← Quay lại trang sách

Chương 13

Mưa nhỏ từng giọt dài, từ mái tranh rớt xuống. Giọt này tiếp giọt kìa, không ngưng nghỉ. Đám bùn lẫn phân trâu dưới chân cầu thang rữa ra dưới mưa, chảy thành từng dòng ngoằn ngoèo sang bên kia đường. Gọi là đường, kỳ thực chỉ là lối đi rộng ước chừng vài thước, nằm giữa hai dẫy nhà sàn. Những dòng bùn lẫn phân trâu màu cỏ úa tràn qua mặt đường, lách dưới chân cột của dãy nhà sàn bên kia rồi tan trong mưa, thấm xuống vạt đồi nghiêng nghiêng chạy tới bờ suối.

Ông già Kin cất tiếng:

- Trời mưa này, cán bộ không qua được suối đâu.

Trọng đáp:

- Bác đừng lo, tôi sẽ chờ tới chiều. Có thể nước rút sớm hơn ta tính.

Ông già lắc đầu:

- Không. Suối này đã dâng lũ, nhanh nhất cũng hết ba ngày...Nó như người đàn bà của mình, sống lâu thì thuộc tính thuộc nết.

- Bác ở đây bao năm rồi?

- Hai mươi tám mùa đông...

Ông chủ đáp, rồi lại cúi xuống gọt chiếc tẩu bằng sừng. Những nếp da màu đông hun chảy sệ hai bên cổ. Trọng nhìn qua màn mưa trắng xóa, thấy con suối lờ mờ như một vệt chì màu đỏ dưới chân giải đồi. Bờ bên kia đã là cửa rừng, cây giăng thành hàng xanh thẫm. Ông già đã sống ở đây hai mươi tám năm. Có nghĩa cái làng đã lập được hai mươi tám năm. Trước đó, họ ở một vùng khác. Trọng bất giác đưa mắt nhìn ông già Kín, se lòng. Cuộc sống của con người ở đây thật cơ cực. Hồi mới tới anh bàng hoàng mãi vì không tin ở mắt mình. Chừng năm chục mái nhà sàn, lợp cỏ tranh. Khung nhà, kèo bằng những cây gỗ nhỏ, không đẽo gọt. Sàn ken cành cây hoặc tre, cao chừng tám mươi phân. Bên dưới lợn bầy lội bì bõm trong lớp phân và bùn. Trâu bò cột ngay chân cầu thang, phóng uế bừa bãi. Đàn bà để ngực trần. Những bộ ngực bị nắng hun và sinh nở dày vò trông thảm thê. Mười người có đến tám người luôn luôn dịu một đứa nhỏ sau lưng, trông không lớn hơn chiếc phích bao nhiêu. Lũ trẻ, ló đầu khỏi tấm vải dịu. Mặt chúng già câng, vàng úa vì thiếu dinh dưỡng. Và những đôi mắt chúng, tròn và nhỏ, rất kém linh hoạt, nhìn với cái nhìn thâm u, đờ đẫn. Có lần, Trọng cầm tay một đứa bé lên, cẳng tay nó nhỏ như một khúc tre cỗi tiện ra, da đã nhăn lại. Vùng này, đất đai cằn. Người ta sống bằng nghề làm nương và đốt than, đẵn củi. Rừng đã bị tàn phá trơ trụi. Phải đi hết hai ngày một đêm mới tới nơi đắp được hầm than. Họ ngủ qua đêm trong các lán tranh hoặc hang đá. Hôm sau, đẵn cây ủ trong hầm mà đốt. Ngọn lửa thiếu dưỡng khí được nuôi âm ỉ trong một quãng thời gian định ước tùy theo từng loại gỗ làm than và tùy theo tiết trời. Rồi họ múc nước suối, dập lửa, cời than bỏ vào bao tải gánh về thành phố bán. Công việc vất vả, đường xa, món tiền bán một gánh than không thể mua gì hơn là gạo muối và dầu thắp - những nhu cầu thiết yếu với dân miền núi.

