nhói lên tầng nữa: Dù sao anh vẫn là người lính, cái ẩn ức về quãng đời quá khứ không bao giờ tan được.

Anh ngước mắt nhìn Bích, người đàn bà anh yêu vẫn đang nói. Bất giác anh rùng mình... “Quất ơi, hạ hồi là như thế này hay sao? Giờ... người ta đã dùng cái từ xưa kia chúng ta coi là thiêng liêng nhất: Bắn trúng...vào cái mục đích chẳng ai ngờ...”. Anh chợt nhớ lại cánh rừng gió ràn rạt thổi, những hàng quân đi như nước cuốn, như thủy triều, tiếng cười của đám lính, những lời trò chuyện, tán tỉnh, những lời ca...và mặt trời, xuyên qua các vòm lá dày đặc tung tóe vung vãi muôn ngàn đốm sao.

- Anh nghĩ gì thế?

Bích đập vào tay anh. Trọng giật mình ngẩng lên:

- Có gì đâu?

Cô lườm:

- Chuyện với anh chán chết. Đầu óc để tận đâu đâu. Anh chẳng quan tâm gì tới em.

Trọng đáp, yếu ớt:

- Anh vẫn nghe em nói. Anh biết làm gì bây giờ?

Cô đứng lên, cầm túi và chiếc nón:

- Đi đi. Giờ, tới tiệm hủ tiếu ăn rồi xem phim nhé?

Trọng bỗng thấy mỏi rã tới từng đốt xương lưng:

- Tùy em.

Cô đưa mắt nhìn anh:

- Chán rồi phải không?... Thế thì ăn xong ta về vậy. Mình sẽ gửi xe đạp nhà cái Thương rồi mượn xe máy của chồng nó. Thằng ấy dạo này trúng quả liên tục. Nó vừa đổi chiếc Sim-sơn lấy chiếc Hon-đa đời mới.

Họ đi. Cả buổi tối, anh làm theo mọi mệnh lệnh của cô như cái máy. Họ đi ăn hủ tiếu, đi đổi xe, về nhà...

Ngôi nhà sáng trưng. Lão Ngạn đã uống rượu trước, ngồi trên đi-văng xem truyền hình. Chiếc đồng hồ Thụy Sĩ treo tường thánh thót... Ban đêm, mùi thơm của bụi nhài ngoài cửa sổ bay nồng nàn. Trọng nhận thấy mùi thơm ấy làm anh tức giận. Cách đây không lâu, vào một buổi sáng cô đơn, anh cũng đã để ý tới bụi hoa ấy và thấy nó không còn gợi cho anh niềm say mê như ban đầu. Nhưng giờ này, nó lại dấy lên một cơn bực bội vô cớ.

Trọng khép hai cánh cửa sổ.

Bích quay lại nhìn anh ngạc nhiên:

- Ô hay, mở cho thoáng.

Trọng đáp:

- Anh không thích.

Bích im lặng. Cô đang thay quần áo. Cô hỏi:

- Anh no chưa. Em rán cho anh ít trứng với bánh phồng tôm nhé. Anh còn cả chai rượu Ba Lan chưa mở, phải không?...

Cô xăng xái xuống bếp. Lúc này, cô trở lại làm người đàn bà chu đáo, tận tình. Nửa giờ sau, khi Trọng vừa rửa mặt, thay quần áo, cô bưng lên một mâm rượu ngon lành: Trứng rán, lạp sườn hấp, bánh phồng tôm với đĩa dưa chua. Cô mở chai rượu khai vị của Ba Lan họ vẫn dành từ tuần trước. Lại rót thêm chén rượu rắn cô tự ngâm.

Và, sau mọi động tác chuẩn bị, cô ngồi bên anh, như một khán giả trung thành với sân khấu chờ xem vở kịch hay.

Người đàn ông nguôi giận. Anh bị cuốn vào dòng trôi của cuộc đời thường.

❆❆❆

Trọng đã đi làm được nửa giờ đồng hồ. Bích trở dậy từ sớm lo nấu xôi cho anh, nhưng khi anh chuẩn bị đi làm cô lại vào giường ngủ tiếp. Chút giờ rưỡi người đàn bà mới tỉnh giấc. Cô ngồi nhỏm lên, khoác áo, chải sơ qua mái tóc rồi ra phòng ngoài - Lão Ngạn như thường lệ ngồi uống trà - "Ba ơi, con cần nói chuyện với ba".

- Chuyện gì?

Bích tới ngồi kê lão Ngạn, không đáp mà lại hỏi:

- Ba gặp cậu Cường chưa?

- Chưa. Hai bận nó đều vắng. Gặp mỗi anh trưởng máy thôi.

- Vậy lần nào không gặp cậu ấy ba cũng vào chỗ anh Nghĩa?

- Tao vào làm gì?

Lão Ngạn trừng mắt:

- Chồng mày gặp tao trên đường, nó cứ kéo bằng được về thăm con bé.

- Ba thương gì con mà thương tới cháu?... Người ta có câu “Nhất con, nhì cháu, thứ sáu người dưng...” Từ ngày đẻ nó đến giờ đã lần nào ba hỏi tới một câu?.

- Phải.

- Đã thế, sao ba không từ chối?

- Tao từ chối nhưng không được.

- Ba nói dối.

- Cho là tao nói dối, đã sao?

- Ba muốn hại con. Không người cha nào phản bội lại lợi ích của con cái.

- Mày muốn nói tới thứ lợi ích nào?

- Ba đừng vặn vẹo. Ba thừa hiểu con không muốn cho anh ấy biết cuộc sống chung với Trọng. Con không muốn mất anh ấy. Chính ba cũng nhận rằng Nghĩa là người tốt...

- Nó tốt, vậy cớ gì mày bỏ?... Chưa thằng chồng nào lo cho vợ con chu tất hơn nó? Cũng chưa thằng chồng nào ngu hơn nó, như con đà điểu rúc đầu vào cát, để không nhìn thấy vợ cắm một bó sừng lên đầu... Mày còn tìm đứa nào hơn?...

- Đó là chuyện riêng của con. Có những lý do...con không thể nói với mọi người, kể cả ba...

- Những lý do hả?... Tao thì tao biết tỏng cái...

Lão Ngạn định buông một tiếng tục tằn, nhưng kịp ghìm lại. Lão không nhìn vào bộ mặt sưng sỉa của cô gái. Trong không trung, mấy con nhặng rõ to lượn ve ve. Lão đưa mắt đuổi theo lũ nhặng rồi cúi xuống, uống nốt chén trà đã nguội. Con gái lão bắt đầu sụt sịt phía sau. Con quỷ cái, còn vãi được nước mắt thì cũng lạ. Không hiểu nó khóc vì can cớ gì? Uất ức lão chăng? Hay thương thằng chồng bị phản bội? hay thương thằng tình nhân bị lừa dối? hay vì chính nó không thể sống mà không gian trá với cả hai người?...

