← Quay lại trang sách

Chương 6

Quãng này bờ biển vắng, khách du lịch và đám người tắm biển không xuống tới đây. Bãi cát vàng xỉn, nhiều sỏi không trắng và mịn như quãng trong thành phố. Gai trinh nữ bò từng đám, tới gần mép sóng. Những ngôi nhà nện đất thó nung lẫn đá hộc của dân chài tụ thành từng khóm, các hàng rào nứa bao vây một cách cẩu thả, phía trong là những mạn ván thủng kê nghiêng nghiêng làm bàn đổ đường. Ở đây ngoài nghề chài lưới người ta còn nấu đường mía và mật. Lúc này, các lò đường tạm nghỉ nên đỡ ruồi. Chỉ có nhặng vo ve không mệt trên những vại hoặc chum đựng mắm cá.

Giữa những khóm nhà dân chài, mọc lên vài quán ăn lụp xụp. Thường chúng thưng bằng gỗ, lợp lá. Mùa đông, chủ quán treo thêm những mảnh ni-lông hoặc tôn cũ rỉ. Quán ăn nhưng có cả nước trà và kẹo bánh. Cả thông phong đèn, bấc đèn, xà phòng, dấm chua nước mắm hoặc xì dầu... Tóm lại một thứ cửa hàng tạp-pí-lù theo tiếng gọi của người Tàu, để phục vụ đám thanh niên chưa vợ con trong các xóm chài, và những cặp tình nhân muốn tìm nơi vắng vẻ. Bích đã hẹn Trọng chờ cô trong một cái quán loại như thế, có cái tên mĩ miều: Lan Hương. Một chiếc mẹt cũ treo toòng teeng trên cây cọc tre, kẻ dòng chữ vôi ngoằn ngoèo:

Lan Hương,

Có đồ ăn và giải khát,

Hàng tiêu dùng.

Trước quán, một chậu cây xương rồng không có hoa. Một con chó mực gày nhom, mắt toét nằm thiu thiu ngủ ngay dưới chậu cảnh. Chủ quán, một người đàn bà lép dẹp, có đôi mắt sắc như dao ngồi sau tủ kính bày thuốc lá và bánh kẹo:

- Anh cần gì ạ?

Bà ta hỏi Trọng, vừa lê đôi dép nhựa mòn vẹt tới gần anh. Trọng tìm một chiếc ghế đẩu tựa vào vách quán, sát cửa sổ. Ở đấy, anh nhìn thấy biển.

- Bà bán những gì?

Người đàn bà liếc nhìn Trọng, đáp gọn lỏn:

- Gì cũng có.

Đọc được vẻ nghi ngờ trong mắt anh, bà ta tiếp luôn:

- Đồ nhắm. Rượu các loại: từ rượu quốc lủi tới Mác- ten, Na-pô-lê-ông, Bờ-lách. Bia hộp ngoại. Nếp đen... Anh muốn thứ gì?

Giọng tự tin của chủ quán khiến anh càng hồ nghi. Trọng hỏi:

- Bà lấy hàng ở tận đâu?

- Ở đây.

Bà ta đáp lại, giọng rắn như sành.

Trong túi Trọng có cả một mớ tiền lương, tiền thưởng, tiền mẹ anh vừa gửi bưu điện vào. Anh nói:

- Cho tôi vài hộp bia.

- A-sa-hi chứ?

- Vâng. Bà có đồ nhắm gì?

- Đặc sản: Cua biển luộc, tôm he bóc nõn tẩm gừng rang ngọt. Cả lạp-sường, mực khô. Lạc rang trong tủ kia.

- Bà làm một đĩa tôm he xem sao.

Anh chưa uống bia với món tôm này bao giờ. Quán trông xoàng xĩnh quá. Nhưng người ta bảo anh rằng những quán hàng vẻ nhem nhuốc thường lại có các món ăn ngon. Ngay ở thành phố, những hiệu cao-lâu của người Tàu trong phố cổ, vừa chật hẹp tối tăm vừa bẩn, lại là những cửa hiệu rút tiền túi khách ăn chơi như vơ vỏ sò.

Bà chủ quán đi tới chiếc giường kê sát vách gỗ, cuốn chiếu lên. Ném chiếc chiếu đã cuộn gọn xuống dưới sàn nhà, bà lật tấm ván. Hóa ra đó là chiếc hòm khổng lồ, vừa làm sập ngủ vừa làm kho chứa hàng. Trọng thấy trong đó tất cả những thứ bà chủ đã xướng lên với anh. Bà chủ nhặt lấy ba hộp bia, phủi bụi, xếp lên bàn. Rồi, thận trọng đậy mảnh ván lại, trải chiếu như cũ. Xong xuôi, bà mang bia tới cho anh, cùng với một đĩa lạc rang và chiếc cốc:

- Anh nhấm nháp tạm vài hột lạc, chờ tôi rang tôm. Nhanh thôi...

Bà vào gian bếp phía trong, ngăn cách với gian ngoài bằng tấm mành tre cũ. Trên tấm mành tre, có treo ảnh một cô đào hát, có lẽ là ảnh bóc ra từ cuốn lịch treo tường cũ. Khói ám vào gương mặt mĩ miều. Những vết cứt ruồi lấm chấm đen bám dầy tấm áo lụa hồng sang trọng và ba chuỗi hạt trai quấn quanh cổ cô. Trọng mở bia, uống một ngụm nhỏ. Anh nhấm phải viên lạc mốc, đắng cả lưỡi. Cô đào hát trong tấm ảnh nhìn anh bằng đôi mắt tô vẽ, đắm đuối một cách gượng gạo. Người đàn ông quay nhìn ra mặt biển, nỗi buồn dâng lên. Lát sau, bà chủ quán bưng lên một đĩa tôm rang ngậy mỡ và nước ớt, thơm ngào ngạt. Món nhắm mới lạ cũng không còn quyến rũ được anh.

Anh nhìn giờ lâu làn nước biển vô tình, không xao động, không thay đổi. Ngay những con sóng uốn lượn ven bờ cát cũng nhàm chán. Bà chủ quán lê dép lẹp kẹp phía sau:

- Anh thấy món tôm ngon chứ?

- Vâng.

Trọng đáp, hững hờ.

Bà ta hỏi, mắt nháy một cách tinh quái:

- Chắc anh chờ chị ấy, đúng không?

- Vâng.

Trọng đáp lần thứ hai, bỗng dưng khó chịu với bà ta. Phải, chẳng gì che dấu được cặp mắt sắc như dao kia. Loại quán này chỉ dành riêng cho những cặp tình nhân vụng trộm, những kẻ không dám công nhiên sống cùng nhau giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt người đời... Bích đã hẹn anh ở đây. Phải chăng nơi cô đã từng quen thuộc? Cái xó hẻo lánh không ai ngờ tới được trong thành phố. Một thoáng ngờ vực khiến tim đau nhói. Trọng hớp một ngụm bia lớn, vị đắng đọng lại nơi cuống họng. Anh vô tình dằn hộp bia quá mạnh, khiến chiếc cốc thủy tinh đặt cạnh đó lăn xuống vỡ tan.