Trong một đợt kiểm tra số hàng được điều phối về huyện, anh thấy thiếu hụt rất nhiều thứ hàng có phẩm chất, cần thiết cho đời sống. Ngược lại, tỉnh tống về huyện hàng chục mặt hàng xa xỉ nhưng đã bị hủy hoại hoặc không thực tế: Những váy áo lót, những thứ áo khoác khăn trùm cũ hoặc lỗi mốt từ khắp các thành phố Châu Âu nhặt nhạnh về. Trong đống hàng của lòng từ thiện ấy, cái gì tốt, cái gì hời các bà các chị trên thành phố đã nhanh lay thu cất. Họ gửi cái mớ tạp nham sót lại về đây...Trọng nhìn những người dân gánh than qua cửa hàng, mưa bụi khiến than đen lem nhem trên tay chân váy áo họ. Những cặp vú đen nhẻm, thõng thẹo chảy trên cạp váy. Tóc họ màu hung đỏ, xơ xác vì dãi nắng. Con gái chưa biết điểm trang, ngoài những thứ vòng bạc lớn nhỏ đeo ở cổ tay. Thi thoảng có những cô có gương mặt đẹp, với đôi mắt âm u của đêm rừng. Nhưng trong trang phục xoàng xĩnh bằng vải đen đã ố, và những dấu vết không tẩy xóa được của một cuộc sống lầm than, họ khiến tim anh nhói lên. Anh không thể nhìn họ một cách lãng mạn như xưa: đám người lạc từ xứ xở Chim Chích về. Anh nhìn họ như chính một phần da thịt của cõi đời, cái phần hoang dại và thủy chung, cái phần bị lãng quên, cái phần bị thua thiệt...Trọng đã làm công văn gửi lên Ty, đề nghị phân phối hàng một cách hợp lý và nhanh chóng có hiệu quả, để góp phần cải thiện đời sống của dân miền núi Bảo Lai, những người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, những người đã từng gùi muối, gùi đạn, cõng thương binh ngoài mặt trận. Công văn thống thiết của anh ba tuần sau mới có hồi âm:

"Đã nhận ngày 17 tháng 6...

Đang nghiên cứu chờ giải quyết".

Trọng mỉm cười, anh hình dung ra tờ công văn của mình được chuyển từ bàn này sang bàn kia, trong chiếc cặp ba dây kẹp hồ sơ của ông cán bộ này tới ngăn kéo của ông thủ trưởng kia...nghiên cứu, chờ giải quyết. Sự chờ đợi luôn luôn có mùi bụi mùi mốc meo, mùi cứt dán và mùi nước đái chuột...

Bọn họ giờ đây đang bận rộn tối ngày, đang bận bịu vì trăm thứ việc. Tất cả chuẩn bị cho cuộc họp Đảng ủy toàn ngành. Rồi tiến tới Đại hội Tỉnh đảng bộ. Ai còn là tỉnh ủy viên? Ai len được vào Ban thường vụ tỉnh? Ai trượt mất chức vụ cũ...Trong cái guồng quay rối tinh rối mù ấy, liệu có ai chợt nhớ tới một khoảng rừng cũ, mờ mịt mưa bay.

Ông già Kin chợt khà lên một tiếng khoan khoái. Ông đã chuốt được phần nõ của chiếc tẩu sừng. Giờ đây, nó bóng mịn như một thứ sa tanh màu đen. Ông giắt chiếc tẩu vào lưng quần, bảo:

- Đói rồi đi ăn thôi.

Ngước mắt nhìn ra đám mưa trắng xóa, ông nói thêm:

- Tôi đã bảo, đúng chưa?...Không qua được suối đâu. Phải chờ hai ngày nữa.

Ông kéo trên bếp xuống chiếc hăng-gô Mỹ cũ đã móp, mở nắp. Trong hăng-gô là ngô bung. Ông già Kin lấy một chiếc thìa gỗ mun, do tay ông gọt, cẩn thận xẻ ngô bung vào hai chiếc bát nhựa. Mắt chăm chú, ông cố gắng xẻ hai phần thật đều, không rơi ra ngoài một hạt nào. Rồi, thò tay vào vỏ quả bầu nậm đầy bụi tro, ông lấy một nhúm muối, rắc đều trên hai bát:

- Ăn đi.

- Bác ăn đi.