Phải, chính lão đã chủ động gọi Nghĩa chứ không phải anh nhìn thấy lão. Anh ta lúc nào cũng mải mốt, lo âu, đi đâu cũng cắm đầu về phía trước, mắt nhìn thẳng.

Nghe tiếng gọi, anh ngơ ngác nhìn quanh. Nhận ra lão Nghĩa mừng rỡ chạy tới:

- Ba ra thành phố từ lúc nào? Sao con không biết?

- Tôi ra đây dăm sáu tuần lễ... Nhưng ở gần bến xe phụ. Chắc con Bích không bảo anh?

Lão đáp thủng thẳng, nhìn vào đôi mắt ngay thật của chàng rể, nhận thấy đôi mắt ấy còn rất nhiều chất thơ ngây trong khi hai bên thái dương tóc trắng xóa. Nghĩa vẫn nắm chặt hai tay lão trong tay mình, vồn vã:

- Bích không nói gì với con. Có lẽ dạo này bận công việc nên cô ấy đãng trí. Ba ở đằng ấy với ai?... Chẳng lẽ cậu Cường lấy vợ mà không cho chúng con biết?

Lão Ngạn đáp tỉnh khô:

- Tôi ở với vợ chồng con Bích.

Nghĩa tái mặt. Lão thấy đôi mắt anh ta như mờ đục trong giây lát, những giọt mồ hôi rịn hai bên má và quanh ria mép. Nghĩa nhìn lão, cố gượng cười:

- Nhà con vẫn ở khu tập thể mà... Con đã tới...

Lão Ngạn không nhìn vào làn môi nhợt nhạt của Nghĩa. Lão biết rằng người đàn ông cả tinh thần lẫn thể xác quá mong manh kia không chịu nổi ngọn đòn của mình. Lão thấy mình độc, lão thương anh. Lão mỉm cười khi nhận ra rằng dối trá không chỉ là độc dược mà đôi khi lại là món thuốc cứu chữa con người công hiệu. Lão nói, giọng vẫn tỉnh khô như cũ:

- A à à...nó nói rằng đón tôi lên là để giữ nhà cho vợ chồng nó sau này. Giờ, mới chỉ có mình tôi làm ông sãi quét chùa thôi.

- Vâng...vâng...

Nghĩa lắp bắp, làn môi nhợt của anh ta mấp máy dưới hàng ria mép dược cạo tinh tươm. Trong đám ria, lấm tấm nhiều sợi bạc. Hai gò má Nghĩa đã có ngấn, thịt nhão ra với những nếp nhăn, làn da xưa màu dâu chín nay chuyển sang vàng khè... Nó sắp thành ông lão rồi- Lão nghĩ - Và lần nữa, mối cảm thương khiến lão se lòng. Lão vờ hỏi:

- Nó ở khu tập thể của cơ quan?

- Vâng. Gần sân đá bóng thành phố. Cô ấy chưa mời ba tới?

- Mời làm gì?... Tôi ở đầu kia, vài ngày nó lại về thăm. Mà dạo này tôi cũng suy nhược, chẳng dám đi đâu. Lâu nay thằng Cường biền biệt không về. Nhớ nó quá nên tôi liều lên đây...

- Vâng, ba xanh thật đấy...

Chàng con rể gật đầu ái ngại, trong lúc lão nói, anh ta đã đưa mắt ngắm nhìn dáng vẻ tiêu tụy của lão một cách xót xa:

- Ba về chỗ con... Đã mấy năm rồi ông không thăm cháu. Dạo này nó lớn, trông lạ hẳn đi... Người ta vừa biếu con mấy lạng cao hổ. Ông mang về ngâm rượu...

Nghĩa gọi cậu lái xe vẫn chờ anh ta cách đó chừng một chục thước. Cậu lái xe lùi chiếc La-đa, mở cửa đón khách. Lão Ngạn lên xe, cảm thấy oai oai. Ít nhất, đám người qua lại hai bên phố cũng thấy lão được đón tiếp trịnh trọng thế nào. Lão bảo Nghĩa:

- Dạo này anh cũng còm đi đấy, liều liệu mà giữ sức.

- Vâng ạ.

Chàng rể ngoan ngoãn đáp. Rồi anh ta đưa lão về nhà. Một căn hộ ba phòng, sạch sẽ, xinh xắn. Hồi lão tới lần đầu tiên, gần bảy năm trước nó còn trống trải. Giờ, đầy ắp các loại tiện nghi: Nào bàn ghế, giường tủ, nào máy truyền hình, máy thu âm, máy lạnh, lò sưởi điện...

Riêng đồng hồ báo thức đã có tới sáu bảy chiếc bày trong tủ, từ loại chìa khóa vàng bé xíu đến loại quả chuông lớn bằng trái bí ngô non. Nghĩa đi nước ngoài luôn luôn và anh ta thích sưu tập các thứ đồ đạc vặt. Con cháu gái của lão có một tủ gần hai chục con búp bê. Nó lớn, lạ lẫm nhìn ông ngoại, vòng tay cúi đầu chào ông với giọng êm ái như giọng hát của các Thánh nữ:

- Con chào ông ngoại ạ ạ...

- Chào...chào cháu...

Lão Ngạn đáp lại, có đôi phần cảm động và bối rối. Vẻ đẹp trong trắng, thánh thiện của đứa bé khiến lão bồi hồi: “Nó giống bố như đúc, nhưng đẹp hơn cả trăm lần, như tranh các Thánh nữ trong Nhà Thờ, như người cõi tiên giáng thế... Chao ôi, không thể tin được một đứa bé như vậy lại lọt lòng từ thân thể của một con quỷ cái như mẹ nó. Không biết trong máu huyết của nó, trong da thịt như bông lan, bông huệ có ẩn giấu cái mầm đen u tối nào của dòng máu kia không?...”

Nghĩa chuẩn bị rất nhanh mấy món nhắm mời bố vợ, rồi anh ta khê nệ bưng ra vò rượu Ngũ xà có năm con rắn lớn cuộn khúc bên trong, phơi qua lớp thủy tinh các sọc trắng sọc vàng dữ tợn của chúng.

Lão Ngạn vội nói:

- Cảm ơn anh, tôi không uống được thứ này đâu... Tợn nhất tôi cũng chỉ dám uống tới rượu ngâm tắc kè.

- Thế ạ, con không biết.

Nghĩa cất bình rượu rắn, lại lấy ra một lọ rượu nhỏ hơn ngâm tắc kè. Có tới một tá tắc kè co quắp nằm trong. Anh nói:

- Bích cứ bắt con uống rượu rắn. Thực với ba, con sợ lắm, nhưng đành bịt mũi uống một hơi.

Hai người uống rượu, nói chuyện thời thế, chuyện nhân gian. Rồi có ai tới đó gọi Nghĩa vào tỉnh ủy có việc. Anh ta xin phép lão đi. Trước khi đi, chàng rể tận tụy còn gói một hộp quà tặng lão: cao hổ cốt, cao sơn dương, sâm nước Liên xô và hai củ sâm Triều tiên chính hiệu...Anh ta bảo lái xe đưa bố vợ ra tận bến xe Lam rồi mới được quay về...Tiếng sụt sịt, tức tưởi của Bích khiến lão nhoi nhói như bị gai đâm. Lão quay lại:

- Làm sao mày khóc, oan lắm à?

