Chương 12
Cường đã mơ rất lâu...Anh tỉnh dậy, uống một cốc nước đầy cho đã cơn khát. Con tàu vẫn đi, sóng chòng chành xô lắc. Cơn xô lắc lặp đi lặp lại như không bao giờ chấm dứt khiến óc chàng trai kêu ù ù. Mùi dầu máy xộc vào mũi anh, giống như những mũi khoan nhức nhối. Khứu giác của anh quá tinh nhạy, nó không thích ứng với mùi dầu. Chỉ cần ngửi thấy một làn gió thoảng qua đem theo mùi hôi khét của nó, là anh lại liên tưởng tới mùi tanh lợm của những dây xích bị nước mặn hoen rỉ, của những chiếc thùng gỗ chứa thực phẩm mốc meo, của những bãi nôn...Ngọn đèn trên trần đong đưa như đánh võng. Chàng trai đặt chiếc cốc rỗng xuống sàn phòng, nhắm mắt lại. Và tiếp tục cơn mơ...Lần này, một giấc mơ nặng nề, kéo dài với đầy đủ mọi âm thanh và hình dáng như nó đã được diễn ra trong đời thực.
Chàng trai đã trở dậy sau một trận ốm dài. Những sợi tóc còn sót lại lưa thưa phủ trên vầng trán và trên sọ. Tóc rụng nhiều quá nên lớp da sọ trở nên bóng như vải sa tanh, phơi ra qua đám tóc mỏng, ngả màu hung. Cường chụp chiếc mũ vải lên đầu ngắm nghía trước gương hồi lâu cho tề chỉnh. Rồi Cường đi qua cây cầu tàu xuống cảng. Tàu vắng tanh, không một bóng người. Bá, Tuấn hói, Đính và toàn bộ thủy thủ đều rời tàu từ lúc mờ sương. Cường nhìn quanh:
- Có ai không?
Tiếng anh vọng oang oang trong các căn phòng và hồi âm dội lại.
Cường gọi lần nữa:
- Tàu trưởng đâu?...trông tàu cho tôi xuống.
Thêm một lần nữa, những tiếng vang của anh vọng vào tai anh. Con tàu khẽ đung đưa, ngân một tiếng chuông vô thanh của ảo giác. Cường xốc tới từng phòng, tìm kiếm, nhưng con tàu vắng lạnh như bãi tha ma, chàng trai sợ hãi. Hình như người ta đã trù tính giam giữ anh trên tàu. Họ đã bỏ trốn hết...Cường chạy tới cửa hầm tàu nhìn xuống, hầm tàu tối om, chỉ có chiếc bẫy chuột há miệng chờ và mùi ẩm mốc bay lên từ các xó xỉnh. Một bàn tay kéo áo anh lại. Cường vã mồ hôi, thu hết sức giằng khỏi bàn tay đó. Mảng áo rách soạt...lúc ấy anh mới biết một chiếc đinh móc vào áo mình. Nhưng mồ hôi anh vẫn vã ra như tắm. Chàng trai leo qua cây cầu thang, hối hả như bị ma đuổi. Anh vượt qua boong, lên cầu tàu. Cây cầu tàu rung rinh trao đảo, và những gợn sóng vẽ loang loáng dưới vụng biển như có cuộc tụ hội của trăm loài rắn nước. Anh nhắm mắt cố quên những tấm thân nhẵn bóng, trườn mềm mại như múa trên mặt nước đầy váng dầu. Sau vài phút tĩnh trí, chàng trai lên cầu tàu xuống con kè đá. Hai đầu gối run như giẽ. Cường nín thở đếm từng bước. Áo anh ướt dán vào lưng, cả hai nách cũng ướt sũng mồ hôi. Người anh lúc nóng ran, lúc lạnh toát như bị giam trong hầm nước đá...Anh cắm cúi đi thẳng, không dám một lần quay lại nhìn con tàu. Nhưng có cảm giác rõ rệt là con tàu vô chủ như một lâu đài bị quỷ ám, đong đưa dưới bến cảng nhìn theo. Con mắt nó nửa như cợt cười, nửa như đe dọa...Chàng trai lao đầu chạy. Khoảng sân xi-măng vắng bóng người. Phòng thường trực với ngọn đèn treo trên khuôn cửa sổ. Mái tóc muối tiêu của người gác cảng đang cúi xuống, có lẽ ông ta đang đọc báo. Những dẫy nhà kho chụp từng khối đen khổng lồ trên mặt đất...tất cả lùi lại phía sau...Hải cảng, con tàu hoang, giấc mơ ám ảnh, cơn đau nghẹn thắt trái tim...Cường thấy cổ khô, họng khô đến nỗi đau rát.
Vượt qua cổng lớn, anh theo con đường trải nhựa chạy ra tỉnh lộ. Tám trăm thước nữa...vệ cỏ ướt sương trải dài phía trước, óng ả những sợi cỏ non ngậm ánh mặt trời. Cường quay lại, mặt trời đã lên, ngang mũi tàu, nơi lủng lẳng một chiếc neo phụ. Anh yên tâm đứng lại, thở hổn hển. Những sợi tóc lưa thưa bết chặt vào đầu, dưới chiếc mũ vải. Chàng trai rút khăn tay lau hai thái dương và sau gáy ướt đầm mồ hôi. Những hơi thở nóng hổi vẫn cuộn trong ngực anh, dồn dập. Hai chân anh mỏi rã, bắp chân tê cứng sau cuộc chạy quá sức. Anh ngồi bệt xuống vệ cỏ, gục đầu lên gối ngủ thiếp đi...
