Chương 9
Tháng bảy mà nắng bạc như cuối thu... Còn bây giờ trời lại mưa rây như mưa đâm lộc... Ông thấy có lạ không?
- Ờ, thời tiết năm nay như kẻ mắc chứng ương cuồng.
Ông Hai xác nhận. Họ đang uống rượu với lạc rang.
Thêm một trái ớt xanh dầm nước mắm. Ngoài trời, mưa bay nghiêng như rây bột. Hàng đỗ leo đã rụi lá, ướt dầm dề. Cuống hoa, và từng đám lá khô đen rơi rải rác dọc theo bờ dậu. Góc sân, ngọn cỏ leo mềm mại vươn lên, những chiếc vòi xanh non, run rẩy... Cả hai ông già ngồi nhìn cảnh vật, mỗi người đuổi theo một ý nghĩ. Chợt, lão Ngạn hớp một ngụm rượu, chép môi:
- Mùa này có bão biển không nhỉ?
Ông Hai đáp:
- Ít, nhưng có thì lại bão to. Năm tôi lên bảy, cũng tiết này biển có sóng thần. Bảy xã phía đông, từ phố Phiêu bồng đến cửa Sao bị bão cuốn sạch. Có tới vài chục làng chài.
Lão Ngạn giương đôi mắt mờ dục nhìn người hàng xóm:
- Ông nói sao? Cả mấy chục làng chài?
Ông Hai gật đầu:
- Phải, bảy xã chứ có ít đâu... Hồi ấy, tôi theo ông chú đi mua đồng vụn. Dân vạn chài, thích dùng đồ đồng cho bền nhưng khí trời lại mặn nên đồ đồng rỉ xanh lè, chóng hỏng. Chúng tôi đi bộ dọc theo bãi cát, làng nào cũng ghé vào, cất tiếng rao. Ông chú rao trước, tôi rao tiếp theo. Từ sáng đến tối, nhiều ít cũng được nửa bao tải. Đêm ấy chúng tôi ghé vào một làng chài, nấu cơm nhờ. Ăn xong, nghĩ sao đó ông chú lại gọi tôi ngược lên một làng đồi cách biển chừng mười lăm cây số. Ngày xưa, người ta gọi những làng như thế là sơn trại. Dân ngụ ở sơn trại là dân cày bỏ ruộng, dân chài không thuyền không lưới bỏ biển đi. Họ làm ruộng trồng màu, cuốc đồi trồng sắn, trồng chè hoặc tiêu. Lại vào rừng đốt than, kiếm củi... Dân tụ bạ, nghề cũng trăm thứ nghề. Ông chú tôi có một món nhân tình trên ấy. Chắc nhớ bà ta nên ông bắt tôi vác tải đồng vụn đi theo. Lúc chúng tôi đi trời mới nhập nhoạng tối. Biển yên, không gợn gió. Tới nơi, khoảng mười giờ. Tôi nhớ, ông chú bảo người đàn bà kia: “Cô xem, chú cháu tôi đi đầu giờ Tuất mà cuối giờ Hợi mới tới đây. Cơm cháo rải dọc đường hết rồi...”
Món nhân tình của ông tươi cười chào hỏi. Rồi bà ta đặt nồi thổi cơm nếp, thịt gà. Cơm vừa bưng lên, trời nổi gió. Rồi bão ầm ầm kéo tới như kéo cây kéo cột ném bốn xung quanh. Từ nửa đêm ấy cho tới chập tối hôm sau gió mới lặng. Chúng tôi ngủ ở sơn trại đêm nữa. Rồi sáng ngày thứ ba, chú cháu tôi dậy sớm, xuống làng chài. Cả một giải bờ sạch bong, không mảy may dấu vết. Không có đến cả một cái hố, hay một gốc ngô đồng sót lại. Chỉ cát là cát. Như muôn đời nơi chúng tôi đứng vẫn là bãi biển chứ không phải làng chài, có nhà cửa cây cối, gia cầm và những con người sinh sống... Tôi ngơ ngác nhìn, còn ông chú tôi cứ lẩm bẩm nói đi nói lại: “Lạy trời lạy phật phù hộ độ trì. Lạy tổ lạy tiên khôn thiêng chỉ lối... Hôm kia chú cháu mình không lên sơn trại mà ngủ lại vạn chài thì hôm nay đã ở dưới rốn biển...” Ông bảo tôi: mày xem, chú sởn cả gai ốc lên... Tôi sờ tay chú, quả nhiên lông tay dựng đứng lên thật...