Cô con gái không đáp, cúi đầu hỉ mũi vào khăn tay. Đôi mi mắt lẫn chớp mũi đỏ huẩy.

Lão Ngạn hỏi tiếp:

- Mày với chồng mày đã ký giấy ly hôn, tòa đã xử, sao còn tiếc?...

Bích ngẩng lên, đưa cặp mắt hờn căm nhìn bố:

- Đó là chuyện của riêng con, ba không cần hỏi. Xưa nay, ba vẫn coi con như đứa con rơi, không thèm đoái hoài. Chỉ riêng thằng Cường là...

Cô dừng lại, chợt như nhớ ra điều gì đó. Cô im bặt, không nói nữa.

Lão Ngạn nhe hai hàm răng xám xịt ra, cười nhạt:

- Biết thế, sao mày cứ cố sức lôi tao lên đây?

Bích mím môi, không đáp.

- Mày tưởng nuôi tao ngày hai bữa rượu thì tao phải làm bố già giữ nhà, mồm câm như hến, đúng không?.

Bích im, cúi mặt xuống. Lão tiếp:

- Mày nhầm... Nhà cửa, tài sản của riêng tao vẫn còn nguyên, chưa cầm đợ, bán chác cho ai. Đời người chỉ nên bị lừa một lần. Lần ấy, dù cách đây mấy chục năm, tao nhớ như ngày hôm qua... Còn bây giờ, tức khắc, tao sẽ xách túi ra bến xe, trở về.

Cô con gái ngẩng bộ mặt sưng húp, cười cay độc:

- Ba về cũng được. Nhưng từ đó tới cảng thăm thằng con trai thì xa quá...

Lão Ngạn chợt khựng lại giây lát, mặt đờ ra. Rồi lão gầm lên, mắt long sòng sọc:

- Mày câm đi, đừng châm kim vào ruột tao... Tao sẽ đi... Và từ đây lên cảng, tao sẽ bỏ tiền ra thuê...dù phải thuê người cáng...

Lão đứng lên, cử chỉ đường đột và quyết liệt. Cô con gái không khóc nữa. Cô vội đứng lên theo:

- Ba ơi, đừng đi như thế... Người ta cười cho...

Lão Ngạn quay lại, hỏi:

- Cười cái gì?

Bích hạ giọng nài nỉ:

- Dù sao ba cũng là cha đẻ của con... Ba xử thế, thiên hạ chê cười...

Lão Ngạn lại nhe hai hàm răng ra:

- Là cha đẻ của mày nghĩa là phải câm như hến nhìn mày dắt trai về ngủ trước mũi chồng, hay phải đóng vai ông bố hợp pháp cho một cuộc tụ bạ không hôn thú?...

-Ba.

Bích kêu lên, hai bàn tay xiết chặt vào nhau trong một cử chỉ lạ lùng, nửa như vò xé, nửa như kìm lại một cơn đập phá.

Lão Ngạn xăm xăm mở tủ, lấy túi quần áo của mình xếp vào đấy vài thứ đồ lặt vặt. Bích đứng nhìn cha, vẻ nghĩ ngợi. Rồi cô con gái tới gần ông bố:

- Ba thư lại cho con nhờ... Chiều, anh Trọng về, anh ấy sẽ nghĩ cha con mình ra sao?.

Lão Ngạn cười nhạt:

- Mày thiếu gì lý lẽ?... Cứ đổ tại ông bố nghiện rượu, hoặc mắc chứng tâm thần, hoặc giở thói trăng hoa sàm sỡ với một mụ hàng xóm nào đó khiến mày phải đuổi về quê để bảo toàn danh dự. Cũng như trước kia mày đã kể với anh ta rằng mày phải chịu cảnh dì ghẻ con chồng cơ cực, rồi năm mười bốn tuổi bị đánh đuổi khỏi nhà?

Tới đó, lão cất tiếng cười khành khạch. Còn cô con gái thì mặt từ đỏ chuyển sang tím, từ tím chuyển sang đỏ. Hai con mắt hẹp đảo tròng như người bị lên đồng thiếp. Lão già nhìn con gái với vẻ ranh mãnh, hả hê, đoạn hạ giọng nói tiếp:

- Thôi, hãy để tao về... Ở lại cũng chẳng lợi lộc gì cho mày đâu... Bởi vì, thế nào cũng có lúc hạ màn. Dù mày có là con đẻ của tao, cũng sẽ tới lúc tao lật tẩy tấn trò kia, để rửa oan cho người nằm dưới mộ.

Nói rồi, lão cài kín khuy cổ, xách túi quần áo đi ra. Cô con gái lặng lẽ đứng giữa phòng, không đưa tiễn. Hai người nhìn nhau lần cuối, với con mắt của những kẻ tử thù...

...Hơn một giờ đồng hồ sau, lão Ngạn đã vắt vẻo ngồi trên xe thổ mộ. Bên phải, một bà bán cá, bên trái ba cô gái buôn trái cây từ miệt vườn nào đó chất chồng đây những sọt trái cây mang lên thành phố. Các cô đều béo nẫn, mặc áo xẻ nách, sức nước hoa thơm lừng. Họ ngồi cắn hạt dưa, nhổ vỏ đầy sàn xe. Bà bán cá nhắm mắt gà gật ngủ. Lão Ngạn rũ hai vai, ngồi như tàu cải héo. Lúc lên xe, máu nóng phừng phừng, lão hăng hái lắm. Nhưng cơn tức giận qua đi, tiếng móng ngựa gõ lộp cộp triền miên như một điệp khúc từ vạn cổ đưa về, khiến lão tê tái. Hai bên đường những mảnh đồng trôi êm êm qua, những gò đất, vạt vườn, tấm áo của một thằng bù nhìn bay phấp phới, dòng sông nhỏ dưới chân cầu, mấy đứa bé chăn trâu nghênh mắt nhìn, một con sáo lẻ loi nhảy trên vạt cỏ... Cảnh vật như muôn thuở... Lão nghe tiếng lục lạc reo, tưởng như nó từ hoang mạc nào đó xa vời vợi trong tâm tưởng, như nó là những quân súc sắc gieo vào thời gian dài đặc, mỗi quân rơi xuống, là tiếng gõ của định mệnh, rút ngắn chuỗi đời tàn: - Oan nghiệt...

Lão thầm nghĩ. Cha con đấy mà vẫn thành cừu địch... Muốn tránh cũng không tránh được. Nhiều lần nghĩ ngợi, lão đã tự nhủ rằng lão có nhiệm vụ bảo vệ con mình, cho dù nó hư hỏng, cho dù nó man trá, cho dù hình hài hay tâm tính nó có giống mụ Ngọc Bảo, nó vẫn cứ mang nửa dòng máu của lão. Biết đâu, nó chẳng mang hạt mầm bệnh tật hay tai ương tinh thần của lão di chứng lại?... Biết đâu, thói trăng hoa hay tính biển lận của nó không chỉ thừa hưởng của dòng mẹ mà còn thừa hưởng của ông tổ ba đời nào đó chính trong dòng họ Phạm mà lão không biết tới? Biết đâu?...