Bà chủ quán cười, tươi roi rói.

- Không sao đâu. Thế là điềm lành. Người ta bảo rằng ở bên Tây tiệc càng vui họ càng đập vỡ nhiều các chén...

Bà cúi xuống, lượm những mảnh thủy tinh vỡ bỏ vào tấm tôn hốt rác, rồi đem ra phía sau. Khi bà ta đi, Trọng thấy lưng bà thẳng đứng lên như cột sống của bà không cấu tạo bằng các đốt xương mà bằng cây thép cứng. Ném các mảnh thủy tinh vào sọt rác, bà quay vào, kéo ghế ngồi trước mặt Trọng:

- Nếu anh không phiền lòng, tôi sẽ tiếp anh một lúc. Bờ biển này vắng lắm, ngày chỉ vài lượt khách tới thăm. Nhưng đã tới quán, chí ít cũng phải ngồi vài ba giờ đồng hồ...

Tới đó, bà móc trong túi áo cánh một nắm hạt bí, bắt đầu cắn. Vẻ tự nhiên của bà ta khiến Trọng không còn bực. Vả chăng nhìn mãi làn nước bất biến ngoài kia cũng mỏi mắt. Anh chọn vài hạt lạc chưa xám vỏ, nhấm nháp:

- Vùng này, ngoài quán Lan Hương tôi còn thấy năm sáu quán khác. Kiếm đâu đủ khách mà người ta mở nhiều như vậy?

- Đủ chứ. Anh tưởng vậy thôi. Chúng tôi chờ đón khách đêm. Đám dân buôn hàng chuyến từ thành phố ra hoặc từ nơi khác đến. Đám thủy thủ dưới cảng lên, cả đám con gái vô nghề nghiệp.

- Họ tới đây làm gì?

- Ngồi cắn hạt dưa, hạt bí. May mắn thì vớ được món tình nhân nào đấy. Không may thì qua đêm kiếm ít hào độ nhật.

- Thật xấu xa. Sao họ không chịu lao động?...

- Chẳng biết. Cũng có thể vì lười. Nhưng đa phần chúng là con nhà tử tế...Người tử tế cũng sa ngã được chứ anh?

- Tôi không nghĩ như vậy.

- Vâng... Nhưng nếu anh cũng rơi vào tình cảnh như chúng nó. Muốn đi buôn không có vốn, cũng chẳng có nghề. Muốn học cao lên không được tuyển chọn. Muốn kiếm chân thư ký hoặc văn thư trong cơ quan, xí nghiệp lại không có ai bảo đảm hoặc không có tiền đút lót. Ở thành phố này thứ con gái đó thừa hàng đống. Đứa nào đủ sức mạnh, đủ can đảm thì xin ở mãi đơn vị thanh niên xung phong hoặc công trường. Đứa nào ốm yếu, không chịu được khổ thì ra đường, vào quán.

Người đàn bà nói với giọng đều đều, bình thản, không nhìn anh. Chị ta ngó ra ngoài ô cửa. Gió biển bắt đầu thổi dữ, đập phần phật vào mái lá. Tấm mẹt trên cây cọc trước cửa quán vật vã. Con chó mực nghe gió lồng, đứng dậy sủa vu vơ vài tiếng. Sau đó, nó lại nằm xuống, gếch đầu lên chân lim dim cặp mắt toét. Bà chủ quán, sau hồi im lặng, buông tiếng thở dài. Trọng hỏi:

- Nhà chính của bà ở gần đây không?

- Có chỗ này thôi,- Vừa là quán bán hàng, vừa là nơi ăn ngủ.

- Ông nhà và các cháu cũng ở cả đây?

Trọng đưa mắt kín đáo liếc gian hàng chật hẹp. Duy nhất một nơi có thể nằm ngủ, là chiếc hòm khổng lồ chứa hàng trên ván trải chiếu hoa. Người đàn bà vẫn ngó ra ngoài biển, đáp:

- Chết cả rồi.

- Sao cơ?

- Đắm tầu.

- Họ đi đánh cá?

- Không. Vượt biển.

- Di tản?

- Vâng.

Trọng sửng sốt. Trước đây, anh hình dung những người vượt biển di tản ở phía Nam thường là những phần tử có nợ máu, hoặc dính líu sâu sắc với chính quyền cũ, hoặc lớp tư sản quen ăn trên ngồi trốc, khó hòa nhập vào cuộc sống mới. Ở miền Bắc, anh hình dung những người đó là loại đầu trộm đuôi cướp, bị truy nã, hay loại cán bộ cao cấp thoái hóa sau khi ăn cắp hoặc ăn hối lộ một khoản tiền khổng lồ, không thể sống yên ổn với luật pháp. Anh thầm kín đưa mắt liếc nhìn người đàn bà. Mặc dù đôi mắt sắc như dao cau, chị ta vẫn chỉ là một phụ nữ bình thường như nhiều phụ nữ anh đã gặp. Gương mặt, đôi vai gầy, hai bàn tay nổi những đường gân nhọc nhằn, dấu vết không dấu được của một thời gian khổ. Mái tóc chải gọn, búi thành lọn phía sau. Những vết tàn nhang lấm chấm trên hai gò má.

Sau một lát e dè, Trọng hỏi:

- Tại sao ông nhà và các cháu đi mà bà ở lại?.

- Không...

Người đàn bà lắc đầu:

- Lúc đó tôi không ở nhà. Nếu tôi ở nhà, mọi sự sẽ khác.

- Vì sao?

- Vì tất cả cha con họ, không ai muốn trái ý tôi. Mà tôi chẳng bao giờ bỏ đất này đi cả. Tôi có bà mẹ già dưới quê, cách thành phố ngót nghét năm chục cây số.

- Vậy lúc ông nhà và các cháu ra đi, bà còn ở đâu?

- Tôi đang làm ăn xa, tận biên giới Việt-Lào. Niêu cơm của cả nhà trông cậy vào cái tay nải hàng của tôi. Chúng tôi có năm người, toàn những kẻ long đong lận đận kết nghĩa chị em cùng hội buôn bán. Dạo ấy, chúng tôi đang chạy qua biên giới phía Tây. Hàng từ Lào về lãi nhất là đồng hồ đeo tay, quần áo bò, mì chính, áo phông... Hàng đem đi có nhang thơm, giấy bản Tầu, đồ hàng mã cao cấp, các loại vòng trang sức thật và giả. Thường, chúng tôi chỉ đi ô tô tới một thị trấn cách biên giới hai chục cây. Ở đó, ngủ trọ qua đêm. Sớm sau, thuê người địa phương dẫn tắt qua rừng, tránh đồn biên phòng và cửa khẩu. Không phải nộp thuế cửa khẩu, một chuyến hàng đủ nuôi chồng nuôi con vài tháng. Phải cúng cho mấy cha đẻ ở đấy, coi như đi công không. Vì thế, dù trèo đèo lội suối, vất vả mấy chúng tôi cũng tìm đường tắt qua rừng...