Ba bốn hôm sau nữa, nghe nói dân ở cửa Sao vớt được vô số xác người, xác gia cầm với chum vại.
Ông Hai nhắm một lát ớt xanh dầm nước mắm, rồi uống thêm ngụm rượu. Ông ngẩng lên bảo lão Ngạn:
- Uống đi ông.
Lão Ngạn đờ đẫn nhìn ông, như kẻ mất hồn. Ông Hai hỏi:
- Ông làm sao thế? Trúng gió à?
Lão Ngạn giật mình, lắp bắp:
- Không...không. Nhưng tôi sợ... Cái chuyện sóng thần mà ông kể.
Người láng giềng cau mày:
- Sóng thần, phải đâu năm nào cũng có. Biết ông yếu bóng vía tôi chẳng kể cho xong.
Lão Ngạn nói:
- Tôi sợ... Biết đâu rằng...
Ông Hai ngắt lời lão:
- Ông sợ thằng Cường gặp rủi ro, phải không?... Nếu vậy sao còn bắt nó xuống tàu.
Lão đưa đôi tròng mắt ngược lên, nhìn với vẻ oán hận:
- Nó là đứa con trai duy nhất của tôi. Nó phải kế nghiệp ông nội. Bố tôi trước kia là thủy sư đô đốc, lẫy lừng khắp xứ này. Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, chẳng nơi nào không có dấu chân ông cụ...
Ông Hai đưa mắt liếc nhìn lão:
- Nếu vậy thì ông hãy kiên tâm chờ đợi ngày thằng Cường trở thành thủy sư đô đốc. Đừng run rẩy, đừng lo lắng một cách vô công.
Lão Ngạn đọc thấy trong cái nhìn của ông Hai sự khinh miệt không thèm che đậy. Cổ lão đỏ lên, hai tai lão cũng đỏ lên. Lão gằn giọng:
- Tôi là người đẻ ra nó, tôi có trách nhiệm với nó... Tôi phải lo.
Ông Hai không nhìn lão nữa. Ông lại điềm nhiên uống rượu, và nhìn lớp mưa trắng xóa bên ngoài:
- Tùy ông.
Nói xong, ông đặt chén rượu đã cạn xuống chiếu. Lão Ngạn biết ông sắp về, hốt hoảng nói:
- Ông về làm gì, còn mưa mà?.
Ông Hai bảo:
- Mưa cũng phải về. Trời này còn mưa lâu.
Ông đưa mắt nhìn trời một lát, rồi nói thêm:
- Điệu này như dớt bão... Có thể bão ở Hải Nam... Như vậy ít nhất cũng mưa ba ngày... Tôi phải sấy ít thuốc, kẻo mốc...
Lão Ngạn nài nỉ:
- Uống thêm chén nữa đi... Mới mưa một ngày làm gì mà đã mốc được thuốc?.
Tuy trong bụng, ghét người láng giềng một cách độc địa nhưng lão vẫn cần ông. Cảnh cô đơn, dường như người láng giềng chịu đựng một cách nhẹ nhàng hơn lão. Thấy ông Hai im lặng, lão nói thêm:
- Tôi còn ít mực khô, ta chịu khó nướng vài con làm đồ nhắm.
Ông Hai bảo:
- Thôi được, chiều tối tôi lại sang. Giờ phải về dọn dẹp nhà cửa...
Nói đoạn, ông trùm mảnh ni-lông bước ra sân. Lão Ngạn nhìn theo hút người hàng xóm cho tới lúc ông khuất lấp.
- Hắn kể chuyện sóng thần mà mặt hắn lạnh như băng... Hay hắn dọa mình?... Không, chuyện đó là sự thực... Mình cũng đã nghe người ta nói... Nhưng sao trước đây, mình không lưu tâm tới?... Những hiểm nguy của biển, của tàu bè, của đám người sóng nước. Giờ đây nó đè trĩu tâm can.
Ngoài phố, có tiếng lục lạc. Lão Ngạn nhìn ra cổng, thấy cỗ xe thổ mộ chậm rãi đi dưới mưa. Con ngựa kéo xe đã già, chân bước khấp khểnh, mệt mỏi. Bờm nó rũ xuống cổ, ướt và bẩn, bết từng dám như lông chó hoang. Chiếc đuôi xơ xác buông thõng. Ngay cả tiếng lục lạc cũng như ẩm ướt mưa, giọng rè vỡ... Bỗng dưng, lão thấy não lòng. Lão đứng tách ra bên lề cuộc đời, nhìn mình, thấy mình giống con ngựa già kia. Con vật khốn khổ kéo cỗ xe định mệnh bước đi, bờm che kín mắt. Một kiếp sống nhợt nhạt, yếu ớt. Kiếp sống của con chim bị chọc mù mắt, chập choạng bay...