Nhưng cho dù lão cố lục tìm hàng trăm lần một dáng nét nào đó của lão, của ông bố hay bà mẹ lão, thậm chí của đám anh chị em lão phảng phất trên gương mặt, trên dáng hình đứa con gái kia, lão cũng chỉ thêm thất vọng... Thật cay đắng, Bích giống mẹ như chính cô ta đã là một phiên bản khác được tạo chế từ mẫu hình gốc. Mỗi khi cô ta cúi gằm mặt xuống hay ngước mắt lên, mỉm cười hay liếm môi một cách mài miệt, lão sởn gai ốc. Dường như trong đứa con gái kia, bóng ma của mẹ nó trở về...

Bà buôn cá từ nãy lim dim mắt, nhưng miệng vẫn bỏm bẻm nhai trầu. Bỗng nhiên bà ta mở choàng mắt, nhỏm người qua thành xe nhổ quết trầu: - Toẹt...Cả một bãi nước trầu đỏ choét phun xuống dường, một phần lan vào bờ cát, một phần nữa dây xuống sàn xe. Ba cô con gái la choe chóe:

- Khiếp quá...

Bà buôn cá dẩu mỏ đáp:

- Nước cốt trầu chứ cứt đái gì mà khiếp?... Rõ thối nhà các chị. Thời bây giờ chứ ngày xưa thì khỏi nói, chả nhai bem bẻm cả ngày.

Các cô gái gân cổ lên, định đấu khẩu, nhưng thấy vẻ mặt nanh nọc của bà nên thôi.

Lão Ngạn im lặng quay đi. Đám nước cốt trầu khiến lão liên tưởng tới những bãi máu tươi vọt ra, bắn tóe trên miệng sứ trắng của chiếc ống nhổ, trên sàn đá hoa... Đỏ tươi, như máu ròng ròng chảy từ vết thương. Chiếc ống nhổ sứ trắng lớn bằng nửa chiếc đôn kê chậu cúc cảnh, là tặng phẩm của một tỉnh phía Nam cho ông thủy sư đô đốc, hồi ông còn sống oanh liệt. Chiếc ống nhổ ấy được chuyển cho lão từ khi lão có đứa con gái và bị bệnh lao. Nó đặt ở cuối giường. Đêm đêm, trong ánh sáng xanh mờ của cây đèn ngủ, màu men sứ trắng bóng lên vẻ đẹp ghê rợn. Phòng ngủ của lão thời ấy sang nhất thành phố. Các tấm rèm màu tím hồng rủ kín khuôn cửa. Tấm gương chạm lẵng hồng được mua từ Pa-ri đem về, cả bộ sa lông bọc nhung tím cũng vậy.

Nửa giờ một lần, chiếc đồng hồ treo tường Thụy Sĩ lại ngân nga khúc nhạc quen. Sau hồi nhạc thánh thót, mụ vợ lão ngồi bật lên:

- Anh Ngạn, ngồi lên tôi hỏi. Tại sao anh dám bán đám đất vườn Vĩnh Xá không có lệnh tôi? Con mụ Hồng bỏ thuốc lú phải không? Anh em kiến giả nhất phận, mụ ấy đã có chồng mụ ấy lo, ai khiến anh đem oản cho sư vô lối như vậy?

- Anh Ngạn, ngồi lên tôi hỏi. Ai cho anh mua một lúc ba toa thuốc của đốc-tờ Nhân?... Cái thằng đại bịp ấy vẽ chuyện kiếm tiền. Tiền của tôi có phải vỏ ốc đâu? Cứ sẵn đấy mà vốc... Có cái nhà đã bán đi hầu bà mẹ quý. Giờ sống nhờ kẻ khác thì phải biết thân...

- Anh Ngạn, hôm nay anh nói gì với lão già Nhu?... Ở hội chợ, lão ấy lu loa rằng ma-đam Ngọc Bảo mỗi ngày cho chồng ăn một củ sâm với một bát yến sào nên ông Ngạn sắp khỏi bệnh, đứng lên coi sóc đại lý Thủy Tiên và hãng kem Đại Dương được rồi?.

Bằng giọng nói lí nhí người bên ngoài rất khó nghe được, mụ rít bên tai lão tiếng rít của loài rắn. Cặp mắt lờ đờ trở nên linh hoạt, đưa đẩy trong hố mắt hẹp và dài. Sau khi hỏi đốc thôi mà lão không trả lời được, mụ móc chặt hai sườn lão khiến lão ngạt thở. Mắt lão tóe đom đóm. Và mồ hôi lão toát ra thấm ướt lưng:

- Tôi xin mợ, tôi van mợ...tôi xin...

Cái điệp khúc ấy lặp đi lặp lại hoài hủy. Lâu dần, tiếng thánh thót của chiếc đồng hò treo tường trở thành tiếng vọng địa ngục báo giờ lão chịu hành tội.

Cơn điên giận của người đàn bà ngày càng trở nên ghê gớm. Lão không còn gì cho mụ, mà vẫn cứ danh chính ngôn thuận là người chồng, mụ phải đèo bòng lão như mang miếng thịt thừa, mang món nợ truyền kiếp... Mà mụ, mụ không muốn phải gánh chịu bất cứ thứ gì... Không thể công khai đánh lão, mụ cấu chí, gằn hắt, nhục mạ... Mỗi bận lão bật ho, mụ hét lên:

- Câm miệng, câm miệng cho tôi ngủ... Người với ngợm sao không chết quách đi cho rồi?.

- Ho này, ho này...cái cây đã thối rễ thì chặt đứt đi cho rảnh. Ho này...

Cùi tay mụ giáng vào sườn, khiến lão buốt tận óc. Lão ngồi dậy, cố nén cơn ho. Nhưng cổ họng ngứa ran như có hàng ngàn con kiến đốt. Lão nhịn không được lão bật lên, và máu nóng vọt khỏi lồng ngực hư nát... Cái miệng trắng xanh của chiếc ống nhổ bằng sư giống con mắt tử thần, mỏ ra lạnh lẽo. Lão ôm ngực, trừng trừng nhìn vào nó, như kẻ bị hành hình nhìn đao phủ khoét cái huyệt chôn mình. Sớm dậy, lão rũ ra như mảnh giẻ rách. Mụ Ngọc Bảo ngồi trước gương chải tóc, gióng giả sai lũ người làm:

- Đứa nào đi mua phở cho ông phải nhớ ủ nóng. Lát nữa, sắc thuốc xong nhớ nhắc ông uống đúng giờ.