Chuyến hàng ấy, thằng bé dẫn đường bị ốm, phải nhờ người mới. Đó là một đứa con gái tuổi ngoài hai mươi, xinh xắn nhưng hơi đần. Đã hơn năm nó không qua rừng nên quên những lối đi hiểm. Nó chỉ thuộc đường chính, khá phảng phiu nhưng dễ lộ. Chúng tôi đụng toán bộ đội tuần tra, phải chạy tháo thân. Năm chị em mỗi người mỗi ngả. Nải hàng của tôi rất nặng nên tôi chạy chậm. Trong giây lát tôi chỉ còn lại một mình. Tiếng của đám người tuần tra đã nghe sát rạt ngay sau lưng. Hoảng quá, tôi vượt liều qua vực. Rồi tôi lăn xuống đó, mê man. Chị em cùng hội buôn tưởng tôi đã chết, về báo tin với gia đình.

- Tại sao ông nhà và các cháu không đi tìm bà?

- Họa có trời mới tìm nổi đường đi của loại dân buôn hàng chuyến. Đến chính chúng tôi cũng không đoán được trước đường đi từng đoạn chuyến hàng của mình. Nay lối này, mai lối khác, tùy theo người dẫn đường, tùy theo sự thay đổi của các toán lính tuần tra và cửa khẩu...

Đường chúng tôi đã đặt chân tới là thứ đường hiểm, cái chết cái sống kề nhau như hai chị em sinh đôi. Cái nghề của chúng tôi phiêu lưu lắm... Đàn bà con gái bình thường chẳng ai dám dấn thân vào.

Trọng mỉm cười:

- Nhưng trông bên ngoài, bà cũng chỉ là phụ nữ chân yếu tay mềm thôi.

Người đàn bà cũng mỉm cười đáp lại:

- Vâng. Nhưng tôi đã tới bước đường cùng. Đã tới bước cùng, thì con thỏ cũng trở thành sói độc... Tôi đã nói với anh rồi, niêu cơm của cả sáu cha con nó trông vào tay tôi. Một là nuôi nổi chồng con, hai là cùng chết. Tôi nghĩ thế. Nghĩ thế, khắc đủ can đảm làm mọi việc, trừ việc vô luân bại lý, ích kỷ hại nhân. Chuyến đó, cha con nó tưởng tôi chết, nên đắp mộ giả trong vườn, làm ma chín ngày liền. Sau đó, họ đi.

- Còn bà?

- Tôi mê man dưới vực hai ngày đêm. Ngày thứ ba, có người trong bản đi săn, bắt gặp. Ông ta hú gọi đứa con trai và người bạn phường săn tới. Họ khiêng cả tôi lẫn nải hàng về nhà, đổ thuốc nuôi dưỡng. Hơn tháng sau tôi mới lành bệnh, nhưng từ đó sống lưng bị tật, cúi xuống đau nhói như kim đâm, còn đi đứng thì thẳng đuỗn như bị cột chặt vào cây gậy. Nhưng tôi không oán trách gì trời đất, sống được cũng là may. Chuyến hàng ấy tôi được mẻ lãi to. Tôi biếu người thợ săn một nửa, một nửa đem về, ước tính mở một cửa hàng bán đồ khô và sửa lại mái nhà. Về đến nơi, nhà đã có người khác ở, chồng con mất tăm mất tích. Người chủ mới bảo tôi: “Ông ấy khóc mãi, khi nhận tiền bán nhà. Rồi sáng hôm sau, cha con kéo nhau đi sớm, nói là về quê. Tôi ngờ ông ấy về quê thật. Được mười hôm, công an thành phố thông báo là hai chuyến vượt biển, mỗi thuyền trên bốn chục người đã gặp bão đắm. Xác những thuyền nhân dạt vào các hòn đảo xung quanh... Đời người, sinh ly, tử biệt là lẽ thường. Nhưng cái tang của bà lớn quá, ai cũng ngậm ngùi thay. Giờ, bà có muốn lấy lại ngôi nhà, tôi xin chấp thuận...”

Bà ta ngừng lại vài giây, rồi tiếp:

- Ông ta tốt quá, phải không anh?... Nhưng tôi làm sao sống được trong căn nhà ấy... Tôi cảm tạ từ tâm của người đàn ông. Ông ta cũng góa vợ, chưa có con. Ra đây, mở quán bán hàng.

Dứt lời, người đàn bà đứng lên, thắp que nhang mới cắm vào bình hương trên bàn thờ. Lúc ấy, Trọng mới để ý đến cái bàn thờ gỗ đặt trên nóc chiếc tủ nhỏ, phía sau tấm mành.

Trên bàn thờ, đặt tấm ảnh phóng to của cả gia đình chủ nhân: Hai vợ chồng, năm đứa con trai vây quanh, tất cả các gương mặt đều tươi tắn, tràn trề tình tương thân tương ái... Chúng ta yêu nhau, chúng ta sống vì nhau, chúng ta đã có nhau trên cõi đời - điều đó đã là đủ, điều đó cao hơn mọi thứ. Dường như những con người ấy nói với anh như thế. Người đàn bà quay ra, mở tù lấy một bao thuốc, một phong bánh đặt lên bàn thờ, cạnh đĩa cam đã héo vàng. Trọng hỏi:

- Bà không kiêng ư?... Trong tấm ảnh đó còn có cả bà.

Người đàn bà lắc đầu:

- Cần gì mà phải kiêng?

Câu nói đó nghĩa như một lời thề độc: Cuộc sống hiện tại được đánh giá ngang bằng với cái chết. Trọng bất giác rùng mình, nhìn bà ta, gương mặt bà ta có gì khác biệt đâu... Một ý tưởng ập tới, anh không kịp đắn do đã buột miệng nói ngay:

- Chắc ông nhà phải yêu bà ghê gớm lắm?

Bà ta quay lại, nhìn anh có phần ngạc nhiên. Có lẽ, ít ai dám buông một câu hỏi suồng sã như vậy, nhất là khi mới gặp nhau. Trọng nóng hai tai, thầm nghĩ: Mình thật bậy, ăn với nói... Nhưng vẻ chân thành trên gương mặt anh đã thuyết phục người đàn bà. Bà nhìn Trọng chăm chú, ánh mắt trở nên ấm áp, tin cậy hơn:

- Vâng. Ông ấy yêu tôi lắm. Vì thế, tôi sẵn sàng chịu đựng mọi thứ.

Rồi sau khi đắn đo vài giây, bà thong thả nói tiếp:

- Anh đừng nghĩ rằng từ lúc cha sinh mẹ đẻ tôi đã là bà chủ quán hay người đi buôn chuyến như bây giờ. Tuổi trẻ tôi đã từng cố một thời thơ mộng sôi nổi. Mười sáu tuổi, đang học dở lớp mười, tôi bỏ vào văn công. Trước ngày vào đoàn, tôi về quê nói với bố mẹ rằng tình nguyện nhập ngũ. Bố mẹ tôi làm ruộng, gia đình căn cơ ngăn nắp, chỉ thích con gái con trai vào công nhân nhà nước hoặc vào bộ đội. Các cụ ghét nhất cái nghề xướng ca vô loài. Tuy thế, nghe tôi bỏ học bố tôi vẫn nghiêm giọng mắng:

“Đẻ mày bằng cái chai, cơm nhai sữa bú tới bây giờ mày dám tự quyền định đoạt, không hỏi qua chúng tao một câu, phải không?...