Rồi một khoảng thời gian trôi qua, tiếng xe lọc cọc vang tới khiến chàng trai bừng tỉnh. Rõ ràng là tiếng xe bò bánh gỗ, nhưng khi anh mở mắt nhìn nó lại là một chiếc xe Lam cũ kỹ chạy dầu ma dút, tiếng nổ phành phạch nghe váng tai. Cường đứng lên, giơ chiếc mũ. Chiếc xe ghé sát vệ cỏ dừng lại:
- Chú đi đâu?
Người lái xe thò đầu khỏi thùng máy, cất tiếng hỏi. Mặt ông ta đen, bóng nhẫy mô hôi dưới vành mũ dạ rách. Cường đáp:
- Cháu muốn lên Cam.
Ông chủ xe nhăn răng cười:
- Chuyện mơ ngủ. Từ đây tới đó phải chuyển hai luồng xe nữa. Chú chịu đi không?...
Phía sau, một cô gái mặt bầu bĩnh bỗng cất tiếng:
- Mẹ con tôi cũng lên Cam. Nếu bác ưng, ba chúng tôi bao cả chuyến.
Người chủ xe tần ngần:
- Bao cả chuyến hả?...Nhưng có chịu nổi không? Đây tới đó cả thảy sáu ngàn.
Cường sờ vào mớ tiền cồm cộm trong túi quần: cả tiền lương, tiền trợ cấp sóng nước, tiền đắt đỏ...cả thảy cũng chỉ trên hai ngàn. Anh bảo:
- Tôi nạp đủ hai ngàn đấy.
- Vậy thì lên xe.
Ông chủ xe hất hàm ra hiệu, rồi rụt đầu vào buồng máy...Chàng trai vòng ra thùng xe, trèo lên. Chỉ còn một chỗ ngồi, sát tấm ván che hậu. "Dù sao, mình cũng vẫn gặp may..." Cường nghĩ, ngả đầu tựa vào tấm tôn lát phía sau. Cô gái có gương mặt bầu bĩnh đưa mắt nhìn anh một giây rồi quay về phía bà mẹ. Bà ngồi phía trước gần buồng máy, đầu choàng tấm khăn rộng bằng lụa trơn, chắc là để giữ cho mở tóc khỏi bám bụi. Cả hai đối diện với anh, gương mặt, lẫn hình vóc họ đều hiển hiện một cách rõ ràng. Chàng trai chợt giật mình, nhưng chàng không hiểu vì sao. Người mẹ đưa mắt về phía trước, cô con gái ngả đầu vào vai mẹ, mắt lim dim. Có dáng dấp nào đó rất quen...Có lẽ anh đã từng gặp họ. Đường cong của khuôn cằm, sống mũi, những sợi mi...cái đuôi lông màu sắc như vẽ của cô gái được thừa hưởng của người mẹ. Còn nét nhìn đờ đẫn đôi lúc thoáng qua trong đôi mắt của người đàn bà luống tuổi, những nếp nhăn khổ ải dưới quầng mắt, hai bên mép, đám da bị hủy hoại nơi gò má và hai bên thái dương...Chắc chắn anh đã từng gặp họ...nếu không phải trong đời thực cũng là trong giấc mơ. Cường cúi xuống nhìn mũi giầy, cố lục tìm trí nhớ.
Chiếc xe Lam vẫn chạy rất nhanh, như một con ngựa già nhưng hung hăng, tiếng nổ rền rĩ. Chừng mươi phút sau, xe tới bến thành phố, đón thêm hai bà hàng khô rồi tiếp tục đi. Những người đàn bà trên xe bắt chuyện với nhau. Chuyện buôn bán, chuyện giá cả sinh hoạt, chuyện những người bị oan khổ, chuyện tình...Tiếng họ rì rầm, rì rầm như nước chảy. Hai bà lái buôn, hai nữ tu dòng Dô-dép và mẹ cô gái. Chỉ có cô và Cường là ngồi im. Khi xe đã rời khỏi thành phố, chừng hai chục cây số, những người ngồi trong xe đều gà gật ngủ. Họ choàng mắt thức dậy vào lúc mặt trời lặn: xe dừng lại trước một thị trấn nhỏ có con sông đào với cây cầu đá chạy vắt qua. Nửa thị trấn ở phía Tây sông, nửa kia ở phía Đông. Mặt trời chiều hắt bóng những cây du già xuống làn nước yên tĩnh. Người lái xe nhảy xuống đường, nhanh nhẹn như gã tráng niên gương mặt đen bóng không có dấu hiệu mỏi mệt sau cuộc hành trình. Ông ta bỏ mũ xuống, dùng nó lau mồ hôi trên cổ rồi nói:
- Nghỉ thôi. Ở đây, cơm ngon gạo rẻ. Chỉ phiền không có quán trọ. Nhưng ghế cho thuê cũng nhiều.