- Con ơi, con trai của ba...
Lão Ngạn bỗng bật tiếng kêu. Gian nhà trống vắng ném lại những âm thanh đó. Lão già run rẩy. Lão như thấy đứa con trai bước vào gương mặt tươi hồng ướt lấp loáng.
- Chào ba.
Bộ đồng phục xanh thắm của nó làm căn nhà buồn tẻ rực sáng lên. Chiếc mỏ neo vàng lóng lánh gắn trên vành mũ:
- Cường ơi.
Lão gọi:... Con đã về đấy ư?... Ba mong chờ mãi. Bây giờ, cuộc sống thực sự của chúng ta mới bắt đầu. Từ nay, ba không còn đếm những ngày đêm mỏi mòn, tàn lụi. Từ nay, dân thị trấn sẽ phải cúi rạp xuống vì nể nang, sợ hãi. Con mụ Hậu không còn dám cong cớn khi ta tới mua hàng. Lão Thủy triệu phú không dám vác mặt lên nhìn ta khinh thị. Cả lão Hai, cái lão hàng xóm ngạo ngược cũng phải khiêm nhường hơn... Chúng ta sẽ rời bỏ cái dãy phố hiu quạnh này, phải không con trai? Chúng ta trở về thành phố.
Nhưng sao Cường im lặng không đáp lời?... Chàng trai nhìn lão với ánh mắt nghiêm trang, ánh mắt của một người đàn ông thực thụ. Lão bước tới gần anh:
- Con ơi...
Hai đầu gối lão cập quạng va vào nhau. Lão bước siêu vẹo. Nhưng bước tới đâu, đứa con trai lùi về phía sau tới đó. Lão kêu to:
- Tại sao thế?... Con làm sao vậy, Cường ơi?.
Con trai lão chạy trốn hay chơi trò ú tim?... Hình ảnh anh sắp tan biến... Mắt lão hoa lên, hai chân lạnh buốt. Lão vội vơ chai rượu, không kịp rót ra chén, tu một hơi. Thứ lửa thần diệu ấy làm người lão ấm lên. Lão lại nhìn thấy đứa con trai ngay trước mặt mình:
- Nào, hãy nói cho ba biết, bao giờ cha con ta trở về thành phố?... Ngôi nhà của ông nội con xưa.
Cường vẫn im lặng. Mắt đứa con trai nhìn xa vời. Nó không nhìn lão. Nó không nghe lời lão gọi...
- Cường, nói cho tao nghe.
Lão già vừa bực tức, vừa xót xa. Lão vớ chai rượu tu thêm một hơi thứ hai, nạp thêm chất lửa quỷ diệu cho cơn hăng hái:
- Mày làm sao thế, mày câm rồi sao?... Cường ơi... Trả lời ba đi con.
Bên kia hàng đỗ leo, ông Hai đã quạt xong lò than sấy thuốc. Ông quấn thử một điếu hút, chợt nghe tiếng lão Ngạn ú ớ kêu. Người láng giềng trùm vải mưa chạy sang, thấy lão đang loạng choạng đuổi bắt một bóng ma nào đó trong không gian, hai tay chìa ra như muốn níu kéo, muốn nắm giữ. Miệng lão lẩm bẩm, và hai hàng nước mắt chảy dầm đìa trên gương mặt già nua.
❆❆❆
Bích đã vắng mặt mười ba hôm. Hôm thứ mười bốn, vào lúc năm giờ rưỡi chiều, cô phóng Hon-đa vào tận giữa sân. Trọng đang lúi húi nhặt mớ đậu cô-ve. Dù có một mình, anh vẫn giữ thói quen nấu cơm ngày hai bữa. Anh không thích ăn quà vặt hoặc lê la uống bia ở các quán cơm đầu chợ. Như mọi người quan niệm, anh là người đàn ông chỉn chu. Thấy Bích về, Trọng ngẩng đầu nhìn. Anh muốn xem trên gương mặt người đàn bà có nét nào xao xuyến hoặc bối rối... Nhưng Bích vẫn cười vui vẻ, nụ cười thường nhật của cô:
- Anh làm gì đấy?... A, đậu cô-ve... Tội thân anh chàng cơm niêu nước lọ.