Trọng đáp lời, bưng bát ngô bung lên. Anh không dùng thìa mà nhón từng hạt ngô bỏ vào miệng. Ngô bung đã khô nước, hạt rời. Những hạt muối có màu xám của tro lẫn, vị vừa mặn vừa chan chát. Bất giác, anh đưa mắt nhìn quanh gian nhà vách gỗ. Những chiếc mạng nhện ám bồ hóng bị mưa tạt run rẩy khắp các góc nhà. Các kẽ gỗ nứt và hở được trát bùn khô, giờ ngả màu vì ẩm. Sát bức vách đối diện, vài bộ quân áo của chủ nhân vắt trên sợi dây song. Trên giường, hai chiếc chăn dạ cũ cuộn thành đống...Không có gì hơn. Trọng sực nhớ một ý tưởng đã từng đóng đinh vào óc não anh với các chàng lính thời kháng Mỹ: Hết chiến tranh, hạnh phúc sẽ tới mọi nhà. Hết chiến tranh, đất nước sẽ giàu có, phồn thịnh...Hồi ấy, họ đã tin vào nó như tin định mệnh. Một quy luật tất yếu...

- Cán bộ đã được ăn thịt nhím chưa?.

Ông già Kin bỗng cất tiếng hỏi.

Trọng đáp:

- Có, hồi trên rừng tôi được ăn vài lần. Ngon lắm.

Ông già nói:

- Năm trước tôi bắt được con nhún lớn lắm, một thau đầy thịt. Bốn người uống rượu hết đêm.

Trọng hỏi:

- Ở đây, gạo nương ít, ngô cũng ít sao còn nấu rượu?

Ông già đáp:

- Mùa đông lạnh lắm, phải có rượu mới sống nổi. Lửa đốt bên ngoài không cứu được phải có lửa tưới bên trong.

Trọng bảo:

- Không có cách nào làm thêm ngũ cốc mà chăn nuôi hay sao?

Ông già lắc đầu:

- Chịu. Rừng lụi rồi. Xa tít hai ngày núi mới kiếm được hòn than. Nương ở đây chỉ bằng bàn tay. Trời không cho lúa.

Ngừng một lát suy ngẫm, ông già nói:

- Bên kia dẫy núi, đi bảy ngày đường tới một vùng đất tốt lắm. Nghe nói người ở đấy uống rượu gạo, ăn thịt nướng quanh năm. Họ có cả áo len, áo bông như người dưới phố. Nghe nói nhà ở đấy cột lớn bằng bánh xe trâu, cao mười người trông lên đầu nhau chưa tới, muốn leo lên sàn phải qua hai mươi bảy bậc thang, nhà họ không lợp cỏ tranh mà lợp đất nướng, gió không thổi bay, mưa không tưới mục. Trẻ con ở đấy cũng có giầy đi, cũng có mũ đỏ mũ xanh đội.

Trọng hỏi:

- Cũng trong huyện Bảo Lai này?

Ông già lắc đầu:

- Không, đất khác.

Trọng hỏi:

- Bác chưa tới bao giờ?

Ông đáp:

- Chỉ có hai đứa con trai được đặt chân lên đất ấy. Giờ chúng nó qua Ai Lao. Nhưng chúng nó kể chuyện cho chúng tôi nghe...Giá còn trẻ tôi cũng thử tới đấy xem sao? Nhưng giờ má đã nhăn, gối đã mỏi, ngại lắm...Mà sống ở đây cũng đã quen.

Trọng đặt chiếc bát nhựa xuống bếp tro, nhìn ngoài trời. Mưa vẫn tuôn chảy hoài, không mệt mỏi. Những dòng nước đục ngầu phân và bùn rác vẫn vượt qua các đám cỏ ven đường, tràn xuống bờ dốc nghiêng nghiêng bên kia. Dưới những sàn nhà, lũ lợn dưng nép vào nhau, giữa đám bùn, giương mắt dỏng tai nhìn mưa. Con nào con nấy mặt già nhăn, da bụng chảy sệ, hai vai nhô lên gây trơ xương. Vùng đất đói, người đói, con vật nuôi cũng đói... Nhưng người ta cam chịu ở đây vì thói quen. Thói quen - có lẽ đó là một trong những sức mạnh hủy diệt con người.

- Có ai đang tới kìa.

Ông già Kin, vừa cúi xuống thổi lửa dã ngửng lên, chỉ cho Trọng thấy một bóng người đang tiến vào đường thôn. Có lẽ đó là một người đàn ông cao lớn mập mạp. Anh ta giắt xe đạp, trùm vải mưa trông như một con gấu màu xanh. Ông già Kin và Trọng cùng đưa mắt rõi theo: Người lạ tiến thẳng về phía căn nhà sàn của họ. Tấm vải mưa chùm kín đến tận mắt nên Trọng không nhận được đó là ai. Người khách lạ đặt xe dưới chân cầu thang, rồi leo lên. Bước chân anh ta làm cả căn nhà rung chuyển, các cây cột vặn vẹo kêu cót két, cót két...Trọng nghe tiếng người khách cởi tấm vải che mưa, rủ roàn roạt rồi mới vào nhà. Anh ta xây lưng, cẩn thận móc tấm vải đi mưa vào một mắt gỗ trước cửa rồi mới quay lại chào họ:

- Chào bác Kin, chào anh.