Hai bà lái buôn nhảy xuống trước tiên, te tái chạy ra sau vườn cây bên đường tìm chỗ đi tiểu. Cô gái bảo mẹ:
- Mẹ con mình lần trước cũng ngủ qua đêm ở đây phải không mẹ?
Bà mẹ đáp:
- Con nhớ nhầm. Lần trước ta ngủ ở phố núi. Nhưng dạo đem nho xuống thành phố thì ta đến đây.
Cô gái à lên một tiếng:
- Con nhớ rồi. Lần ấy ăn cơm với tôm luộc?.
Bà mẹ gật đầu:
- Mùa tôm sông. Món ăn nào cũng có tôm hết. Nào con xuống trước đi.
Cường đã nhảy xuống. Theo anh là hai nữ tu áo váy đen lượt thượt. Cô gái và bà mẹ xuống xe sau chót. Lúc cô quay nghiêng để đỡ chiếc làn cho bà mẹ, Cường chợt nhận ra cô: Chính là người con gái anh đã đi tìm kiếm. An, thiếu nữ trên bãi biển năm trước. Anh chỉ gặp cô trong khoảnh khắc, rồi tình yêu đã khuôn định cho anh một khuôn mặt, một nụ cười, một dáng dấp...Tới giờ anh ngỡ ngàng nhìn cô, cô gái không hoàn toàn khác biệt, nhưng cũng cách xa người thiếu nữ trong trí tưởng tượng của anh. Cao lớn hơn, làn da ửng nắng của con gái miệt vườn chứ không phải nước da trắng xanh của dân thành phố, mái tóc không còn xõa ngang lưng mà búi thành lọn phía sau, gài cây trâm lớn bằng sừng. Trông cô mạnh mẽ và trần thế hơn người thiếu nữ đã được anh tu tạo bằng khối của các cơn mộng mị.
Cường kiếm một chiếc ghế trong quán cơm bên đường, cách xa mọi người một chút. Anh ngồi xuống gọi một cốc nước chanh rồi kín đáo theo rõi hai mẹ con cô gái. Họ đã theo các nữ tu tìm giếng rửa mặt rồi trở lại, ngồi vào chiếc bàn gần bếp nấu ăn. Đối diện với hai mẹ con cô là hai bà lái buôn.
Chiếc bàn họ chọn là trung tâm quán ăn, có đầy đủ các bình dấm, vịt nước mắm, xì dầu, tương ớt, cả chanh và ớt tươi. Bàn của Cường chỉ chỏng chơ một bát ớt tươi thái nhỏ. Hai nữ tu chọn một góc khác, chỉ gọi nước quả chứ không gọi đồ ăn. Họ lấy trong chiếc làn tre mang theo thức ăn đã chuẩn bị sẵn. Cuối cùng người chủ xe bước vào, tìm chiếc bàn nhem nhuốc nhất nhưng ghế ngồi lại có đệm, tấm đệm cũ, nhờn bóng vì ghét. Ông ta ngả lưng ra phía sau một cách khoan khoái, cất tiếng gọi dõng dạc:
- Rượu, bà chủ nhé. Với lại nửa con gà.
Bà chủ quán phía sau quầy hàng, đang điều khiển một bếp lò rừng rực lửa than, vươn cổ hỏi:
- Luộc hay rán, ông bác?
- Luộc. Nhiều hành vào.
Ông chủ xe Lam trả lời. Hai bà lái buôn bàn định ầm ĩ rồi xướng các món ăn. Sau rốt tới bà mẹ cô gái. Chủ quán dạ dạ luôn miệng như đệm nhịp cho các câu hỏi của mình:
- Thịt bò xào cho hai bà, nhiều tỏi tây, rau mùi sống?...dạ..dạ...Canh cá chua nữa?..dạ..dạ...chờ cho tôi một chút nhá... Còn bà với cô ăn dưa giá, thịt kho tàu?...thêm canh rau cải thịt nạc..dạ..dạ..có cả cá hấp xa- xíu, bà và cô có dùng không?...
Xong xuôi đám khách chính, bà chủ quay sang hỏi chàng trai:
- Còn anh gọi gì?...Cho tôi biết cả thể.
Cường đáp:
- Tôi ăn cơm, thức ăn...gì cũng được...
Cả bốn người đàn bà quay phắt lại nhìn anh, rồi hai bà lái buôn tủm tỉm cười:
- Dễ tính thế thì vợ thương lắm đấy...
Bà chủ quán cũng cười:
- Hay anh cũng ăn dưa giá thịt kho tàu như bà với cô đây? Nói xong bà ta đưa mắt liếc anh với vẻ chòng ghẹo. Cường đáp:
- Cũng được.
Cô gái quay lại nhìn anh lần nữa, rồi ghé tai bà mẹ thì thầm. Bà ta bật đứng dậy, nhìn anh chăm chăm. Những người ngồi trong quán đều ngạc nhiên trước cử chỉ đột ngột đó, họ ngỏng hết cổ lên nhìn người đàn bà. Cả bà chủ quán đang đảo thịt xèo xèo trên chảo cũng dừng tay lại. Tự dưng, quán im phăng phắc. Bà mẹ cô gái dán mắt vào mặt Cường, rồi từ từ đi lại phía anh:
- Anh là...
