VĨ THANH
Hồi xảy ra câu chuyện này, tôi có ở thành phố. Trong số những thành phố đã từng sống, thành phố ấy có vẻ đẹp lạ lùng. Cây cối tốt tươi, hoa trái trong vườn lúc lỉu. Trời nhiều mưa, nhiều nắng, và ánh sáng phù ảo khiến cho biển thay màu như một con kỳ nhông từ thời hồng hoang lưu lại. Chiều chiều, cả chuông chùa lẫn chuông các nhà thờ Ki-tô giáo và phái Tin lành cùng thánh thót đổ hồi. Dân ở đấy hiền, không thích đánh nhau, mắt mơ màng như phủ bóng vườn cây. Nhưng thi thoảng, họ có những cơn khùng ghê gớm không thể đoán trước. Sống ở đấy bắt đầu quen, tôi lại có việc phải ngược lên phương Bắc, một thị trấn heo hút, hai tuần mới có một phiên chợ và phiên chợ nào cũng chỉ nghe hát lượn đã thêm sầu. Tôi vẫn nhớ thành phố biển, bãi cát, ánh dương quanh các khu vườn. Tình cờ, mùa hè năm nay, tôi có dịp trở lại. Phố phường vẫn như xưa, nhưng có thêm ba Hôtel mới và cỡ một chục tiệm ăn mới. Nghe đâu, toàn người nước ngoài và Việt kiều bỏ vốn làm. Đám này thật kỳ dị, sao họ chỉ thích xây nhà nghỉ và các tiệm ăn. Chắc họ âm mưu làm cho dân thành phố chết chìm trong hũ rượu? Bãi biển càng ngày càng đông. Dù đỏ dù xanh mọc như nấm. Tôi ra bãi cát chơi, sực nhớ tới nhân vật Trọng. Hỏi ba ngày, mới biết anh ta đã bỏ việc trở về quê. Biệt thự chim câu của Trọng và Bích xưa giờ ông phó chủ tịch huyện Sơn Thanh ở. Còn Bích, cũng đã chuyển sang thành phố khác, xuôi về phía Nam một trăm hai mươi cây số. Giá như không xảy ra sự kiện ở phòng số 314, tại hành lang phía Bắc của Hôtel sang trọng nhất thành phố hồi ấy, chắc cô còn lên mãi, lên mãi chức cấp nào không rõ. Ở xứ xở của chúng ta lạ lùng làm vậy, cùng một việc, giá giấu kín được trong vòng bí ẩn của đêm đen lại khác, bị phơi trước ánh mắt mọi người là nguy. Người đàn bà tinh khôn ấy không tính được chữ ngờ. Suốt ngày lang thang dọc bãi biển, tôi đã tới bến cảng tìm con tàu xưa, nhưng nó vắng mặt. Trong vụng nước là những con tàu lạ, bảnh chọe, kiêu kỳ với đám thủy thủ phương phi như người phương Tây. Không gặp ai quen để hỏi thăm Cường. Chàng trai trẻ đáng thương. Mãi lúc rời thành phố, tôi mới biết Cường đã được chuyển tới một tu viện ở bên kia cầu, cách nơi tôi ở chỉ non một cây số. Thời gian đầu, bị bệnh nặng suốt ngày chàng trai leo lên cửa sổ, túm chặt những chấn song như khỉ leo cây. Bất cứ ai, bất cứ vật gì cũng khiến Cường sợ hãi. Đối với người bệnh, thế gian là tụ hợp của các sức mạnh có thể dè nát anh ta, nuốt tươi anh ta. Trong đôi mắt to và đen, đẹp kiểu đàn bà, luôn luôn ánh lên nỗi lo âu, hoảng loạn. Đám người điên trong phòng thi nhau làm tình làm tội chàng trai. Một vài tháng, họ khám phá ra cách tra tấn Cường. Họ đặt anh nằm vào tấm vải dài, hai người túm hai đầu lắc lư như đưa võng. Mỗi bận như thế Cường lại rú lên từng hồi và ngất xỉu. Sau các bác sĩ biết chuyện, đưa anh sang phòng khác. Một phòng nhỏ biệt lập, gần khu nhà vệ sinh, luôn có mùi hôi thối nhưng yên tĩnh. Đặc biệt, gần đấy có một giàn hoa bìm nặng trĩu, quanh năm tốt tươi. Người ta thấy bệnh nhân suốt ngày ngẩng mặt nhìn giàn cây, thì thầm tự trò chuyện hoặc im lặng mơ màng vẻ mặt anh thanh thản, các cơn bệnh thuyên giảm rõ rệt.