Trọng đưa tay cho Hoan, người trợ lý kiêm phó cửa hàng:

- Có chuyện gì mà cậu lặn lội tới đây?

Hoan lăn một khúc gỗ tới gần bếp, ngồi xuống:

- Có việc.

Đoạn anh quay đầu lại ông chủ nhà:

- Bác cời lửa to lên một chút, rét quá...Cháu lội bốn giờ liền mới tới đây.

Ông Kin bảo:

- Đói bụng không?

Hoan đáp:

- Cháu có đem theo lương thực rồi.

Anh mở túi dết, lấy ra ba ổ bánh mì ướt, một nắm cơm lớn với gói ruốc cá kèm theo. Ông già Kin chất thêm củi vào bếp, ngọn lửa reo xoắn xuýt, vui vẻ.

- Đói quá, ăn đã anh Trọng.

Hoan bảo. Rồi nhanh như sóc, anh ta kiếm que cời than thành đám, nướng lại ba chiếc bánh với nắm cơm. Lửa than vừa kịp sám lớp vỏ bánh bên ngoài. Hoan đã mở gói ruốc cá, đặt lên một khúc gỗ gần đó:

- Nào bác Kin nữa.

Ông già không đáp, lẳng lặng ăn cơm với ruốc cá trước rồi bẻ bánh mì ăn sau. Khi cả ba đã thu dọn sạch chiến trường, ông già Kin bưng chiếc xoong nhôm đun nước uống: một thứ tổng hợp các loại lá rừng, thay cho chè, vị ngai ngái, thơm và chát nhẹ. Ông rót nước ra từng chén, mời mọi người. Lúc ấy, Hoan mới thở một hơi khoan khoái:

- Lúc đến đây, em đói run cả chân tay, không muốn mở miệng nói nữa.

Anh rút bao thuốc, chìa cho ông chủ nhà và châm một điếu cho mình:

- Anh Trọng vẫn cai thuốc đấy chứ?

Trọng cười:

- Không, bắt dầu từ hôm nay tớ sẽ hút lại.

Anh tự rút một điếu, châm lửa từ tay người trợ lý. Hồi mới thuyên chuyển tới Bảo Lai, một trong những biện pháp thử bản lĩnh tồn tại của anh là bỏ thuốc. Tắm nước lạnh buổi sớm được coi là biện pháp thứ hai. Điện pháp thứ ba là luyện Y-o-ga, cả ba thứ Trọng đã thực hiện. Anh vẫn giữ một nụ cười nhẹ nhàng trên khóe môi, hỏi Hoan:

- Bây giờ no rồi, phải bàn tới công việc. Có chuyện gì ở huyện phải không?

Hoan lục túi, đưa cho anh tờ công văn triệu tập cuộc họp đại biểu toàn ngành. Sau thắng lợi của các thủ lĩnh ngành thương nghiệp tại cuộc họp tỉnh đảng bộ vừa rồi, người ta tổ chức một hội nghị biểu dương thành tích đó. Cũng là dịp bổ nhiệm, cất nhắc một số trưởng phó cửa hàng mới, thuyên chuyển công tác cho một số người này và làm thủ tục về hưu cho một số người kia. Một hội nghị thương nghiệp toàn tỉnh, có tầm quan trọng - như công văn đã viết.

Đích danh đại biểu tham dự đã được ban tổ chức ghi sẵn: Chu Thanh Hoan. Hội nghị kéo dài trong ba ngày, các buổi tối có dạ hội và triển lãm sáng kiến. Tối cuối cùng có tặng phẩm cho từng đại biểu, một xuất chiêu đãi của Tỉnh và văn công trung ương phục vụ. Toàn bộ chi phí tàu xe, các phương tiện sinh hoạt do Ban tổ chức đài thọ.

Một dòng chữ chua thêm bên dưới: Xin mời đích danh đại biểu tham dự.