Người đàn bà nói, nửa thật nửa đùa. Cô tắt máy, dựng xe vào chân cầu thang rồi chạy tới, quàng vai anh:
- Em tệ quá phải không?... Đi biền biệt mà chẳng nhắn cho anh một lời... Công ty vừa cử em làm trưởng đoàn cán bộ kiểm tra các cửa hàng thuộc ba huyện miền núi.
- Vậy à?... Anh cũng đoán em bận gì đó.
Trọng đáp. Anh vẫn cắm cúi tước những quả đỗ trong rổ. Bích giữ tay anh lại:
- Anh đừng làm nữa... Anh không nhớ em chút nào hay sao?... Còn em thì nhớ anh như muốn cuồng.
Cô cúi xuống cắn vai anh, rồi hôn cổ anh. Người đàn ông cố giấu một cái rùng mình, vì trong những cử chỉ ve vuốt kia anh đọc thấy một sự nhiệt nồng thành thực.
- Em đã nhờ mụ Thìn điện xuống Sơn Thanh mà mụ ấy quên. Đây giờ, suốt ngày mụ ấy bận rộn chuyện kiện tụng đất đai, nhà cửa...
Cô giằng lấy rổ đỗ trong tay anh:
- Thôi, đủ rồi. Em đã mua thức ăn sẵn cho cả tuần. Bây giờ tới lượt em truy lĩnh nhiệm vụ đầu bếp.
Cô mang rổ đậu đi rửa. Rồi dỡ trong chiếc làn nhựa lớn buộc sau xe những thứ thực phẩm đã mua ở các hàng quen trong chợ hoặc chọn ở các quầy thực phẩm. Một tảng thịt bò non, hai chiếc chân giò, một sấn mông lợn, một túi lạp sường, một cây giò và gói thịt ngỗng quay chặt sân... Trọng nghĩ: Cô ấy biết vơ vét cho bản thân lắm chứ... Những gia đình cán bộ bình thường không dám mơ ước tới một phần năm số thực phẩm kia cho bữa cơm của ngày chủ nhật... Hay cô ấy đem lại phần bù đắp cho những mất mát tình cảm của mình?..” Anh mỉm cười khi nghĩ tới sự chu đáo của Bích - nó hèn mọn, nó tinh ma, nó quỷ quái.
- Anh ơi, xắn cho em cái ống tay áo... Nào...
Người đàn bà gọi, giọng ẩm ướt. Trọng bước tới xắn tay áo cho cô. Anh cố giữ cho mọi cử chỉ có được vẻ êm dịu bình thường. Bích săm sắn xếp các thứ thực phẩm dự trữ vào tủ lạnh. Bày gói thịt ngỗng quay với kiệu muối ra đĩa. Cô cẩn thận rót lượt nước sốt tương ớt lên trên. Rồi rải lượt rau thơm lên trên nữa. Trọng đứng tựa vào tường, hút thuốc, ngắm nghía những động tác thuần thục của người đàn bà. Anh nhớ, hồi họ mới gắn bó với nhau có lần Bích làm món ốc hấp gừng. Anh đã đứng nhìn cô băm lưỡi ốc với thịt nạc, trộn gia vị, viên thành từng viên nhỏ bọc lá gừng. Cái hình ảnh đẹp đẽ muôn thủa của người đàn bà đã có sẵn trong khao khát của các trái tim đàn ông. Nó càng trở nên quyến rũ với anh, người đàn ông đã ném tuổi trẻ của mình qua các ngả đường chiến tranh, những binh trạm với chảo cơm quân dụng... Anh đã hôn tay cô, anh ngắm từng cử chỉ của cô như họa sĩ ngắm vờn nét vẽ.
- Anh ơi, lấy cho em cái đĩa sạch.
Cô gọi. Trọng mang tới cho cô một chiếc đĩa sứ. Bích trút vào đấy món xào đậu cô-ve với thịt bò ướp tỏi. Cô lấy thêm chiếc đĩa thứ ba đựng hành sống và rau thơm. Một bát canh được nấu rất nhanh với thịt nạc băm và rau cải. Rồi mười phút sau, mâm cơm được bưng lên. Hai người ngồi vào chỗ như họ đã từng ngồi với nhau bao nhiêu lần trước. Rồi cô cũng so đũa, cũng rót rượu ra chén cho anh:
- Anh uống một chén vang trước đi... Vang Bun đấy không phải thứ vang Thăng Long chua loét đâu... Rồi ta sẽ uống rượu rắn sau.