Tự dưng, tim Cường đập thình thình. Anh nói:
- Chào bà.
Bà mẹ cô gái lắp bắp:
- Anh là...Có phải anh đã...
Cường đáp:
- Tôi đã đến thăm nhà ông bà...hồi trước...
Bà dừng lại, cầm tay anh một cách tự nhiên, và nói:
- Anh và một người nữa đã tới nhà chúng tôi. Cái đêm con bé cháu...Hồi ấy chúng tôi rời khu kinh tế mới trở về thành phố?...
Chàng trai gật đầu:
- Vâng. Người đi cùng với tôi là anh Bá, trưởng máy dưới tàu.
Bà ta nói:
- Hồi đó, tôi đã nhiều lần tới cảng rình gặp hai anh nhưng không thấy..vả lại, các anh nói rằng không trở lại thành phố...Chúng tôi tưởng các anh đi mãi mãi.
Cường mỉm cười. Người đàn bà hỏi tiếp:
- Tại sao các anh nói dối?
Chàng trai đáp:
- Chúng tôi không muốn gia đình phải bận tâm.
Bà ta vẫn nắm chặt tay anh, ngồi xuống ghế cạnh anh nói:
- Thế thì tệ quá...Chúng tôi không phải thứ người vong ân bội nghĩa. Ăn quả na phải trồng lại cây na...Anh đi về Cam à?
- Vâng.
- Còn anh kia?
- Anh Bá ở lại thành phố.
- Vậy anh phải tới chơi nhà chúng tôi. Không được từ chối. Tôi không để anh từ chối. Đã gặp anh ở đây không có thứ chim trời ngựa núi nào mang anh đi được nữa.
Bà quay lại gọi:
- An ơi, con sang đây. Mẹ con ta cùng ngồi một bàn với anh ấy. Chuyến đi này may mắn quá, kẻ tri ân gặp bậc Mạnh Thường Quân..
Cô gái xách túi sang ngồi với mẹ và chàng trai. Đám người trong quán đã rõ chuyện, thôi tò mò, cúi xuống các đĩa thức ăn bốc khói trước mặt họ. Hai nữ tu ghé đầu vào nhau thì thào, và nhỏ nhẻ ăn như hai con chim.
Bà chủ quán bưng tới một mâm, cao giọng xướng:
- Này nhé, dưa giá thịt kho tàu, canh cải thịt nạc...may mà chưa đánh nhau vỡ đầu đã nhận ra họ...Các vị có muốn gọi thêm cá hấp xa xíu và rượu vang không?...Vang ở đây nấu lấy nhưng còn vượt xa vang Thăng Long của nhà nước.
Bà mẹ cô gái nói:
- Cho tôi nửa chai.
Đoạn, bà bảo Cường:
- Từ đây tới nơi chúng tôi ở bạt ngàn là ruộng nho. Mai, đi đường anh sẽ thấy. Rượu vang vùng này ngon. Từ ngày có nghề trồng nho và nấu rượu, người ta lên nhà gác hai ba tầng ầm ầm.
Tối hôm ấy họ ngủ ngay trên hè phố. Mỗi quán cơm và giải khát đều có năm bảy chiếc giường bạt với chăn màn cho khách qua đường thuê ngủ đêm. Chủ quán treo một cây đèn ba dây lên đầu hồi làm đèn gác cho khách. Họ thuê vài ba thiếu niên đánh tam cúc hoặc bài Tây canh chừng bọn trộm vặt hành lý. Dưới lòng đường, những cỗ xe Lam nằm nối đuôi nhau, bên cạnh vài ba cỗ xe thổ mộ. Xe nào xe nấy đã hạ càng. Lũ ngựa được trói dưới một gốc cây xa xa, tha hồ phóng uế và nhai thóc.
Hai bà lái buôn vừa uống nước xong đã ngủ ngay. Các nữ tu ngồi rì rầm chuyện trò khoảng nửa giờ rồi cũng lặng lẽ chui vào màn. Chỉ còn mẹ con cô gái ngồi với Cường. Họ kể cho anh nghe đoạn đời vừa qua. Từ buổi tối hôm ấy, gia đình họ đã vượt qua được cái hố của bần cùng. Họ tậu một căn nhà gạch nhỏ ba buồng trong phố, mở quán bán chè thập cẩm và thêu đan thuê. Ông bố đã có tiền mua thuốc chữa phổi. Bà mẹ lo làm ma cho đứa con trai cuối cùng bị tai nạn giao thông. Họ sống những ngày no đủ nhưng nỗi kinh hoàng thi thoảng lại ám ảnh. Rời khu kinh tế mới về họ chưa có hộ khẩu, nên quán giải khát dù đã mượn tên một gia đình thân thuộc đứng tên đăng ký nhưng vẫn luôn luôn bị chất vấn, đe dọa. Thuế má leo thang vùn vụt cộng với trăm thứ chi tiêu phí tổn khác khiến vốn liếng cùn mòn. Thành phố chủ trương dân khai hoang quay trở về thành phố không được phép nhập khẩu. Nếu ở lại, mãi mãi họ sẽ chỉ là loại dân vô thừa nhận...Gần năm sau, một người bà con xa về thành phố cất hàng, tới chơi. Ông ta hỏi thăm cảnh ngộ và khuyên họ rời tới vùng đất mới làm ăn. Vùng đất mới sẽ hái ra vàng. Nghề trồng nho và nấu rượu vang sinh lợi chắc chắn hơn mọi nghề khác. Nếu thua kém, nó chỉ thua kém nghề đào vàng, nhưng bù lại, nó không bắt con người phải hứng chịu lam sơn chướng khí...