Tôi xoa dịu ông cụ một cách dễ dàng. Bố tôi quý tôi nhất trong ba đứa con, có lẽ vì hợp tính. Tôi chơi với đám bạn chăn trâu thủa nhỏ vài hôm, thăm thú chú bác họ hàng, rồi bố mẹ tôi thịt vài cặp gà thiến làm bữa cơm liên hoan cho tôi lên đường. Đoàn văn công của chúng tôi là Đoàn văn công quân khu. Tính về mặt công dân, chúng tôi được coi như người lính thật sự. Dạo đó, các đoàn chỉ có một số diễn viên được đào tạo chu đáo tại các trường nghệ thuật, họ làm nòng cốt trong các chương trình biểu diễn và cũng là người kèm nghề cho loại diễn viên tuyển ngang như tôi. Thời kỳ tập sự mười tám tháng. Nhưng tôi có năng khiếu, nên được tham gia biểu diễn sớm hơn lứa bạn cùng nhập đoàn.

Tôi là diễn viên múa. Chúng tôi biểu diễn múa Rồng- chiêng. Múa Ca-tu, Múa Chàm rông, Múa sạp, Múa nón...

Sau, người ta còn lấy nhạc những bài hát như “Tiếng đàn Ta Lư” hoặc “Cô gái Pa-cô” để soạn thêm các điệu múa khác. Ngoài các tiết mục múa, tôi tham gia đồng ca, tốp ca, có lúc đóng cả vai người giới thiệu tiết mục. Chồng tôi lúc ấy là nhạc công. Anh ấy học vĩ cầm tại trường nhạc trung ương, vừa tốt nghiệp trung cấp xong đã mặc áo lính về đoàn. Theo nội quy, trong thời gian phục vụ quân đội chúng tôi không được quyền yêu đương. Anh ấy, ba năm. Tôi, tính thêm mười tám tháng thực tập. Các buổi họp hành, trưởng đoàn đều nhắc đi nhắc lại nội quy và các hình thức kỷ luật đi kèm với những trường hợp phạm quy nặng nhẹ. Lúc ấy, yêu là trọng tội vì nó ảnh hưởng tới khả năng lao động nghệ thuật. Nhưng trong đám chúng tôi, chẳng mấy ai tránh được trọng tội ấy. Cách này hay cách khác, giấu diếm, thầm lén, vụng trộm, tự khắc chế...thì tình yêu cũng cứ đến. Tuổi trẻ với tình yêu như hai mảnh của cặp cá thờn bơn, làm sao tách được?... Nhiều người yêu nhau, trong đó có chúng tôi. Nhưng họ may mắn hơn chúng tôi vì họ không lọt vào mắt lưới của trưởng đoàn. Tôi chưa nói với anh về trưởng đoàn văn công quân khu ấy, ông ta mang hàm đại tá, vốn xuất thân là thợ in li-lô của phòng chính trị quân đoàn thời kháng Pháp, sau này theo thâm niên mà leo lên. Ông ta có bà vợ răng đen, váy ộp ở Hà Nam Ninh, vùng chiêm trũng. Cả đoàn, chỉ lái xe là được biết mặt bà ta. Thủ trưởng giấu vợ như mèo giấu phân, cả hai đứa con gái xấu như dạ xoa ông ta cũng không cho lên chơi đoàn... Không may cho chúng tôi, con người khe khắt ấy, ông đại tá mở miệng là phổ biến các loại nội quy và kỷ luật ấy lại yêu tôi. Ông ta kín lắm, nhưng cũng chẳng giấu được. Có lần, đoàn tập trung chỉnh quân tập luyện chương trình mới. Chúng tôi ở tại ký túc xá của một trường nghệ thuật quân đội. Doanh trại toàn nhà ngói một tầng, chia từng phòng nhỏ. Trưởng đoàn gọi tôi lên phòng riêng. Sau một hồi hỏi chuyện cha mẹ, anh em, giống như làm thủ tục khai lý lịch, ông ấy vội cúi xuống, nhét vào tay tôi một gói táo Tầu: "Em đem về...về bồi dưỡng...”

Ông ta thì thào, hơi thở nóng như lửa, mùi thuốc lào nồng nặc. Tôi chỉ dám đáp lí nhí: "Cảm ơn chú.”