Trọng trả tờ giấy cho Hoan:

- Cậu đưa cho tớ làm gì?

- Anh lăn lộn công tác cả năm, xuống thành phố cho giải sầu. Em ở huyện, vợ một bên, hai con một bên, đi làm gì cho rách chuyện.

Trọng cười:

- Lâu lâu cũng nên rời áo vợ cho khôn lớn ra.

Hoan bảo:

- Họ định kiến với anh... Làm gì có thứ hội nghị mà đại biểu do cấp trên chỉ định?

Trọng bảo:

- Có nhiều chứ. Nhưng dưới các hình thức khôn khéo hơn... Làm thế này... thì quả là trắng trợn... và cũng thiếu thông minh.

Anh cười, nhớ lại bộ mặt tái xanh của Nghĩa, ông cha cố nhầm chuồng. Và bên cạnh bộ mặt của ông tỉnh ủy viên ấy, là gương mặt người đàn bà anh đã lừng quen tới tận mụn ruồi dưới chân tóc. Trọng hiểu mọi sự do Bích sắp đặt. Khi đã không thể là tình nhân của cô, anh buộc phải lùi xa vùng đất cô đang sống. Giá như Bích sinh vào một thời đại khác, và tài sắc kha khá hơn. Hẳn cô sẽ được liệt vào loại Từ Hi hoặc Võ Tắc Thiên.

Cách đây một tháng, anh nghe tin cô trúng đảng ủy ngành, hất chân mụ Thìn, người đứng lên giới thiệu cô vào Đảng. Không hiểu trong đại hội Tỉnh đảng bộ vừa rồi, cô đã leo được tới nấc thang nào trên con đường cô chọn? Trọng không còn thù hận như nhiều đàn ông khác rơi vào tình cảnh của anh. Ngôi nhà ở thị trấn, anh gửi một người bạn. Tất cả những phương án trả thù mà người ta mớm vào tai anh, anh đều từ chối với một nụ cười buồn. Xét cho cùng, mọi thứ trò đó đều buồn thảm. Và để làm gì? Ngoài trời mưa vẫn bay không dứt. Nước tạt chéo từ đông sang tây thành những dòng trắng đục, xiên xiên. Người đàn ông chợt nhớ tới màu trắng của các khóm nhài. Trước cửa buồng ngủ của anh, là giống nhài kép, bông cỡ lớn như bông cẩm chướng. Ban đêm mùi thơm chao chát của nó nức tên. Gương mặt người đàn bà sau lớp vải màn trông hư ảo... Vòng tay ghì riết của cô... Cặp môi dầy, như một thứ trái cây đầy ứ nhục cảm... Cô yêu anh đến thế, thèm khát anh đến thế. Rồi cô lại là kẻ hành hạ anh khi không còn sai khiến được anh, không còn dung hòa được mối đam mê ấy với thứ dục vọng khác... Thật lạ cho con người. Dù sao, với anh cô vẫn còn là mội ẩn số. Anh chưa hiểu con người tận cùng của cô. Cái người đàn bà với tầm nhan sắc bình thường sửng sốt đã nhảy vào cuộc sống của anh, chao lật nó nghiêng ngửa như gió dữ chao lật một con thuyền mỏng manh, không buồm, không bánh lái... Anh, chú bé cao một thước bảy mươi tám phân, nặng sáu mươi tư ki-lô... Trọng bỗng rùng mình, anh thèm được gặp lại Bích, thèm nhìn thấy khuôn mặt ấy, dò thấy đáy sâu tâm hồn ấy. Anh bảo Hoan:

- Được rồi, tớ sẽ đi. Còn mấy hôm nữa nhỉ?

Hoan đáp:

- Anh đi là đúng. Bốn hôm nữa hội nghị khai mạc. Muộn nhất ngày kia anh phải lên đường. Hôm ấy bên huyện ủy cũng có người xuống thành phố. Chiếc U-oát của họ chạy tốt lắm. Em đã nói với họ dành một chỗ cho anh.

Trọng nói:

- Tớ không hiểu bộ mặt của mấy ông tổ chức sẽ ra sao khi không phải là cậu mà là tớ xuất hiện.

Hoan đáp:

- Lờ họ đi. Cứ bảo là em ốm. Ở đây chỉ có hai anh em mình. Còn đám ấy quen chiếu ấm giường êm, sức mấy dám leo xe Reo, xe tải mà lên chốn khỉ ho cò gáy này.