Có lẽ, lão đã chết nếu người anh cả không khôi phục được gia tài bí mật sai người về thành phố đưa em trai đi. Ông mua cho Ngạn một ngôi nhà nhỏ, một mảnh vườn xinh xắn ở một vùng hẻo lánh.

Vùng này, người ta làm nghề nung vôi, nung gạch. Lão đã sống ở đấy, thở hít bầu không khí của các lò vôi, ăn cá nước ngọt và thịt bò tươi, uống đều dặn các loại thuốc người anh gửi đến. Một lá phổi tàn phế của lão được cắt bỏ. Lá kia trở nên lành lặn và khôi phục khả năng hoạt động.

Khi lão khỏe mạnh, người anh mua một tiệm tạp hóa cho lão trông coi. Sau đó, ông còn kịp thu vén cho lão một món gia tài trước khi bốc cả gia đình đi Căm-pốt.

- Hây, đứng lại...đét...

Tiếng quát ngựa, cùng tiếng roi của người chủ xe khiến lão giật mình. Xe đã tới một dãy phố nhỏ, không tên. Những dãy phố như thế ngày càng mọc lên nhan nhản ven các trục đường chính. Người chủ xe nói:

- Tôi phải mua ít thóc cho con ngựa. Ai nấy tùy nghi di tản. Một giờ sau cơm nước xong xuôi rồi đi... Nói đoạn, ông chụp chiếc mũ da bạc phếch lên đầu.

Cả bốn người đàn bà đã nhảy xuống đường. Trên xe, chỉ còn lão Ngạn với đám sọt trái cây và vài bì cá khô. Người chủ xe bảo:

- Bác đi kiếm cái gì ăn cho nóng bụng. Lên phố rồi ta ngủ trọ qua đêm, sáng mai chạy sớm.

Lão Ngạn đáp:

- Có lẽ tôi là người đi xa nhất trong đám khách của ông?

Chủ xe đáp:

- Vâng. Nhưng mai đến phố thế nào cũng có thêm khách mới. Dạo này, đón người lên Cam cũng dễ...

Nói rồi, ông ta ấn cái mũ da cũ xuống trán, bước đi. Chủ xe ngược về phía đầu phố mua thóc.

Lão Ngạn nhảy xuống xe, đờ dẫn nhìn mái phố, tâm trí vơ vẩn trăm chiều. Lão nhớ căn nhà quen thuộc ở thị trấn Cam, mong được nhìn thấy nó, mong được thở hít không khí trong lành và hoang liêu nơi phố cổ, vẻ tĩnh lặng êm đềm mà bấy lâu nay lão thiếu vắng. Nhưng lão cũng biết rằng ở đấy những chuỗi ngày chờ đợi lão sẽ buồn chán, khắc khoải nhường nào. Lão đã không gặp được Cường, đứa con trai duy nhất, nguồn hy vọng duy nhất. Chuyến đi thành phố thật cay đắng. Lão đưa mắt nhìn chân trời khoáng đãng, như mong muốn tìm thấy ở nơi đó, bóng dáng đứa con trai. Nhưng chân trời trong như lọc, không gợn mây, phân cắt bởi đường rèm của núi non với bình nguyên vàng thắm. Chợt, một ý nghĩ thoáng hiện lên:

- Nếu nó không về... Không bao giờ về nữa?

Lão lạnh toát chân tay, hơi thở như nghẹn lại. Lão vội nắm chặt tấm gỗ ván bên thành xe, thầm nói:

- Nhảm nhí, nó sẽ về... Nó sẽ về.

Tim lão đập thon thót trong lồng ngực. Và một giọt nước mắt tràn qua khóe mắt, rơi xuống.

❆❆❆

Đúng lúc ông bố đứng trong dãy phố vô danh, cậu con trai đang ở trên boong tàu. Một mình chàng trai ngồi đọc sách. Nhưng giữa những dòng chữ, chợt hiện lên mái nhà thời thơ ấu. Chàng trai đành bỏ cuốn sách xuống. Cái khung cảnh được tạo dựng nên trong những trang tiểu thuyết không còn lôi cuốn được anh: Nào lâu đài của quận chúa Min Pho, nào những dãy hào có lính bồng súng gác, nào những sĩ quan tùy tòng đeo kiếm dài, cưỡi ngựa nòi Noóc-măng, nào những công nương mặc váy phồng tha thướt... Tính hiếu kỳ chợt mệt mỏi, chàng trai không còn háo hức săn tìm những cuộc đời xa lạ của vương tôn công hầu châu Âu... Cường chợt nhớ cha, lão già đau ốm và xấu xí, con người gần gũi nhất mà cũng đáng sợ nhất với anh, con người yêu thân mà phải trốn tránh như trốn tránh bệnh truyền nhiễm. Giờ này lão làm gì?... Hồi tàu chưa nhổ neo, lão đã lên cảng tìm Cường hai lượt. Lượt nào anh cũng tránh được. Không gặp anh, chắc cha anh đã trở về Cam. Cường biết lão không yêu thích, thậm chí còn ghét bỏ một cách bất công đứa con gái người vợ trước. Nhiều lần, Cường nói với lão:

- Ba ơi, chị Bích cũng là giọt máu của ba xẻ ra. Ba đừng cư xử như vậy.

Lão gắt:

- Mày biết gì?

Cường đáp:

- Mọi người trong thị trấn đều bảo rằng ba thiên vị. Đa phong kiến.

Lão gật đầu:

- Tao phong kiến, như vậy được chưa?... Và từ rầy mày im đi, đừng bao giờ nhắc tới nó trước mặt tao nữa.

Cha anh bao giờ cũng dịu dàng, âu yếm với anh. Trừ việc ép Cường tập bơi để sống chết cũng phải thành thủy thủ. Và việc anh đã dám động chạm tới quan hệ của lão với Đích. Cả hai trường hợp lão đều tỏ ra độc ác, thô bạo. Từ lối xưng hô mày tao rất khó nghe tới ánh mắt cay độc. Ngoại trừ những giây phút nghiệt ngã ấy, tình yêu của lão khiến anh xót xa.

Chàng trai không thể quên, từ thời anh thơ bé, ánh mắt trìu mến vô song của người cha. Lão nhìn anh khi anh cúi đầu nắn nót tô dòng chữ cái, khi anh tỉ mẩn cắt dán các hình thủ công, nặn những con giống đất thó, chế tạo những thuyền lớn thuyền nhỏ bằng bìa và giấy, làm những buồng chiếu phim tự quay bằng vỏ hộp bánh quy và sữa bột trẻ em.

Ngay cả khi Cường ngủ, không chỉ lúc anh năm sáu tuổi mà hồi anh đã thành chàng niên thiếu lão vẫn ngồi ngắm con như người đàn bà lần đầu làm mẹ. Không đơn thuần là niềm trìu mến, thương yêu của cha với con, ánh mắt lão chứa chan những kỳ vọng của một nô lệ với chủ nô, của một kẻ cuồng tín với Thần tượng được thờ phụng. Niềm sung sướng do các ảo tưởng tạo nên làm mắt lão như mờ đi vì mãn nguyện, hệt mắt kẻ đang yêu. Những cuồng vọng nung nấu trong tâm trí khiến tình yêu của lão với đứa con trai trỏ nên bất thường. Hồi nhỏ, Cường không hiểu được nguồn cơn, nhưng một mặc cảm mơ hồ khiến anh sợ hãi:

- Con yêu của ba, cục vàng của ba ngồi lên đây...