Rồi chạy một mạch về phòng. Linh tính báo cho tôi biết sự chẳng lành sắp tới. Nhưng phần vì xấu hổ, phần vì sợ, tôi không kể lại điều đó với người yêu. Hôm sau, thấy tôi xanh xao, anh hỏi: "Có chuyện gì thế em?...”. Tôi đáp liều: “Em nhớ mẹ; suốt đêm không ngủ được...” Ngay buổi trưa hôm ấy, ông trưởng đoàn đi qua phòng chúng tôi, nói chõ vào: Đầu giờ chiều lên chú gặp." Lúc ấy tụi con gái chúng tôi đang ăn cơm. Mấy đứa lè lưỡi bảo tôi: "Chết cha rồi. Có chuyện gì thế?...” Tôi cúi mặt và cơm, đáp: "Không biết” Tim tôi thót lại vì sợ. Buổi chiều, cả đoàn lên phòng tập chương trình mới. Phòng tập ở cách gian buồng của ông trưởng đoàn ngót nửa cây số. Nói dại, nếu xảy ra sự gì, không biết tôi sẽ chống đỡ làm sao?... Trưa, lũ bạn ngủ ngon lành. Tôi buông màn nằm, nước mắt chảy ướt hai thái dương. Kẻng đầu giờ chiều, mọi người lên sàn tập, một mình tôi đi xuống phòng thủ trưởng. Ông ấy đã chờ tôi trong đó. Ông mặc dạ phục, đi giày sĩ quan bóng, đầu chải mượt, râu cạo nhẵn, còn đôi vết sứt lấm tấm máu đọng dưới cằm. Đến cả sợi râu mọc ngược trên cổ, chỗ gần yết hầu, ngày thường ông ấy để dài bằng que diêm hôm ấy cũng bị cạo nốt. Ông ấy còn bôi dầu thơm vào tóc, thứ dầu sả mùi nóng sực cả căn buồng... Không hiểu vì đâu, vừa nhìn thấy bộ dạng ông ấy như thế, hai đầu gối tôi đã khuỵu xuống. Tôi ngã quỳ ngay trước cửa buồng. Ông ấy chạy tới đỡ tôi lên, miệng rối rít: “Cháu làm sao?... Em, kìa làm sao thế?...” Tôi không nói được lời nào vì quá sợ. Nước mắt cứ thế trào ra. Ông ấy vực tôi ngồi lên ghế, thì thào: “Đừng sợ, đừng sợ... Lặng yên nghe anh nói...đừng...”. Hơi thở ông ấy thật kinh tởm, vừa nóng vừa hôi phả vào mặt tôi. Hai tay ông ấy vuốt tóc, vuốt má rồi lần xuống bả vai tôi. Lúc ấy tôi ngồi cứng như khúc gỗ, không biết gì. Nhưng khi cái cằm nham nháp của ông ấy áp sát vào mặt tôi, thì tôi chợt tỉnh. Tôi vùng đứng lên, xô ông ấy ngã ngửa xuống sàn rồi chạy ra cửa. Cứ thế, tôi cắm đầu chạy một mạch về phòng, vùi đầu vào đống chăn khóc. Khoảng hai giờ đồng hồ sau, tôi sợ mọi người đi tập về biết chuyện nên buông màn kín mít, nằm trùm chăn bên trong. Đám bạn gái trở về hỏi: “Sao vậy?” Tôi đáp: “Sốt”. Chúng cười: “Bị thủ trưởng cạo gáy phải không?.. sốt ăn cơm hay ăn cháo đấy? Tôi đáp: "Không ăn gì. Để cho tôi nằm yên...". Dạo ấy, chúng tôi sợ thủ trưởng lắm. Tương lai, sinh mạng của chúng tôi các ông ấy nắm trong tay. Nhất là thứ diễn viên tập sự như tôi, chưa được biên chế chính thức... Mọi người đi ăn cơm hết cả, tôi mới ngồi dậy lấy khăn ướt lau mặt. Vừa lúc, người yêu đến. Mặt anh ấy tái mét, anh ấy đã biết chuyện. Cậu lính văn thư mang công văn tới cho ông trưởng đoàn vô tình chứng kiến tình cảnh ấy. Cậu ta liền lánh ra một phòng khác, ngồi chờ. Thấy tôi chạy qua một lúc lâu, cậu ta mới dám mang công văn trao cho ông trưởng đoàn. Ông ấy đang ngồi, mặt cúi gằm, cau có. Ông kiếm cớ mắng cho cậu văn thư một trận, tất nhiên là vô lý. Cậu văn thư trở về doanh trại, nghĩ sao không biết lại vòng đến phòng tập, gọi người yêu tôi ra, thông báo... Tôi đã nói với anh rằng hồi ấy, người ta sợ những ai có quyền có chức hơn bây giờ. Chúng tôi là lính trơn. Cha mẹ chúng tôi cũng chỉ là dân thường tiền không, thế lực không. Chẳng có điều kiện nào cho phép chúng tôi tự bảo vệ mình. Chúng tôi ôm nhau khóc. Hai tuần sau, ông trưởng đoàn họp đơn vị, nhắc lại nội quy, kỷ luật như thường lệ. Sau đó, ông ném lên mặt bàn cuốn sổ của người yêu tôi. Đó là cuốn nhật ký. Nó chép lại trung thành tình yêu của anh với tôi, những lần chúng tôi đi chơi cùng nhau, những lời thề hẹn... Không thể nào chối cãi. Bọn trẻ bao giờ cũng ngu dại hơn đám người già, phải không anh?...

Người đàn bà dừng câu chuyện, mỉm cười với Trọng. Anh gật đầu, chợt nhận thấy làn môi nhỏ nhắn của bà ta rất đẹp. Chắc thời con gái, bà phải có một nụ cười mê hồn. Nhưng câu chuyện dang dở cuốn hút anh. Trọng giục:

- Rồi sao cơ?

Người đàn bà kể tiếp:

- Ông ta đã sai một cậu bạn của anh ấy, ăn cắp cuốn nhật ký. Cậu ta là diễn viên tốp ca bị hỏng giọng chuyển sang chuyên kéo phông màn và làm những việc lặt vặt ở hậu dài. Hết buổi kiểm thảo, thủ trưởng bảo tôi: “Đồng chí lên làm việc với tôi...” Làm việc với ông lúc bảy giờ rưỡi tối, lúc mọi người đang diễn thử chương trình mới. Người yêu tôi bị phân công đi lấy dầu ma-dút về chạy máy nổ tại một địa điểm cách doanh trại ba mươi cây số. Tôi ngồi đối diện với ông, sau chiếc bàn rộng. Ông hỏi tôi: “Đồng chí đã nghiêm khắc tự kiểm thảo tội lỗi của mình chưa?.” Tôi đáp: “Thưa có”. Ông lại hỏi: “Đồng chí có nhận thấy hành động của mình ngược lại với lợi ích cách mạng, phản bội lời thề của quân nhân không?” Tôi đáp: “Thưa có.” Ông lại hỏi: “Đồng chí có biết hiện giờ đồng bào miền Nam đang chiến đấu chống đế Mỹ, bao nhiêu chiến sĩ đang đổ máu không?”. Tôi đáp: “Thưa có”. Ông lại hỏi: “Đồng chí có thấy hổ thẹn với đồng bào miền Nam với các chiến sĩ anh dũng diệt Mỹ không?” Tôi đáp: “Thưa có.” Tới đó, ông ngừng lại, hút thuốc lào rồi quay ra nói: “Đồng chí có thể bị tước quân tịch, đuổi về địa phương vì đã không giữ gìn kỷ luật, đã vi phạm nội quy quân đội nhân dân nặng nề... Rõ chưa?...” Tôi im lặng. Điều ấy tôi chưa nghĩ tới. Tay chân tôi bắt đầu run. Tước quân tịch, đuổi về quê?... Ở quê tôi, những người lính đào ngũ, những người bị tước quân tịch đuổi về không có chốn dung thân. Thường họ phải sống lẩn lút trong rừng hoặc lang thang nơi quán chợ. Về làng, đi đâu cũng bị chỉ vào mặt: “Đồ đào ngũ.” Trẻ con kéo từng đàn từng lũ chạy theo như cái đuôi, reo hò: “Ê ê ê...đồ hèn, trốn bộ đội…đồ sợ chết.” Cha mẹ, anh em không dám ra khỏi ngõ. Chốc lát, người làng đi qua lại gióng tiếng lên: “Nhục lắm... Có con như thế thà đâm đầu xuống giếng...” Nếu tôi bị tước quân tịch đuổi về, số phận cũng vậy thôi. Hơn nữa, tôi lại là gái, và án kỷ luật sẽ ghi thêm trọng tội: Mất phẩm cách quân nhân, và biết đâu, sẽ kèm theo hai từ khủng khiếp: Hủ hóa... Bố mẹ, hai anh trai tôi sẽ sống ra sao?... Mắt tôi bỗng dưng hoa lên, sống lưng lạnh toát. Bộ mặt thủ trưởng bỗng to phình ra, nhân lên mãi, như có một trăm cái mặt chồng lên nhau. Sau một hồi im lặng, ông ấy nói: “Đồng chí là một diễn viên nhiều triển vọng, tôi rất tiếc...” Tôi không đáp vì vẫn bị ám ảnh vì cảnh sống nhục nhã đe dọa tương lai. Ông ấy không chờ tôi trả lời, tiếp tục nói: “Tôi có thể giúp cho đồng chí... Nếu đồng chí tỏ ra tiến bộ, cũng có thể xin với cấp trên cho đồng chí đi biểu diễn ở nước ngoài...” Tôi đã nghe những lời nói đó như nghe những hạt cát rơi, thoảng bên tai, chẳng nhớ gì, chẳng hiểu có ý nghĩa gì. Tâm trí tôi vẫn bị tê cứng vì lo sợ. Tôi không để ý nhìn ông ấy. Cái cằm ông trễ xuống, để hở hàm răng ám khói. Chợt ông ấy vươn qua mặt bàn, nắm tay tôi: “Tôi rất quan tâm tới em... Đã từ lâu... Rồi, nhanh như mèo, ông ấy vồ lấy gương mặt tôi, cắn chặt một bên má: ”Em ơi i i..." Không phải vì cảm giác đau đớn khi bị cắn, mà chính vì cái tiếng rên: “Em ơi...” thều thào ấy làm tôi nhảy bật lên. Thật tanh tưởi và dâm đãng. Phút chốc, tôi quên hết sợ hãi, quên hết mọi lo âu. Niềm căm giận làm tôi trở nên can đảm và hung hãn. Tôi dang tay tát ông ta một cái trời giáng, rồi sau đó, chưa đã hờn, tôi bê cả chiếc ghế ngồi ném vào mặt ông ta. Ông ấy tránh kịp, chiếc ghế rơi xuống sàn, dứt đứt tấm ri-đô bằng vải hoa che chiếc giường cá nhân. Tiếng động ầm ĩ làm cho hai người ở gần đó chạy tới. Họ ở cách thủ trưởng đoàn chúng tôi một phòng. Cả hai cùng là cán bộ tổng cục về kiểm tra tình hình hoạt động trường nghệ thuật. Thấy họ tới, ông trưởng đoàn đứng lên, mặt tái mét: “Đồng chí này...đồng chí này...” Sau một hồi lắp bắp ông ấy trỏ vào mặt tôi nói: “Đồng chí này hành hung tôi. Đồng chí ấy vừa bị kiểm thảo ban sáng. Trước tập thể, đã ngoan cố không nhận tội, giờ lại còn hành hung cán bộ đơn vị. Đề nghị gọi cảnh vệ tới đây.”