Một ông già cao lớn, mặc đồ đen, đeo túi vải thường tới thăm Cường. Ông ta tỏ ra hào phóng, chịu khó mua quà bánh ủy lạo đám bác sĩ và người phục vụ. Trong mắt ông có vẻ phiền muộn, xót xa. Ông ta ngồi hàng ngày thủ thỉ chuyện trò với người bệnh trong gian phòng nặng mùi xú uế. Đôi lần, người hộ lý bắt gặp ông ta âm thầm khóc, gục đầu giữa hai cánh tay. Qua năm thứ hai, ông xin với các bác sĩ chuyển chàng trai tới một tu viện. Ông đã liên hệ với mẹ Nhất và các sơ, giúp bệnh viện điều trị tiếp. Các bác sĩ bàn đi tính lại mấy tháng ròng, đơn của ông mới dược chấp thuận. Từ bấy đến nay, Cường sống trong tu viện. Hồi còn ở thành phố, tôi đã nhiều lần đến tu viện ấy. Một lâu dài cổ, đồ sộ, xây gạch trần màu hồng thắm, các mái ngói chóp nhọn như búp thông. Xung quanh lâu dài là các bãi cỏ, vườn cây, các dãy nhà lợp đá tấm và chuồng nuôi gia cầm. Một bức tường bao quanh toàn khu vực, hình ô-van, hệt như bức tường bao quanh lăng vua Minh Mạng ở cố đô Huế. Dọc bức tường, rủ um tùm những loài dây leo có hoa rực rỡ: nào hoa i-rít xanh lơ, nào hoa ti-gôn hồng và đỏ thắm, nào hoa đăng tiêu vàng nghệ... Đứng ngoài nhìn vào, tu viện đẹp vẻ đẹp lạ lùng: nó trộn lẫn bầu không khí u tịch, cô liêu với sắc hoa đỏng đảnh. Ở tu viện đó Cường trở thành một người lao động đắc lực. Anh trồng vườn, cày xới lại tất cả nhửng mảnh đất đã lão hóa, đổi thay các giống cây cằn lụi, đặt một hệ thống nước tưới tuyệt diệu khiến tu viện trở nên mát mẻ. Người bệnh có một trí nhớ đáng kinh ngạc về các độ phì của đất, các loại phân bón thích ứng, các giống cây và quá trình gieo trồng. Anh đã biến khu vườn hoang vu, cằn lụi của tu viện thành một thiên đường bé xíu, quanh năm tràn trề hoa trái.
Thu nhập của bệnh viện tăng gấp ba lần rưỡi. Ngày nào cũng có một đàn sơ tha thướt vào vườn, khi thì cắt hoa tươi hoặc hái quả chín, khi thì dỡ hành tây hoặc khoai tây. Tháng hai lần, một chiếc xe Lam chở đầy ắp thực phẩm chạy thẳng vào cổng tu viện, tiếng nổ ròn nghe thật hãnh diện.
Mẹ Nhất và các sơ không có lý gì để không quý mến Cường. Việc nuôi một người bệnh tâm thần từ một hành vi nhân ái trở thành chuyện may mắn trời cho. Cường đã là một tài sản và niềm vui của họ. Họ theo dõi, săn sóc chàng trai như chăm bẵm đứa trẻ. Hồi đầu, Cường luôn luôn buột miệng gọi các sơ trẻ là An... Dạo ấy, chàng trai còn bị các cơn mê hoảng co giật và rối trí. Sau này, khi trí não sáng suốt lên, các cơn bệnh gần như chấm dứt, anh không gọi ai bằng cái tên ấy nữa. Nhưng nhiều bận, các sơ thấy chàng trai ngồi tựa lưng vào gốc cây hoặc bậc thềm, ngước đôi mắt u uẩn nhìn trời, như tìm kiếm ai đó giữa các tầng mây. Giả như ngồi gần đó lắng nghe, hẳn sẽ thấy anh thì thầm gọi:
- An, An ơi...An ở đâu?
Các sơ không muốn Cường rời tu viện. Nhưng nếu anh khỏi bệnh mà nhất quyết trở lại cuộc đời thế tục họ cũng không dám giữ. Theo các sơ dự đoán nếu tình trạng sức khỏe của Cường cứ tiến triển tốt như bây giờ, chỉ hai, ba năm nữa anh sẽ lành. Lúc ấy, Cường có thể bước vào cuộc đời như bất kỳ một chàng trai nào đó, bắt đầu đặt viên gạch xây móng cho ngôi nhà của mình.
Như vậy, quãng vài năm nữa, vào những năm 1990 hoặc 1991, nếu các bạn thấy trên đường, một người khách lữ hành tuổi xấp xỉ bốn mươi, gương mặt hoang vắng, đôi mắt đen và ẩm ướt như mắt đàn bà, tóc đã thưa và những nếp nhăn đã kéo chỉ dưới hai đuôi mắt... Anh ta xách chiếc va-ly nhỏ hoặc chiếc túi du lịch cũ. Và bên tay kia, chiếc làn cói mà các sơ chất đầy bánh trái ăn đường. Trong cái nhìn của anh ta, có niềm lo âu thầm kín, có sự ngờ vực lẫn nỗi cô đơn - ánh mắt của người đã tách biệt với cuộc đời một quãng thời gian xa lắc, như kẻ bị ném lên hoang đảo sau vài thập kỷ mới vẫy được tàu về. Anh ta đứng bên vệ cỏ, ngập ngừng mãi không dám giơ tay vẫy xe... Đó chính là nhân vật của cuốn chuyện này. Cường đã lành bệnh, rời tu viện để đi tìm đời sống, đi tìm cô An của anh ta.
Hà nội, ngày 15-12-1983.
D.T.H
HẾT