- Đứa nào làm đứt tay con, hoàng tử của ba, ba sẽ chặt đứt tay nó cho con hả dạ... Thằng quỷ ác độc nào nỡ làm hại thằng bé hiền như thỏ này...

- Lại đây cho ba thơm, con trai ơi i i...

Thằng bé Cường tới gần cha, ôm cổ cha, thụ hưởng mọi trìu mến, nhưng càng ngày, nỗi lo âu mơ hồ càng trở nên rõ rệt và ám ảnh tâm trí nó một cách dai dẳng. Chú bé thấy phía sau tình yêu ấy ám khí của một vòm trời giông gió.

- Thưa ba, con đây ạ...

- Thưa ba, vâng...

Cường luôn luôn ngoan ngoãn nhưng luôn tìm cớ lảng tránh mọi vồ vập, âu yếm của người cha. Nhất là khi chú bé chín tuổi, và lão đã ném đứa con trai xuống dòng sông Cam một cách độc ác bất tường. Từ năm đó, tâm hồn chàng trai bị lôi cuốn bởi bóng mát của vườn cây. Anh tìm thấy trong ông già láng giềng một tình cảm ôn hòa, thấm thía. Những câu chuyện ông kể ánh mắt điềm đạm nhìn khoảng chân trời xao động, ánh nắng đùa rỡn trong đó như những con thuyền nhỏ rỡn rượt nhau trên hồ nước, cái run rẩy nhè nhẹ của hàng mi... cả cách ông cầm chén rượu uống từng ngụm một, dáng điệu vừa trang nhã vừa kiêu mạn như ông hoàng. Cả cách ông bửa trái cây chín một cách dịu dàng, cách ông nheo mắt lại nhìn vòm lá bên ngoài khuôn cửa chòi... Tất thảy, tất thảy đều chinh phục anh. Đó là một người đàn ông đích thực, một người cha đích thực, cây cổ thụ tỏa bóng hạnh phúc cho bất kỳ ai trú náu. Ngày lại ngày, những ý tưởng đó một sâu đậm hơn. Dù không thú nhận, Cường cũng đã coi ông Hai như người cha đích thực về mặt tinh thần. Và như vậy, anh hãi hùng khi thấy cha đẻ của mình, càng ngày trở nên nhợt nhạt, thảm thê. Anh thương xót lão, anh tự giận mình, tự thuyết phục mình bằng nhiều lẽ, nhưng trái tim anh, như một thứ hướng dương, cứ bị quyến rủ bởi mặt trời ấm nóng của ông già ở bên kia hàng đỗ leo, một người hoàn toàn dửng dưng về máu huyết. Lão Ngạn cảm thấy điều đó, một cách không chắc chắn nhưng hiển nhiên, thiếu bằng cớ cụ thể nhưng lại vô cùng rõ rệt. Lão không dám nói thành lời vì khiếp sợ ông Hai, nhưng trong tâm can, lão thù oán và không bao giờ tha thứ cho ông cái tội quyến rũ Cường. Ngày anh rút đơn ở đại học nông lâm để nộp đơn vào trung cấp hàng hải, ông Hai gọi anh lên chòi uống rượu. Hôm đó trời lất phất mưa, vườn cây chìm trong lớp bụi trắng. Gió ẩm ướt, buồn. Chàng trai ngồi bó gối, bóp mãi những hạt lạc rang cháy trong tay. Ồng Hai lặng lẽ uống hết chén, rồi ông hỏi:

- Cháu đã nghĩ kỹ chưa?

Cường đáp:

- Cháu nghĩ mãi, nhưng không còn đường nào khác?

Ông Hai đăm đăm nhìn mưa, khẽ hỏi:

- Thật à?

Cường đáp:

- Vâng.

Ông rót chén rượu thứ hai, uống một ngụm rồi nói bâng quơ:

- Nghiệp chướng.

Lúc đó Cường không hiểu ông định nói gì... Tới bây giờ anh cũng chưa hiểu. Ông không giải thích gì thêm.

Tới chiều, mưa tạnh, hai người xuống chòi trở về nhà, ông mới thủng thảng nói:

- Người ta, đôi khi nhắm mắt xuôi tay cũng vẫn còn u tối... Chàng trai ngỡ ông nói một câu triết lý chung chung về cuộc đời. Giờ này, Cường sực nhớ. Anh chợt giật mình:

- Có thể là lúc đó ta ngu ngốc, hoặc ta vô tình?...

Làn nước bao la vây quanh con tầu. Nước, nước, không có gì ngoài nước. Biển quạnh hiu đến tê bại cả tâm hồn. Con tầu đi như con thú cô lẻ trên sa mạc. Con thú câm lặng vì nó cũng chẳng thể bỗng dưng gào lên một tiếng khi bốn bề là đại dương câm lặng vây quanh. Trong kia mấy thủy thủ đang ngủ. Số còn lại đánh bài. Giết thời gian buồn tẻ, họ đánh bài ăn tiền, nhưng ăn tiền xu. Mỗi quân ăn một xu, vậy mà suốt ngày dài qua đêm thâu, tuần nọ tiếp tuần kia, tháng này sang tháng khác, có người thua bài phải gán cả xe máy. Đấy là những ngày an lành. Nhưng còn những cơn giông tố, những tai biến của biển khơi...

Nghĩ tới, Cường đã rùng mình. Cơn ám ảnh khủng khiếp nhất với anh, một chàng thủy thủ tồi. Những cái chao lắc ghê rợn, những cơn sóng chồm như thú dữ, tiếng gào hú của gió và sóng, mùi tàu, mùi dây xích gỉ, mùi những bãi nôn... Đó chưa phải địa ngục. Địa ngục của anh là ánh mắt khinh miệt của người đời, lời chửi rủa tục tằn, những bãi nước bọt khạc bắn ra của Đính.

- Đ. mẹ... thủy thủ chó gì thằng ấy? Lúc nào tầu cần, là nó nằm sóng sượt như thây ma.

- Mẹ kiếp sao chúng ta lại phải chịu đựng mãi một thằng thối thây thế này... Các ông báo cáo với tổ chức công ty, đổi lấy một đứa làm ăn được về tàu chứ?

Phải, gã có lý, dù gã ác độc. Anh không phải con người của sóng nước. Thượng đế sinh ra anh không để giao cho những con tầu. Đại dương, tứ thơ của các thi sĩ, niềm ước vọng của nhiều chàng trai, với anh là một sa mạc, chôn rải rác xương cốt của khát vọng sống, ước mơ, niềm tin và ý chí tạo dựng cuộc đời. Cứ mỗi lần va đập với biển, con người thực trong anh lại chết đi một ít.