Hai vợ chồng bàn định một đêm...Sáng hôm sau đã quyết. Trong vòng mười hôm họ bán lại cửa hàng tủ mẫu quần áo thêu và mọi thứ vật dụng khác thuê một chuyến xe Lam rời tới vùng đất mới. Người bà con dẫn đường. Ông ta có thế lực, lại tinh khôn. Chẳng bao lâu, ông ta đã thu xếp cho họ một cuộc sống ấm êm, thịnh vượng.
Hôm sau, người chủ xe đánh thức khách hàng quá giang từ lúc gà gáy sáng.
Chủ quán đã kịp nhóm lò, đun nồi nước dùng sôi sùng sục để bán phở sớm.
Mọi người ăn xong lên xe đi. Lần này bà mẹ cô gái dành chỗ ngồi bên Cường. Dọc đường bà hỏi chuyện chàng trai, như một người thân cũ chứ không phải một kẻ mang ơn. Cô gái ngả đầu vào vai mẹ, chăm chú nhìn anh với vẻ vô tư của con trẻ. Hai má cô ửng hồng vì nắng, phủ lớp lông tơ phơn phớt như trái đào. Món tóc mai vương dưới vành tai tròn, xinh xắn. Cô mặc chiếc áo lụa xanh, màu áo phản chiếu lên đôi mắt lớn, trong veo. Dường như trong đôi mắt đó, có bóng của bao nhiêu vườn nho rủ xuống...Cường chợt thấy hình ảnh cô bé An anh đã vẽ trong tâm trí nhòa đi trước cô An bằng xương bằng thịt chỉ cách anh có một tầm tay. Anh nhớ buổi tối anh tìm cô ở xóm chài. Khi anh rời căn lều có bà già tốt bụng trở về, anh đã cô đơn biết bao, buôn bã biết bao khi lang thang trên các vỉa hè thành phố.
- Anh có ăn quýt không?...Ngọt lắm..
Nửa chừng câu chuyện giữa anh và bà mẹ, cô bé chợt cắt lời. Cô lục trong làn lấy ra mấy quả quýt, chìa cho anh.
Người đàn bà mỉm cười:
- Con sáng ý đấy...Mẹ mải chuyện, quên mất...Kìa, mời anh...Thứ quýt này được nước nhất vùng.
Cường cầm quả quýt trong tay cô gái. Tay An chạm vào tay anh một cách vô tình. Cô vội rụt tay lại và đưa mắt nhìn vào hai nữ tu ngôi đối diện.
Họ tới nhà cô vào lúc ba giờ chiều. Từ nhà cô tới Cam còn bốn chục cây số nữa. Một ngôi nhà nhỏ nhưng rất đẹp, xây bằng đá trắng, mái lợp ngói âm dương. Vườn nho vây quanh, và chạy dài về phía sau, thành những ruộng nho vuông vắn được phân cắt bằng những bờ cỏ. Đất ruộng thấp hơn đất vườn. Dàn nho cao cỡ hai mét rưỡi, đan bằng tre, đặt trên các cây cọc gỗ chắc chắn. Nho trắng và nho đỏ, tất cả đều đang chín. Giữa các ruộng nho, trên nóc nhà, ngất nghểu những thằng nộm cầm cờ đuổi chim và đuổi dơi. Cường đã dừng lại trước ngôi nhà ấy, lặng đi trong cảm giác bình an mà anh chưa bao giờ có được. Cảm giác của con người về với cõi sống thực của mình. Cảm giác của các thiên sứ trở lại thiên đường, của những mãnh thú đã tàn lực sau khi vượt qua cơn hồng thủy, tìm được hang ổ thân quen nơi nó sinh thành và trú náu.
Bà mẹ cô gái phải giục hai lần Cường mới bừng tỉnh cơn mê, bước theo chủ nhân vào nhà. Ông chủ, người nghệ nhân có đôi tay vàng đã nhận được anh ngay. Ông ta không còn gương mặt ám khí của con bệnh, đã thành một trong những người đàn ông đẹp nhất thế gian. Ông hân hoan đưa anh vào nhà, việc đầu tiên là khoe với anh hàng chục pho tượng gỗ đứng trên bàn thờ, trong tủ, trên các giá gỗ như một viện bảo tàng nhỏ...Cường sống trong gia đình ấy một tuần lễ. Khoảng thời gian ấy chàng trai quên mùi tàu bè, mùi biển cả, quên cơn say lắc, quên tiếng cười độc ác của gã thủy thủ Đính, quên nỗi nhục nhằn của mình...Một tuần lễ, quãng đời thực của anh. Bóng mát của các giàn nho, mùi gió đồng phóng khoáng ánh nắng rọi trên bờ cỏ ướt sương, tiếng chim gọi bạn ban chiều, bữa cơm vui vẻ dưới ánh đèn, tiếng cười của An, bàn tay cô đưa cho anh trên các lối đi lỗ dỗ bóng nắng...Một tuần lễ đã qua, Cường chợt nhận ra rằng anh không thể ở lại thêm, theo phép lịch sự. Vả lại anh còn phải lên Cam thăm ông bố ốm. Anh nấn ná, người ta sẽ đặt những nghi vấn về đạo đức làm con. Sáng ngày thứ tám, An đứng chờ bên đường, vẫy xe cho anh. Khoảng chín giờ, một chiếc thổ mộ chở cá mắm khô và muối ngược lên Cam. Cường chào giã biệt gia đình cô gái, lên xe.
