Phần Thứ Hai: Bắc Tiến.
Cưỡi gió đông nam
Ngô Cầu đã rụng đầu!
Bản đồ Thuận Quảng đã bôi lại màu sắc.
Keo thứ nhất vật Trịnh đã hái được những tiếng hò reo đắc thắng lẫy lừng!
Nguyễn Huệ, từ đây, tự do nhẩy múa quát thét trên vũ đài quân sự và chính trị…
Đứng bên Huệ, Cống Chỉnh “lên dây cót” cho “đồng hồ thời cục” một phen xoay chuyển…
Chỉnh nói với Nguyễn Huệ:
– Việc binh, cốt quý thần tốc. Tướng quân mới đánh một trận đã lấy được Thuận Hóa: cái oai thần võ ấy làm cho mảnh đất Bắc Hà đã phải rung động! Tình thế dễ dàng như giương thẳng dao chẻ tre! Tướng quân nên thừa thắng, cứ đánh dấn đi, thì lấy thiên hạ chắc dễ như trở bàn tay. Vả, hành binh có ba điều: “thời”, “thế” và “cơ”. Nếu gặp dịp có đủ ba điều ấy thì đâu chẳng nắm được phần thắng? Ngoài Bắc bây giờ: tướng biếng nhác, quân kiêu rông, triều đình không có kỷ cương gì cả! Ta nhân dịp đại thắng này mà kéo quân ra diệt kẻ loạn vong, có khó gì? Xin Tướng quân đừng bỏ qua “cơ”, “thời”, “thế” này!
Huệ trầm ngâm:
– Bắc Hà nhân tài còn nhiều, coi khinh thế nào đặng?
– Nhân tài ngoài Bắc chỉ có một Chỉnh này thôi. Chỉnh đã đi rồi, thì nước rỗng không! Xin Tướng quân đừng ngờ.
Huệ cười:
– Chẳng đáng ngờ người nào khác, có chăng chỉ đáng ngờ ông.
Chỉnh thất sắc, xin lỗi:
– Ý tôi muốn nói quá đi như thế: Chỉnh đã là một tên ngu đần hèn mọn, vậy mà ngoài Bắc không ai hơn Chỉnh, đủ biết trong nước vô tài đến thế là cùng!
Huệ lại ngọt ngào yên ủi:
– Chốc lát đi giựt lấy cái nước đã vài trăm năm kia, người ta sẽ cho quân mình là vin vào cái danh nghĩa chi mà làm vậy?
– Nay, Bắc Hà đã có vua, lại có chúa: thật là việc đại biến xưa nay chưa từng có. Họ Trịnh tiếng rằng phụ chính, nhưng kỳ thực hiếp đáp nhà vua! Người trong nước, từ lâu vẫn cho làm thế là quấy! Sở dĩ họ không dám cựa lên chẳng qua vì sức không nổi. Tướng quân quả hay vin lấy cái danh “phò Lê, diệt Trịnh” mà hiệu triệu thiên hạ thì ai người chẳng hưởng ứng? Nghìn năm mới có một dịp này.
– Ông nói phải lắm! Song le mang tiếng là kiểu mạng thì sao? (Ý nói chưa được Nguyễn Nhạc sai đi, mình đã tự tiện đem quân ra Bắc: bị cho là mạn phép làm liều thì sao?)
– Trong Xuân Thu truyện có nói: “Kiểu là chuyện nhỏ, nhưng lập được công lại là việc lớn.” Thế là có công, sao lại gọi là “kiểu” được? Huống chi ngài không nghe nói ư: “Ông tướng cầm quân ở ngoài dù có mạng lịnh nhà vua truyền ra cũng mặc?”
Cuộc trao đổi ý kiến này là một chương trình, một phương lược xoay lại thời cuộc hồi cuối Lê trung hưng, là những nhát thuổng, nhát cuốc sắp bổ trên nền tảng mà chúa Trịnh Kiểm đã xây bằng những viên đá “tái tạo nhà Lê” rất kiên cố, cũng lại là cái thang để Nguyễn Huệ từ nấc Long Nhương Tướng quân trèo lên bực Bắc Bình vương, rồi leo lên cái nấc Quang Trung Hoàng đế.
Bốn chữ “phò Lê diệt Trịnh” thật là cái lá nhãn “chính trị” để Tây Sơn lợi dụng mà diễn tấn hài kịch “thay họ đổi ngôi!”