- Ê, khiêng cho tao cái hòm, Cường.

- Làm sao lúc nào mày cũng như bị ma làm thế, sánh mẹ nó dầu ra ngoài rồi kia kia.

- Cường, tao nghĩ mày sẽ có một cái nghề thực sự dưới tầu này đấy. Nghề giết chuột. Sắm lấy một cái bẫy chuột tốt và chuyển hẳn xuống hầm tầu mà ở.

Một lần, Cường đi xem ca múa trong thành phố. Hôm ấy, người ta biểu diễn chương trình ca nhạc nhẹ. Người giới thiệu chính của đoàn vừa bị đưa tới viện vì bị viêm ruột thừa. Một diễn viên học nghề được cử lên thay. Một cô gái khá cao, lưng hơi hơi gù, có giọng ấm. Có lẽ cô ta là diễn viên thanh nhạc vừa từ trường nhạc nào đó được gửi về. Cô ta chưa quen sân khấu. Và chắc hẳn mãi mãi cô sẽ không quen được sân khấu. Cô bước lên, trước công chúng, với ánh mắt khiếp nhược. Cô không dám nhìn một ai, cũng không dám nhìn khoảng không trung lửng lơ trên đám đông mà dán mắt vào tờ chương trình. Tấm thân thô tháp bó trong bộ quần áo dài trắng, cứng dơ, vụng dại. Dường như vừa đi cô vừa lo âu, vì tấm áo lỗi mốt, vì lưng gù, vì đôi giày gót to quá so với chiều cao của mình... Toàn bộ vẻ thiếu tự tin của cô phô bày không che giấu. Cô cúi chào khán giả, mỉm cười...lập tức công chúng ồ lên:

- Cười với cợt, trông như mếu... Khiếp, sao đoàn này chọn đứa giới thiệu tồi đến thế?...

- Xấu lắm, đọc mau mau rồi biến đi em...

- Tối nay coi như lỗ mất năm xu vì tiết mục giới thiệu.

Không hiểu cô gái nghe rõ những lời phẩm bình tàn nhẫn đó hay chính vì sự khiếp nhược tự thân mà giọng cô run bắn lên, lời nọ nhầm tiếng kia. Dưới ánh đèn, tờ giấy trong đôi tay đánh phấn trắng rung bần bật. Cường nghe rõ từng hơi thở đứt quãng của cô từ máy phóng âm vọng ra. Cô gái chưa đọc hết, vài khán giả lỗ mãng đã vỗ tay đèn đẹt. Cô hoảng hốt, đọc vội vàng cho hết câu rồi chạy vào sau cánh gà. Có lẽ, trong đó cô sẽ gục đầu vào xó tối, khóc tức tưởi. Hay cô sẽ ôm mặt như một con cu ly tội nghiệp để khỏi thấy mọi người?... Chàng trai suy đoán. Anh không còn tâm trí nào lắng nghe các bài hát hoặc xem các cô ca sĩ mới vừa đánh mông toanh toách vừa gào lên một tràng tiếng Anh... Chàng thủy thủ chợt nhận ra chân dung của chính mình qua cô diễn viên xấu số kia... Phải, chính anh cũng thế, anh đã chọn con tầu như cô gái thiếu may mắn kia chọn sân diễn. Giá chi cô hiểu được mình. Cô có thể là ca sĩ dài phát thanh, ca sĩ lồng tiếng cho kịch phim, hoặc đóng các vai múa rối... Bất cứ loại nghề nào chỉ cần tới tiếng hát mà không cần phô diễn thân thể trước đám đông. Nếu thế, rất có thể cô sẽ trở thành người lỗi lạc, với cái giọng trời cho kia. Một giọng nói, chỉ cần nói thôi đã êm mượt như nhung, đã gọi cả một niềm rung động sâu lắng của tâm hồn... Đến tiết mục thứ hai, đoàn ca nhạc đổi người giới thiệu. Một diễn viên múa trong trang phục bước ra. Chị ta khoảng ngót nghét bốn chục tuổi, xuân xanh qua nhưng còn nhan sắc. Vả lại, trời phú cho người đàn bà ấy cái duyên riêng biệt của sân khấu. Nhỏ nhắn, cơ thể tròn trịa, hấp dẫn, gương mặt vui tươi và đầy tự tin chị bước ra sân khấu, chinh phục đám đông từ giây phút đầu tiên. Cường ngắm người phụ nữ ấy, chứng kiến ma lực của chị trên sân khấu, chứng kiến cách chị thụ hưởng thắng lợi của mình như mọi gã đàn ông nhấm nháp một chén rượu hoặc rít một hơi thuốc ngon. Anh thương cô gái thất bại, như thương chính mình. Cường bỏ ghế, vòng ra phía sau sân khấu, với ý định tìm cô để ngỏ một lời cảm thông, để chia xớt nỗi buồn. Nhưng bản tính nhút nhát, vơ vẩn một lát trong hành lang rồi anh lại quay ra cửa, bỏ về...

Đêm ấy, Cường đã đi lang thang mãi trước khi xuống tầu. Gương mặt thất thần của cô diễn viên xấu số ám ảnh anh. Gương mặt của chính định mệnh ám ảnh anh. Cây cầu tầu run rẩy, những làn sóng ngoằn ngoèo như lũ rắn màu chì, những vỏ hộp đồ ăn, vỏ trái cây, bao thuốc và rác rền dập dềnh trên mặt nước sặc mùi dầu. Gió mặn ngoài khơi thổi về, kéo dài rộng mãi một chân trời hiu quạnh... Cường lại nghe tiếng cười của Đính từ phòng nào đó vọng ra:

- Quy nhép, bê lên... Chết cha mày rồi nhé... Nào, bốc đi xem được quân gì?

Tiếng Tuấn hói tiếp theo:

- Được rồi, nhưng hết ván cũng nghỉ thôi. Nhanh thật, mười một giờ kém ba phút... Ông Bá này, thằng Cường chưa về à?

Bá đáp:

- Chắc thế, nó bảo tôi là đi xem.

Đính lại quật lá bài xuống chiếu cười hô hố:

- Át bích hết đường lui chưa?... Thằng Cường đi xem à?... Hôm nay con gián của hai ông bò khỏi cống. Bão cấp chín đến nơi rồi đấy.

Bá bảo:

- Đánh tiếp đi, đừng nói nhiều.

Đính cười to hơn, giọng châm chọc:

- Sao, cứ động tới thằng mọt sách ấy là ông lại nhảy dựng lên với tôi?... Tốt hơn cả ông sắm cho nó một cái bẫy chuột và bảo nó ôm chăn chiếu xuống ở dưới hầm tàu. Sáng kiến của tôi hợp lý quá phải không?... Ha ha ha... Hơ hơ hơ...dũng sĩ diệt chuột, huân chương kẽm của tàu An Khánh đơn vị được kế thừa tên tuổi chiến hạm Pô-chôm-kin...