- Anh có trở lại đây nữa không?..- An hỏi.
- Có, sẽ trở lại, nhất định anh sẽ trở lại.
Cường đáp. Anh cúi xuống xiết chặt bàn tay An lần cuối. Xe đã chuyển bánh, cô gái còn chạy theo ném lên một túi nho. Rồi cô đứng bên vệ cỏ, cất tiếng:
- Anh tới chớ?
- Anh sẽ tới.
Cường đáp, tiếng anh vọng lại phía sau. Anh nhìn theo An mãi cho tới khi cô chỉ còn nhỏ như cái chấm sau làn bụi trắng. Xe chạy, mỗi lúc mỗi xa rời vùng quê. Những vườn nho, những ruộng nho đã khuất sau giải đồi hẹp. Phía trước lại là một miền đất mới. Ở đây, người ta trồng tỏi, trồng ớt, chỉ lác đác mới có những ruộng nho. Làng xóm khuất khúc giữa các ngả đường vào các trái đồi. Các vòm lá rủ bóng trên hàng rào nở đầy loài hoa thạch thảo tím. Cường trù tính chỉ còn mươi cây số nữa là tới Cam. Bộ mặt thiểu não của bố anh hiện lên, với đôi mắt cồn cào trông đợi. Cha anh sẽ hỏi anh đã làm được những gì, đã leo lên được chức cấp nào trong nghề tàu biển. Cha anh sẽ tuôn ra tràng giang những kỳ vọng mà ông đặt vào anh. Cha anh sẽ rót vào tai anh như một cái máy hát cũ quay đi quay lại không mệt mỏi một chiếc đĩa cũ: Nào là sự nghiệp vẻ vang của ông thủy sư đô đốc ngày xưa, nào là ngưỡng vọng của cả dòng họ, nào là trách nhiệm phục thù...Và đằng sau tất cả cái mớ những khát khao, những tin cậy ấy là cuộc đời thê thảm của anh. Chiếc mũ nặng nề của số phận chụp xuống, khiến anh chết lút trong đầm lầy. - Tại sao?...Tại sao?...
Anh có thể sống một cuộc đời êm ấm. Trồng nho hay khắc gỗ, bên người con gái anh yêu. Cuộc sống ấy cho anh được làm người thực sự, con người sáng tạo nên giá trị thực của mình. Những trái nho hay bức tượng đẹp, chẳng lẽ không được đặt ngang giá với chiếc mỏ neo vàng trên mũ ngài thủy sư đô đốc hay sao?...Có lẽ quãng đời đã qua là quãng đời bị đánh cắp, như con chim tòng phục mù lòa không cất cánh lên trời cao mà đâm đầu vào vách đá cho tới gãy cánh, trụi lông.
- Cậu tới phố nào đây?
Người xà ích cất tiếng hỏi đột ngột khiến Cường nảy bật lên. Chàng trai thấy mái nhà thờ thị trấn ngay trước mắt mình. Đã đến Cam, chỉ còn vài trăm thước nữa là tới nhà anh. Cường rút sẵn tiền trả chủ xe, chỉ cho ông ta rẽ qua ngã tư. Dăm phút sau, hàng cây hao lá lưa thưa đã hiện ra ven đường. Anh nhảy xuống, bước săm săm vào cổng. Hai cánh cổng mở toang, như sẵn sàng chờ:- Ba ơi...Chàng trai cất tiếng gọi. Không có ai đáp lời.
- Ba ơi...
Cường lặp lại lần thứ hai, và bước vào nhà. Cửa chính cũng mở. Lúc ấy, nghe tiếng chân ở phía sân sau. Lão Ngạn từ trong vườn chạy lên:
- Ơi...i i...
Lão dừng lại trước mặt con trai, thở hồng hộc. Một tay lão lúm lưng quần, tay kia níu áo anh.
Cường hỏi:
- Ba làm gì sau vườn thế?
Lão đáp:
- Ba đi tiểu.Ruột gan dạo này hỏng.
Môi lão tái nhựt. Lão vẫn giữ chặt tay áo Cường như sợ anh bay đi mất:
- Vào nhà đi con.
Hai cha con vào, ngồi bên nhau. Cường im lặng, còn lão Ngạn chăm chăm nhìn con trai, ánh mắt dò dẫm và phấp phỏng:
- Ba chờ...chờ lâu quá...Không thấy thư từ gì..
- Con đi một chuyến đường dài, vừa về thành phố.