Cái động cơ Chỉnh khuyên Huệ kéo quân ra lấy Bắc Hà, có người bảo, là do Chỉnh muốn báo thù cho Hoàng Đình Bảo và muốn tiện bề quay về cố hương nên mượn thế lực Tây Sơn để đạp đổ Trịnh Tông, diệt phăng họ Trịnh.
Nói vậy không phải là người biết Chỉnh. Chỉnh là một tay gian hùng. Cái gì có lợi cho Chỉnh thì Chỉnh mới làm, chứ có nghĩ gì đến tình với nghĩa. Cái khẩu hiệu “phò Lê” của Chỉnh chỉ là chuyện nhân nghĩa hão để phỉnh gạt dân chúng Bắc Hà bấy giờ đấy thôi. Chứng cớ: sau được vua Lê Chiêu Thống vời Chỉnh vào kinh hộ vệ, Chỉnh lại theo gót chúa Trịnh, hết sức hiếp đáp vua Lê. Chỉnh, đối với vua Lê còn thế, huống chi Đình Bảo? Vậy có thể nói: Việc Chỉnh vạch đường “Bắc tiến” cho Tây Sơn quyết không phải vì lòng muốn đền bồi Đình Bảo, cố đánh Trịnh Tông để trả thù cho chủ nhân xưa nay vậy!
Nguyễn Huệ, sau khi bị Chỉnh uốn lưỡi thuyết siêu, không ngần ngại gì mà không gươm, cờ thẳng chỉ ra Bắc.
Công việc Bắc tiến tức thì sắp đặt: Chỉnh làm thủy quân tiên phong, sửa soạn chiến thuyền, đem thủy quân vượt biển đi trước. Huệ hẹn với Chỉnh: khi đến Vị Hoàng (nay là Nam Định) thì cướp lấy kho lương ở đó, rồi đốt lửa làm hiệu để báo tin cho Huệ biết.
Để Nguyễn Lữ đóng giữ Thuận Hóa, Huệ viết thư về Quy Nhơn báo cáo cho Nhạc biết, rồi gươm sai, cờ vía, Huệ đốc suất hai mặt thủy lục ầm ầm rần rộ kéo ra.
Chỉnh đem quân đi, trước ra cửa Việt Hải61, rồi vào bến Nghệ An. Đến đâu cũng sai vài trăm du binh lên bộ đánh phá ở đó, làm cho quân thanh thêm mạnh, chiến khí thêm hăng và khiến dân tình bên Trịnh càng thêm xao xuyến, khiếp sợ.
Chậy! Chậy! Bọn Bùi Thế Tụy62, Tạ Danh Thùy, là những trấn tướng ở Thanh, Nghệ đều bỏ thành chạy!
Chỉnh đến Vị Hoàng trước nhất, lấy được trăm vạn hộc63 thóc dùng làm quân lương, (ngày mồng 6 tháng sáu năm Bính Ngọ, 1786).
Đồn binh bên Trịnh đóng ở đấy cũng theo mấy tướng Thanh, Nghệ mà chạy trốn nốt!
Xa xa thấy lửa hiệu bốc lên từ khoảng sông Vị, non Côi, Nguyễn Huệ biết quân Chỉnh đã hái được bông hoa “thắng lợi” đầu mùa, lại càng nức lòng hăng hái, tức thì dẫn một nghìn chiến thuyền, vượt biển ra Bắc.
Gió đông nam thổi… thổi mạnh!
Cưỡi gió thuận, lướt dòng xuôi, đại đội chiến thuyền cứ vùn vụt tiến.
Trên trời, dưới nước mênh mông, cái nhuệ khí của quân Tây Sơn bấy giờ có lẽ đánh bạt cả loài thủy tộc!
Viết đến đây, kẻ cầm bút này lại chạnh nhớ đến mấy câu của nhà văn Tô Thức tả cái hào hùng của Tào Mạnh Đức trên sông Xích Bích đầy oai thanh:
“… Phương kỳ phá Kinh Châu, hạ Giang Lăng, thuận lưu nhi Đông dã: Trục lư thiên lý, tinh kỳ tế không… cố nhất thế chi hùng dã!...”64
Mấy câu này, không ngờ ngót ngàn năm sau lại hợp như in vào cảnh anh hùng Nguyễn Huệ khi cưỡi gió đông nam, kéo thủy binh từ Nam ra Bắc dưới những bóng cờ rợp trời và giữa những tiếng hò reo vui vẻ của toán hùng binh đắc thắng.