Tiếng cười của gã ném vào không trung, va đập vào các vách tường vang lên như đá lở. Gió bỗng thổi lồng lên như lũ ngựa hoang. Trong hơi gió ẩm ướt làm sởn da thịt, chàng trai thấy gương mặt của cô đơn, của bất hạnh... Gương mặt đối diện với anh, gã trai hèn kém, nhẫn nhục - kẻ cứu chuộc thân phận bằng sự cam chịu, bằng cách chấp thuận tình thương bố thí của người đời... Có thể, có những lối rẽ khác trên mặt đất này chăng?... Có thể, có những phiên bản khác cho một số kiếp chăng?... Cô ca sĩ Trương Chi kia, giá đừng bao giờ bước lên sân khấu. Còn anh, giá anh không trở thành một thủy thủ hạng bét như bây giờ?...

“Con ơi...

Đã bao nhiêu lần cha anh rên rỉ: Hãy nghe lời cha, phải nuôi chí lớn... Như ông nội ngày xưa, lừng danh khắp cõi. Mỗi bận ông từ cảng trở về, cả thành phố trầm trồ. Ông mặc đồng phục dạ xanh, vai đeo ngù, mỏ neo vàng dính trên mũ. Năm chiếc xe Xi-tờ -rô-oen mới chở hết quà... Bao giờ con nối được nghiệp ông, ba con ta sẽ quay về thành phố, dựng lại tòa nhà xưa..."

Tương lai người cha đã định đoạt cho anh giống con tàu trắng cuối chân trời, đẹp nhưng lạnh lẽo, huyền hoặc. Từ giải bờ ấm nóng này tới con tàu xa cách ấy phải vượt qua cả một đại dương. Anh sợ sóng, sợ bão, sợ làn nước man trá lừa lọc.

“... Ba ơi, tại sao cha con ta không thể sống yên vui như mọi người. Một mái nhà, một nghề nghiệp lương thiện và chắc chắn, tiếng đứa cháu nhỏ reo cười trước mảnh sân, mùi thơm của trái vườn... Con sẽ luôn ở bên cha, những ngày hạ oi nồng nhiều giông gió, những ngày mưa... Ba không còn đơn chiếc, con cũng không lẻ loi... Tại sao ba không chấp thuận một hạnh phúc an nhiên như thế?... Ba hãy quên giấc mơ thủy sư đô đốc kia đi... Chúng ta sẽ tìm được bao nhiêu niềm sung sướng...”

Anh thấy Lão Ngạn chồm tới, gương mặt ủ ê chợt vằn lên những đường gân:

“... Một là mày chết, hai là mày phải trở thành thủy sư đô đốc, đưa dòng họ Phạm đến hiển vinh. Tao không thể sinh ra một đứa con hèn kém, an phận thủ thường...”

Chàng trai ôm mặt. Anh chợt choáng váng như người đang leo dây qua vực, nhìn xuống khe sâu hun hút dưới chân. Tiếng cười vang vang của ông thủy sư đô đốc từ cõi vĩnh hằng vọng về:

- Chào cháu... Mày là kẻ sẽ kế nghiệp ta trong dòng họ Phạm phải không?... Ha ha ha...

Cường ngước mắt nhìn ông, một người khổng lồ mặc đồng phục xanh, mũ xanh đính mỏ neo vàng, ve áo cổ cũng gài chiếc mỏ neo nạm kim cương, bộ mặt rực rỡ, mắt sáng như sao:

- Lại đây, chàng thủy sư đô đốc tương lai...

Ông cất tiếng gọi oang oang. Cường khiếp sợ cất tiếng kêu:

- Không, xin ông tha cho cháu...

Chàng trai muốn nói rằng mình không thể gánh cái khát vọng kinh hoàng đó, cái trách nhiệm vinh quang nhưng quá ác nghiệt, rằng anh muốn sống như tất cả những con người bình thường đã được sinh ra trên cõi đất, anh muốn...

Nhưng Cường líu lưỡi, không nói hết câu.

Điệu cười ha hả của ông thủy sư đuổi theo anh, cái bóng khổng lồ của ông trùm lên mọi ngả đường. Chiếc mỏ neo nạm kim cương óng ánh trên ve áo. Ông, con người ngạo nghễ nhất sáu tỉnh trong vùng, hiện thân của chiến thắng và vinh hiển. Ông sải chân, bước những bước dài trên mặt đất:

- Đừng bỏ chạy... Đứng lại, mày sẽ là kẻ kế nghiệp ta...

Ông nhấc chiếc mũ đô đốc khỏi đầu mình, chụp lên đầu đứa cháu trai. Cường kinh hãi thét lên:

- Cháu xin ông, cháu không thể... Cháu không xứng đáng.

Nhưng ông không nghe anh nói, ông đã bỏ đi, những bước chân gõ nhịp nhàng trên đường chân trời rồi khuất lấp sau đám mây trắng. Chiếc mũ của ông vẫn còn trên đầu anh, lạnh toát và nặng như chì. Chàng trai bủn rủn chân tay, anh vội lên gân dựng cứng sống lưng chạng hai chân lấy thế chống đỡ. Chiếc mũ thủy sư lạnh như tảng băng nhấn chìm anh xuống bằng sức nặng yêu ma của nó, mỗi lúc mỗi sâu hơn. Đất dưới chân chàng trai đã hóa đầm lầy...

- Cứu tôi với.

Cường hét to. Hai tay đưa lên gỡ chiếc mũ. Nó đã thít chặt đầu anh như vòng kim cô của Đức Phật Tổ chụp lên đâu Tôn hành Giả.

Mồ hôi Cường chảy đầm đìa. Anh cố vẫy vùng lần nữa:

- Cứu tôi với...cứu tôi...

Nhưng bốn bề hoang vu, không một bóng người. Và chàng trai chìm dần xuống mặt bùn.

-...Ha ha ha...hôm nay ông Bá có thần tàu phù hộ...

Tiếng cười của ca sĩ Tuấn hói vọng từ đám đánh bài ra. Cường giật nảy mình, đưa tay lau mồ hôi trán... Một cơn mê giữa ban ngày, một giấc mê chính ngọ...

Tiếng Đính quát:

- Chia bài đi... A, đứa nào còn thịt bò sấy đem ra một túi, vừa đánh bài vừa nhai thịt nghe có lý hơn...

Đám người vui vẻ lại tiếp tục. Xung quanh, đại dương tĩnh lặng đến không cùng. Làn nước trải tới chân mây như tấm thảm kỳ bí, ánh tà dương lấp sau các tầng trời. Vài con chim âu nặng nè sải cánh bay qua... Chưa bao giờ mình cô đơn như lúc này... Cường nghĩ. Anh cầm cuốn truyện lên, vùi dầu đọc tiếp. Nhưng những dòng chữ cứ trượt hoài khỏi mắt... Mái nhà ấu thơ, tiếng lục lạc xe thổ mộ gieo trong phố vắng, giải đồi đan tiêu như đám lửa nô rỡn n?