- Hồi ở chỗ con Bích, hai ba lần ba tới cảng...mà không gặp con.
- Vâng. Có lẽ lúc ấy con đi vắng.
- Dạo này, con ra sao?
- Cũng thường, ba ạ.
- Đã có tiến bộ gì chưa?...đã được cất nhắc gì chưa?...Ba mong quá.
Môi lão run run. Đôi mắt vàng đục ngước nhìn anh, hau háu như mắt quạ nhìn mồi. Cường đã thuộc lòng những lời lẽ tiếp theo: Bao giờ con được bổ nhiệm thủy sư đô đốc, danh tiếng nức thiên hạ, có người bưng hòm khiêng tráp như ông nội ngày xưa?...Con sẽ xây lại tòa nhà nguy nga của ông, và cha con ta sẽ trở về thành phố...Chao ôi, giấc mơ quỷ ám. Cái khát vọng đã đầy đọa anh không được sống kiếp người. Cường hất tay lão Ngạn, đứng bật dậy. Lão nhìn con trai ngơ ngác. Anh đang đứng trước mặt lão, run lẩy bẩy, mồ hôi nhỏ thành từng dòng hai bên thái dương. Gương mặt anh co rúm lại, thoắt đỏ, thoắt tái nhợt, dường như nó đang phải chế ngự một cảm xúc nào đó, rất khủng khiếp. Mắt anh lóe lên, chợt tối sầm, rồi lại bắn ra những tia lửa thù hận.
Lão Ngạn lắp bắp:
- Làm sao..làm sao?..
Cường vẫn câm lặng. Tiếng tắc lưỡi của một con thạch sùng vang lên trong căn nhà. Chợt, chàng trai giật mạnh chiếc mũ vải trên đầu và cất giọng the thé:
- Thế này đây...như thế này đây...
Giọng anh ta sai lạc, như tiếng đàn sai cung bậc, nghe ghê tai. Anh nghiến chặt hai hàm răng, rồi nói tiếp:
- Con đã thành một người như thế này đây...ba hãy nhìn xem.
Lão Ngạn nhìn lên đầu Cường, bật tiếng kêu. Đầu anh rụng như gần trụi, chỉ còn ít sợ tóc cỗi, màu hung lưa thưa dán vào lớp da sọ.
Với bộ tóc ghê rợn ấy, trông con trai lão như một lão già quái thai có bộ mặt thiếu niên. Cường vẫn chăm chăm nhìn lão, và nói tiếp:
- Con sinh ra không phải để làm thủy sư đô đốc. Mãn kiếp con chỉ là gã thủy thủ tồi. Mãn kiếp con chỉ là thằng loong toong sai vặt dưới tàu, lau rửa sàn tàu và bẫy chuột. Không một tàu trưởng nào cần con phụ tá, không một trưởng máy nào muốn truyền nghề cho con. Đến thủy thủ thường con cũng không tròn trách nhiệm...Con không chịu được sóng gió, con không thích hợp với cuộc sống tàu bè... Thiên hạ khinh bỉ, giễu cợt con...Con không thể nào...Tới đó, chàng trai ôm cái đầu trụi tóc, ngồi khóc. Lão Ngạn trở lại bình tĩnh. Mặt lão đỏ bầm, lão hét lên:
- Mày...ra mày hèn như thế?...Mày thối chí, mày không chịu noi gương của ông nội ngày xưa...
Cường ngẩng đầu lên, mặt anh đầm đìa nước mắt:
- Không chịu noi theo ông thủy sư đô đốc?...Vậy thì tại sao ba không noi theo ông ấy?...Ba cũng có một cuộc đời. Ba cũng có mấy chục năm để thực hiện giấc mộng vàng của ba.
Lão Ngạn tắc họng, mặt ngây ra. Rồi lão nghiến răng kèn kẹt và túm ngực áo con trai, lão bắn ra một tràng chửi rủa:
- Thằng khốn kiếp... thằng mất dạy...mày dám cãi lại tao hả?...Tao đã trở thành thủy sư đô đốc, tao đã trở thành một người lừng danh, mọi người phải kinh nể...nếu tao không bị số kiếp dầy đọa, nếu như tao là một người đàn ông mạnh khỏe như mọi người...
Cường kêu lên:
- Vậy, ba đã tự tha thứ cho ba...tại sao ba không tha thứ cho con?..Con sợ sóng nước. Con hãi hùng kiếp sống lênh đênh trên biển...Con sợ những hiểm nguy rình rập...Con không phải là kẻ có khả năng để trở thành thủy sư đô dốc như ba mong.
Lão Ngạn gầm lên:
- Mày là một thằng con trai khỏe mạnh bình thường...Nhưng mày hèn, mày thối chí.
Cường van vỉ:
- Trời đã sinh con như vậy, không thể đổi thay...Con có thể kiếm được những đồng tiền lương thiện cho ba. Nếu con trồng nho, khắc gỗ hay đi dạy học tại một trường cấp hai, cấp ba nào đó...Tại sao ba không thể chấp thuận? Những đồng tiền ấy cũng ngang giá như những đồng tiền mang từ tàu biển về?...