Lúc ấy, tôi đã gào lên: “Gọi đi, gọi cảnh vệ tới đi...đồ khốn nạn...”

Hai người cán bộ tổng cục đưa mắt nhìn ông ấy, rồi nhìn tôi. Sau, một người nói:

“Đồng chí nữ trở về doanh trại, đừng làm ầm ĩ. Còn đồng chí - ông quay sang bảo trưởng đoàn - Đồng chí cũng nên vào phòng, và giữ trật tự chung...”

Sau này, tôi biết nhờ hai người cán bộ ấy mà chúng tôi không bị tước quân tịch, không bị đưa ra tòa án binh.

Chúng tôi chỉ bị buộc thôi việc, ra khỏi đoàn, lý lịch ghi: “Không hoàn thành nghĩa vụ quân nhân, không chấp hành nội quy kỷ luật nghiêm chỉnh, không có thái độ thành khẩn khi tiếp thu phê bình của tập thể...” Vừa lên ô-tô, chồng tôi đã ném cả hai cái hồ sơ lý lịch ấy xuống vệ đường: “Cho gió cuốn chúng mày đi, đồ chết tiệt...” Anh ấy không đưa tôi về quê anh, cũng không về quê tôi. Chúng tôi lên một tỉnh miền núi, nhờ ông anh trai xin cho vào làm ở xưởng chế biến cần câu và gừng xuất khẩu. Sáu tháng sau, chuẩn bị được xét duyệt biên chế chính thức, phòng tổ chức xưởng nhận được công văn của đơn vị cũ. Lão đại tá dê già chưa nguôi mối thù. Lão truy lùng chúng tôi. Trưởng phòng tổ chức là người nhát nhúa, ông ta quý vợ chồng tôi nhưng không dám bảo lãnh cho những công nhân có quá khứ nguy hiểm như vậy. Lần nữa, chúng tôi từ giã công việc của nhà nước. Lần này, không còn tìm tới nơi nào khác, chúng tôi về quê, sống cuộc sống dân thường. Vốn liếng không có, tôi rang bỏng thuê, xay bột thuê. Chồng tôi làm mũ, cắt tóc, đạp xích lô. Ngày tháng lần hồi, rồi cũng dựng được mái nhà trú náu. Từ ngày có đứa con trai thứ ba, tiền bạc dư dả, tôi theo bè bạn đi buôn. Chồng tôi ở nhà chăm sóc con cái cho tới ngày xảy ra tai nạn mà tôi đã kể với anh.

Người đàn bà ngừng lời, đưa mắt nhìn lên bàn thờ. Que nhang sắp tàn. Bà ta tới châm que tiếp. Đúng là lúc đi, lưng bà cứng lựng như cây gỗ. Lúc cúi, bà phải nhún gối, mặt nhăn lại vì đau. Trọng nhìn người đàn bà bé nhỏ, héo úa một cách chăm chú. Với anh bà ta không còn là người chủ quán bình thường, bà ta là một chiến sĩ tranh đấu cho tình yêu của mình, một người can đảm chấp nhận mọi thua thiệt, mọi đổ vỡ, mọi đau đớn để gìn giữ một giá trị đã chọn lựa... Thật sung sướng cho người đàn ông đã được bà yêu thương. Giờ đây, thi thể ông ta đang rữa nát dưới đáy bùn, nhưng linh hồn ông vẫn quẩn quanh trong lớp khói ngào ngạt kia, biết rằng mình tồn tại, mãi mãi tồn tại giữa một trái tim yêu dấu.

- Gió mạnh quá...

Người đàn bà chợt cất tiếng, mắt nheo lại: Thuyền đi khơi chắc phải quay về...

Trọng im lặng, quay mặt đi. Lòng anh trào lên mối cảm tình với người đàn bà xa lạ đó. Không phải tình yêu lứa đôi, không phải tình yêu mẫu tử, tình huynh đệ... Cũng không phải tình bạn. Tình yêu của con người với con người. Nỗi thương cảm lòng kính trọng, mối khao khát thầm kín được sở hữu một gia tài vô giá.

Anh đứng dậy:

- Xin bà tính tiền.

Người đàn bà ngạc nhiên nhìn Trọng:

- Anh không đợi nữa à?

Trọng đáp:

- Tôi có việc phải đi.

Bà ta nói:

- Hai trăm tư.

Trọng đặt cả năm trăm lên bàn:

- Gửi cả bà.

Người đàn bà cau mày, trả lại số tiền dư:

- Không được. Tôi chỉ lấy đúng số tiền của tôi.

Trọng cảm thấy hai tai anh nóng lên vì xấu hổ. Anh nói:

- Thôi, chào bà.

Bà ta gật đầu, nói nhẹ nhàng:

- Vâng, anh đi cho may mắn. Có dịp lại tới quán chơi.