Trọng nhấp một ngụm rượu. Bỗng nhiên, anh muốn khóc. Rượu đắng làm sao... số phận dành cho anh một món quà cũng đắng cay như thế...không, có lẽ không nên ví von như vậy. Tại lưỡi anh đắng thôi. Rượu nho của Bun êm dịu. Và chất nước lọc ra từ men ủ với xôi nếp kia cũng tuyệt hảo. Rượu là chất thăng hoa của ngũ cốc, chất lửa thần diệu sưởi nóng tâm hồn con người... Không thể ví người đàn bà kia với rượu. Nho mọc trong vườn, lúa đơm hạt trên cánh đồng, vị ngọt ngon của chúng, mùi thơm của chúng thuần khiết lắm... Còn cô ta... Cặn bã của thịt hành, nước cống, xác chuột chết, rác rến...những thứ vật chất làm người ta nhờm gớm bộ mặt của phố xá.
Bích đưa tay nắm cổ tay Trọng:
- Sao anh uống liền năm cốc thế? Say mất rồi... Hãy ăn đi vài miếng...hãy nghe em...
Bàn tay của người đàn bà ấy... Giọng nói của người đàn bà ấy... Bao nhiêu hơi ấm nồng nàn cũ lại dậy men. Cái thói quen đầu độc con người, hủy hoại con người, biến họ thành bùn đất... Vào một đêm nào đấy của năm trước, bàn tay ấy, giọng nói ấy... đã rót vào anh những ngất ngây.
- Anh ăn một bát cơm đi...một bát vơi cũng được...
Bên ngoài cửa sổ, có con mắt rình mò. Phải chăng đó là một vì sao?... Tia sáng nhấp nhánh như cười cợt, chế giễu, nó nhạo báng ta - người đàn ông đần dại, đứa bé cả tin và to xác, con bò đực bị xỏ mũi dắt đi.
- Anh cười cái gì thế?... Chết thật, say quá rồi... Đi nằm cho đỡ say.
Anh đi nằm, nhưng nghe rất rõ tiếng cô dọn dẹp mâm bát bên ngoài, tiếng dép lê từ phòng khách vào trong bếp. Rồi cô đánh răng, súc miệng lọc ọc, cô thay áo quần ngay đầu giường không cần kéo tấm vải che. Chiếc giường kêu cọt kẹt, người đàn bà đã trèo lên, nằm xuống bên anh. Mùi thơm của thứ xà phòng thơm cô hay dùng lan tỏa. Cô trằn trọc một lát rồi xoay nghiêng ôm lấy anh. Vòng tay cô xiết ngực anh, nóng ấm.
- Anh có tỉnh ra chút nào không?.
Trọng im lặng. Nhưng mỉm cười trong bóng tối: Tỉnh lắm, cô nàng ạ. Dù đã uống tới bảy chén rượu nhưng ta chưa say đâu. Ta xem tiếp tấn trò.
Bích đặt tay lên trán anh:
- Còn hơi ấm.
Rồi cô làu bàu:
- Khổ quá, chưa ăn miếng gì đã uống tì tì.
Trọng nằm im, lắng nghe.
Bích trở dậy, uống một cốc nước rồi trở lại nằm bên anh. Cô nằm sấp, tì chiếc cằm vào cánh tay Trọng, chỗ thăn chuột khiến anh đau nhói. Anh cựa mình, lùi vào trong. Người đàn bà hỏi:
- Em làm anh nhột hả?...
Rồi cô đặt lên trán anh một nụ hôn. Người đàn ông thấy rõ rệt đôi môi ấy, độ nóng, chiều dầy, và bè sâu nhục cảm... Một ưu vật quen thuộc của anh trước kia. Giờ đây... Anh muốn bật dậy, gào lên hoặc hất đổ cái gì đó, hoặc cúi đầu dưới vòi nước mát cho hết cảm giác quẫn bách trong người. Nhưng anh vẫn nằm im như một con cáo giả chết. Và khi cô đặt lên gương mặt anh nụ hôn thứ hai thì anh xoay người lại, ôm choàng lấy cô:...Thói quen hả?...quán tính đời sống hả?... Những điều đó không quan trọng. Chúng như đôi dép cũ đã vừa chân... Nhưng điều quan trọng là kẻ đã ném đá vào cái bình pha lê trong suốt, đã làm đổ vỡ phần thiêng liêng nhất trong trái tim con người..."