Lão Ngạn lại rít lên:
- Mày là một thằng hèn...Tao không ngờ đã sinh ra một đứa con trai hèn mạt như mày...Mày không thể hình dung được ngày xưa, ông nội mày đã sống hiên ngang, vương giả như thế nào?...Cả một vùng, sáu tỉnh phải cúi đầu nể phục.
Bất ngờ, chàng trai vùng đứng lên. Anh vẫn khóc, nước mắt ròng ròng chảy, mồ hôi cũng ròng ròng chảy hai bên thái dương trụi tóc.
Mặt anh co rúm lại:
- Mặc mẹ cái cuộc sống vương giả của ông thủy sư đô đốc ngày xưa...Còn ba, nếu ba hối tiếc vì đã sinh ra con thì ba hãy lấy lại nó ngay bây giờ...Dao đây, cứa một đường ngang cổ là xong...Con cũng đang ao ước được như thế. Chết đi là yên chuyện, ngủ một giấc vĩnh viễn, không phải chịu đầy ải vì gánh một gánh nợ oan khiên.
Cường vớ con dao phay lão Ngạn vẫn dùng chặt thịt hoặc chẻ tre chìa ra. Lúc ấy anh thèm khát cái chết thật sự, thèm khát được lìa bỏ kiếp sống khổ này, thèm muốn được cách xa mãi mãi người đã sinh ra anh, kẻ gần gũi nhất, thân yêu nhất mà cũng làm anh kinh hãi nhất trên cõi đời...Cha anh trợn mắt nhìn anh. Rồi ông vớ lấy chiếc bình cắm hoa cổ trên bàn, ném thẳng vào mặt đứa con trai:
- Thằng khốn kiếp...quân lộn đâu quay cổ...Mày giết tao...
Cường bỗng bật khóc hu hu. Chàng trai quăng con dao xuống sàn: - Chính ba mới là người giết con...ba đã cướp sống quãng đời trai trẻ của con.
Anh lao thẳng qua sân, ra đường. Một cái ức ngực vạm vỡ, có vành đai chồm lên trước mặt anh. Trên đó là cái đầu ngựa với lớp bờm dày phủ xuống, cặp mắt ngựa tụ lại trên chóp trán, lác xệch như mắt người bị trúng gió. Gương mặt méo đi vì sợ hãi của người chủ xe. Tiếng hét thất thanh và muộn màng...Tất cả cùng hiện ra một tích tắc. Cường nhìn rõ hai chân trước của con ngựa cùng chồm lên, lơ lửng giữa khoảng không, trước khi chúng đạp xuống đầu anh, bóc tuột một lớp da sọ và những sợi tóc lưa thưa.
Máu trào khỏi miệng anh, chảy lênh láng trên mặt đường. Máu rất ấm và có vị mặn...
- Thế là xong.
Chàng trai lầm bầm. Sau đó lưỡi anh cứng như nước đá và anh không thể há miệng ra được nữa. Nhưng con ngựa vẫn kéo cỗ xe vượt qua. Anh nhìn thấy cái bụng căng phồng của nó với lớp lông trắng ngà, có vài con mòng bám. Anh sợ hai chân sau con vật sẽ dẫm nát mặt mình. Không, không thể bước vào cõi vĩnh hằng với khuôn mặt bị dẫm nát, biến dạng đi như thế. Chàng trai cố thu tàn lực kêu to:
- Tránh ra..tránh ra
...Có ai đó lay vai Cường. Lại có tiếng gọi bên tai anh Chàng trai ú ớ, nhưng phải một lúc lâu sau anh mới mở mắt ra nổi. Bá cúi xuống hỏi:
- Cậu mê man khiếp quá...Tỉnh hẳn chưa?
Cường gật đầu. Anh không thể nói được. Toàn thân rã rời và ngực trĩu nặng như có đá đè. Ngay thở cũng khó khăn. Bá đặt tay lên trán Cường, nói:
- Vẫn còn sốt...Đã hai ngày nay không chịu ăn uống gì... Giờ cậu phải uống lấy nửa cốc sữa.
Anh đứng dậy, lấy phích nước sôi pha một cốc sữa nhỏ, ép Cường uống, uống xong, chàng trai thấy tay chân mình ấm hơn lên. Anh thở bớt khó khăn, nhịp tim không còn thúc từng hồi như trống gõ. Nhưng lúc Cường tỉnh cũng là lúc anh ý thức được giấc mơ vừa trải qua. Cảm giác tủi nhục dâng đầy, nước mắt trào ra, dàn dụa. Bá hỏi:
- Mê cái gì mà khóc mãi?..
- Không...
Cường đáp yếu ớt, nhắm mắt lại. Nhưng nước mắt như những dòng suối nhỏ, tuôn không ngừng. Chàng trai hiểu rằng, hạnh phúc anh vừa trải qua chỉ ở trong giấc mơ, cả sự phản kháng của anh cũng chỉ có ở trong trí tưởng tượng. Những vườn nho có thật trên cõi đời nhưng anh không đủ sức đi tới đó. Anh bị lún chìm trong đầm lầy, dưới chiếc mũ của số phận nghiệt ngã. Thượng đế sinh ra anh, như một sinh vật thiếu hoàn hảo, vì chỉ bơm vào các huyết quản dòng máu của sự phục tòng.