Anh xách chiếc cặp, bước ra. Con chó mực đưa cặp mắt toét liếc nhìn người khách cao lớn như hộ pháp, vẻ lãnh đạm. Đoạn nó há miệng ngáp. Tấm mẹt treo trên cây cọc gió đánh lắc lư. Trọng đi xuống bãi biển, nơi thủy triều đã nện lớp cát cứng lại như đất rắn, khiến chân anh không còn sục trong cát lún và vỏ sò. Anh đi ngược về phía thành phố. Tới ngả đường rẽ, Trọng dừng lại tìm một chỗ ngồi thuận tiện dưới rặng dương. Từ đây, anh có thể nhìn thấy bất kỳ ai, dù đi xe đạp hay xe thổ mộ trên con đường ngoại vi thành phố. Người đàn ông xem đồng hồ:

- Ba mươi phút nữa, nếu cô ấy không đến thì ta bỏ đi...

❆❆❆

Từ buổi tối cùng Bá bắt gặp cô bé định bán thân bên bờ biển, Cường không dứt được mối băn khoăn. Chàng trai rất muốn, nhưng không dám tìm gặp An. Thứ nhất, vì Bá dặn:

- Cậu biết tại sao tối hôm đó, tôi đã nói với gia đình cô gái rằng chúng ta sẽ không còn trở lại thành phố hay không? Vì những kẻ mang ơn rất sợ phải gặp lại người đã ban ơn cho mình trong điều kiện họ chưa thể trả được món nợ đó, dù không phải tiền bạc mà chỉ là món nợ ân tình. Mặc cảm chịu ơn giống như mặc cảm mắc nợ, làm người ta day dứt, nhất là những người giàu tự trọng... Bây giờ, chúng ta phải lánh mặt họ, chứ không phải họ lánh mặt chúng ta.

Thứ hai, chính anh cũng sợ hãi cuộc gặp mặt ấy, dù nó chỉ được tạo ra trong tưởng tượng, trong ước muốn thầm kín và đơn phương của anh. Gương mặt thơ trẻ, ánh mắt hờn oán lóe lên dưới ánh đèn và đường nét bí ẩn của đôi vai, của cần cổ khuất lấp dưới làn tóc đen thoáng ẩn thoáng hiện trong tâm trí chàng trai, dai dẳng. Có lần, anh thấy cô đi bên anh, trên đồi đan tiêu đỏ rực. Bao nhiêu là gió cuồn cuộn thổi, khiến tóc cô bay tung, như cái bờm ngựa đen nhánh, một cái bờm ngựa tuyệt mỹ khiến vẻ đẹp của cô ngạo ngược. Lần khác, anh bắt gặp cô dưới bóng râm của vườn cây. Cũng khu vườn vừa quen vừa lạ như vườn cây của chú Hai thuở trước. Anh tìm gương mặt đó, nhưng nó lấp sau các vòm lá, sau lối cát nhỏ. Cái chòi gỗ mái lá của chú Hai ngất nghểu trên đầu, anh đã trèo lên cây cầu thang nhìn xuống, nhưng bất chợt cô cất tiếng cười ngay bên vai anh... Những thời khắc sung sướng. Trí tưởng tượng cuồng phong ban phát hạnh phúc cho chàng trai không keo bẩn như những niềm vui có thực trong cuộc sống thường ngày. Cường đắm chìm trong những giấc mơ, cho tới khi tiếng gọi của ai đó quát bên tai:

- Đi chơi mày, ngồi đần mặt ra làm gì thế?... Nếu không chạy xuống buồng máy làm đỡ thằng Hiếu một tay...

- Cường, kéo căng sợi xích ra... Mau lên... Làm ăn như cứt...

- Cường, ra ngoài phố mua cho tao hai lít rượu. Đang vui thì cạn bình xăng...

Anh đã chấp thuận cuộc sống như thế, phẫn uất mà làm gì?... Nhưng chàng trai biết mình lẻ loi. Anh ngồi thừ hàng ngày trên boong tầu, dán mắt vào chân trời, chẳng thấy gì ngoài vệt mây ướt nhòa trên mặt biển. Trong căn buồng nhỏ ngột ngạt mùi dầu máy, anh nghiến ngấu hết cuốn truyện này tới cuốn truyện kia để khi gập sách lại, càng thấy chơ vơ. Cuộc đời những chàng nhạc sĩ trong sách: Nào Giăng Crít-stốp, nào Su-be, nào Bét-tô-ven chẳng mảy may dính líu tới số kiếp thủy thủ tồi. Những thăng trầm của bọn thám tử, tội phạm da màu, sự oán cừu của những kẻ bị tước đoạt gia sản, tội ác của chủ nô...thảy thảy đều xa lạ... Họ chẳng dạy anh làm gì trong cuộc sống buồn tẻ này.

Không kìm giữ được mình, Cường xuống bờ biển, tìm đến xóm chài bữa trước... Hôm ấy tầu đã ăn xong hàng mới, chỉ bốn mươi tám giờ sau là nhổ neo. Các thủy thủ xuống phố chơi lần cuối. Họ đi từ sớm, riêng Cường chần chừ mãi non trưa mới thay quần áo, rời khỏi tầu. Ra khỏi khu vực cảng, Cường cứ men theo lối cát mà đi. Trời sáng trắng nhưng không có nắng. Vì không phải ngày chủ nhật nên bờ biển vắng. Chỉ có một nhóm du khách nằm ngồi trên bãi tắm, quanh họ ném ngổn ngang mấy chiếc phao cao su. Đám trẻ bán kem rong, lạc rang, mía róc vỏ túm tụm lại chơi bài trên ghế đá. Chàng trai rẽ vào một quán bán giải khát, mua gói thuốc. Không hiểu sao, anh thấy cần hút một điếu thuốc để lấy lại thăng bằng.

- Vớ vẩn thật. Chẳng có chuyện gì mà tim mình cứ đập thon thót. Giống như kỳ thi sát hạch các bộ môn trong trường... Đồ hèn... Chàng trai tự mắng mình dữ dội, nhưng không vì thế mà anh can đảm thêm.

Anh vượt qua bãi tắm, giải rừng dương, tới chân mỏm núi đá nhô sát mép sóng. Lại những đám dây rau muống biển, bãi sỏi và những dòng suối nhỏ, chảy róc rách như reo...

Chừng mười lăm phút, sau khi đã dừng lại đắn đo dưới chân mỏm đá, anh tiến về xóm chài. Ban ngày, trông nó còn sơ sài hơn buổi tối hôm trước. Lũ trẻ con trần truồng vọc cát ngay trên lối đi. Người lớn đã đi lộng, đi khơi hoặc vào chợ. Xóm vắng hiu hiu, tiếng hát cải lương sai lạc từ căn lều nào đó vọng ra:

“Em ơi, chớp bể mưa nguồn, đời anh như manh áo rách không còn manh vải vá, như con thuyền mục nát...” Chàng trai tới gần lũ trẻ:

- Cho chú hỏi với...

Cả ba đứa con trai trạc chín mười tuổi đang đào cát cùng ngẩng lên. Cường nói:

- Ở đây có nhà cô An không?

Một trong ba thằng nhỏ hỏi lại:

- An nào? An thọt hay An béo? An thọt gánh cá đi chợ từ lúc đài thể dục, còn bà An béo đang ru con ở nhà... Chú tìm bà ấy phải không?

Nó nhấp nhổm đứng lên, trong tư thế sẵn sàng của người dẫn đường. Cường vội vã đặt tay lên vai thằng bé:

- Không, không...An...cô ấy mười sáu, mười bảy tuổi. Tóc dài tới ngang lưng này này.

Anh mô tả cô, bối rối vì thấy đám trẻ nhìn mình chòng chọc. Ánh mắt chúng tò mò, hồ nghi. Rồi chúng quay ra hỏi nhau:

- Ai nhỉ?... Mày biết không?

- Làm đếch gì có An như thế?...

Cường nói thêm:

- Nhà cô ta ở trong xóm này, vì chú đến buổi tối nên không nhớ rõ... Nó ghép bằng hai chiếc thuyền hỏng.

Thằng bé lanh lợi nhất bọn cau mày nghĩ, vẻ mặt già đanh như ông cụ. Rồi nó chợt reo lên:

- A...a...biết rồi, đám kinh tế mới chuồn về, phải không?

- Phải, phải đấy.

- Thế thì chú đi lối này, đến bụi mía đỏ nhà bà Mưng rẽ trái..., Dễ ợt ấy mà.

Nói xong, không chờ Cường đáp nó kéo hai thằng bé kia ngồi xuống, tiếp tục đào cát. Lũ trẻ đã đắp ba cái nhà bằng cát ẩm với vỏ sò. Giờ, chúng đào các đường hầm từ nhà nọ sang nhà kia. Cường rút ví, lấy tờ giấy năm chục:

- Cho các cháu mua kẹo lạc này.

Vẫn thằng bé láu lỉnh ngẩng lên. Nó nhìn đồng bạc trên tay anh rồi nhìn bao thuốc lá trên túi áo ngực. Sau vài tích tắc đắn đo nó quả quyết:

- Thôi, lấy điếu thuốc hút chơi.

Nói đoạn, nó nhổm lên rút điếu thuốc trong bao, kẹp giữa hai ngón chờ anh mồi lửa. Cường rút bật lửa châm thuốc cho nó nói: cảm ơn nhé, rồi anh đi. Theo ngả đường đứa bé chỉ, Cường qua vài chục ngôi nhà. Tới một vườn mía đỏ còi cọc, anh rẽ trái. Đến khúc đó, anh nhớ lại vị trí các mảnh sân, những chum chượp mắm, bụi mía ven bờ rào...khung cảnh buổi tối anh bị chó rượt và đã đến ngôi lều của cô gái... Nó kia rồi, vẫn còn nguyên vẹn... Ngôi lều ấy... Những đám bìa cát-tông cũ, kẹp lẫn những mảnh cót ép và những tấm ni-lông rách lem nhem phơi dưới ánh ngày. Cả vết hà ăn trên mạn thuyền mục. Tấm chiếu buồm nặng trĩu nước trận mưa đêm, thâm xì treo phía trước. Nơi cô gái ôm mẹ khóc là một đám gạch vỡ lát cẩu thả trên mặt sân cát. Góc sân, một chiếc chum sứt miệng đựng nước ăn, chiếc gáo dừa có cán úp ngang. Chàng trai đưa mắt nhìn qua khung cảnh ấy, bồi hồi. Anh thu hết can đảm vén manh chiếu buồm lên:

- Ông bà có nhà không ạ?...

Lều tối lờ mờ, có tiếng người đáp:

- Anh hỏi ông bà nào.

Cường đứng ngẩn, lát sau quen mắt anh thấy một bà già đang lúi húi nướng cá khô trên nồi than nhỏ bằng bàn tay. Bà già nhắc lại:

- Anh hỏi ông bà nào cơ?

Chàng trai đáp lúng túng:

- Cháu hỏi ông bà...trước ở đây. Họ làm nghề khắc gỗ, ở khu kinh tế mới về.

Bà già gật đầu:

- Vâng, mời anh vào chơi.

Bà đẩy chiếc ghế mời anh ngồi. Chàng trai nhận ra bộ ghế cũ của nhà An. Chiếc giường cũng còn lại. Nhưng chiếc bàn thờ chạm khắc cầu kỳ và gãy một chân đã mang đi.

Bà già nói:

- Tôi cũng ở khu kinh tế mới về đây. Trên đó, tôi với vợ chồng ông Ân là chỗ láng giềng. Vậy anh là thế nào với họ?

- Cháu chỉ là chỗ quen thuộc.

- Ông bà ấy đi, mà cũng chẳng nói lại là đi đâu. Hai người thu vén đồ đạc, gọi tôi sang cho cái lều và mấy thứ vặt vãnh rồi đem con bé An đi. Anh biết chứ, ông bà ấy được năm đứa con, ba thằng chết đuối dưới suối. Đem nhau về dưới này, cậu con trai lớn chạy chợ lại bị tai nạn ô tô chết trên đèo. Rút cuộc còn mỗi mống con gái...

Bà ta buông tiếng thở dài:

- May mà nó cũng ngoan, vừa được nết, vừa được cả người.

Nói đoạn, bà đứng lên:

- Để tôi rót nước mời anh uống.

Cường đáp:

- Cảm ơn bà, cháu không khát.

Bà già nhìn anh ái ngại:

- Anh có định nhắn gì ông bà ấy không?... Mà có nhắn, tôi cũng chẳng biết tìm họ ở đâu bây giờ.

Cường đứng dậy:

- Thôi, cháu xin phép.

- Vâng, anh đi.

Cường ra tới sân, nghe bà ơi ới gọi sau manh chiếu. Rồi bà hăm hở chạy theo:

- Tôi nhớ ra rồi... Bà vợ có người em họ, tên là Lan, ở ngay thành phố này... Anh cứ ra bờ biển khắc gặp chị ta... Chị ta làm cái nghề, xin anh bỏ quá cho, chẳng hay ho gì cái nghề đưa gái lầu xanh... Nhưng nếu anh cần tìm gia đình họ, chắc chị ta sẽ mách...Cường đi, bà còn đứng ở sân nhìn theo, vẻ băn khoăn. “...Dầu sao cuộc đời cũng còn những người có từ tâm. Đối với mình, không phải gương mặt nào cũng là gương mặt của Đính...” Chàng trai nghĩ, anh quay về bờ biển, thoáng có ý muốn tìm người đàn bà dẫn mối kia nhưng lại tự gạt bỏ ngay. Đám người tắm biển đã về. Chỉ còn sóng nô đùa trên bãi cát. Cường kiếm một quán giải khát, uống cốc cà-phê. Rồi anh vào thành phố, lang thang qua các phố rẽ vào chợ vơ vẩn không mua bán gì, nhìn ngắm các tiệm may cắt, các tiệm ăn, các tiệm uốn tóc như một gã trai quê lần đầu ra tỉnh mà không hiểu nhìn ngắm cái gì. Mọi vật lướt quanh anh, như phim, chật chội, chất chồng những hình ảnh mà không mảy may ý nghĩa. Sáu giờ rưỡi tối, anh về tầu, biết rằng anh đã yêu người con gái đó, hối tiếc vì đã không tìm gặp cô trước lúc cô biến mất, tự giận mình vì bản tính nhát nhúa và tòng phục như một thằng trò nhỏ trước mệnh lệnh của mọi người...