Kéo quân đến Vị Hoàng, Nguyễn Huệ họp binh với Chỉnh: thanh thế càng thêm mạnh lắm.
Thực lực bên Trịnh?
Bao nhiêu những cái ươn hèn, đớn kém của các tướng trấn thủ ở biên thùy đã kéo hết tấm màn “màu mỡ” để lộ cho người ngoài trông thấy những cái ẩn tình “thối nát” ở trong mà bấy nay họ vẫn giữ rất bí mật.
“Đùng! đùng! đùng…” Tiếng súng quân Tây Sơn đã ầm ĩ ở cửa ngõ!
“Loạn to! Loạn to! Loạn to…!” nhân dân nhìn nhau bằng con mắt kinh hoảng, thất vọng! Họ là hạng người sống không được bảo đảm. Bấy lâu họ, đối với triều đình, chỉ phải làm nghĩa vụ chứ không được hưởng quyền lợi tí gì! Trông về tương lai, ai sẽ là người nâng đỡ họ?
Trước đó, vấn đề “Phú Xuân” là một việc rất quan trọng trong chương trình nghị sự của Chính phủ.
Trong đám phủ liêu65 nhiều người đề nghị:
– Thuận Hóa xa xôi vốn không phải là bờ cõi của triều đình, Tiên triều vì không suy kỹ, nghĩ sâu, nên mới nay đi chinh phạt, mai đặt thú binh (quân đóng canh giữ), rầm rầm rộ rộ, rút cục chỉ hao công, tốn của, chẳng được ích gì! Bây giờ phe địch lấy mất Thuận Hóa cũng là một cái may cho ta, vì ta khỏi phải đặt thú binh cho thêm nhọc nữa. Thiết tưởng nay ta chỉ nên định rõ cái cương giới cũ, rồi cắt quân đóng giữ từ Nghệ An trở ra Bắc là hơn. Vì Thanh Hoa có lăng tẩm cần phải giữ và ở đó có địa hiểm có thể giữ vững được. Ta cho mất Thuận Hóa là may, thì họ chắc cũng lấy sự xâm lấn ta làm gương răn lại. Vả, “quân mọi phản nghịch” kia được ăn miếng ấy đã no nê rồi, nó đâu dám đột nhiên xông ra nữa?
Luận điệu đó đánh ngay vào chỗ yếu của những bộ óc lười biếng nhút nhát và cầu an, được cả triều đình tán đồng.
Từ đó, ai nấy yên tâm trong giấc mơ màng: hình ảnh Tây Sơn bị xóa nhòa trong trí nghĩ.
Nay?
Trấn Nghệ An đã tan!
Trấn thủ Bùi Thế Tụy đã chạy trốn sau khi đốt cháy dinh trại.
Nguyễn Như Thái đã được Nguyễn Huệ đặt lên ngồi ghế trấn thủ Nghệ An. Trấn Thanh Hoa cũng vỡ: Thùy Trung hầu Tạ Danh Thùy, trấn thủ ở đó, cũng chạy nốt!
Những tin sét đánh đó choáng tai Trịnh Khải.
Làn sóng “kinh hoàng” tràn ngập khắp cả đô thành!
Để đối phó với tình hình gắt gao, Trịnh Khải sai Thái Đình hầu Trịnh Tự Quyền làm thống lĩnh, đem quan quân trong 27 cơ hiệu đi Thanh Nghệ
nghinh chiến.
Quyền, chùng chình hơn 10 ngày, mới gắng gượng cất quân ra đi. Khi Quyền vừa kéo quân lìa khỏi Hoàng Thành được 30 dặm, quân Tây Sơn đã kéo gió đông nam, “bay” đến Vị Hoàng với cái thắng lợi oanh liệt (Bính Ngọ, 1786).
Chúa Trịnh phải đổi lại mệnh lệnh điều khiển:
Ra giữ Sơn Nam: Trịnh Tự Quyền.
Đốc suất thủy đạo: Đinh Tích Nhưỡng66.
Để gây thế “ỷ dốc” với lục quân của Quyền, Nhưỡng đem các đội thuyền Vệ tả, Vệ hữu, Ngũ hầu, Ngũ thiện và Ngũ Trung trạch đến đóng ở cửa sông Lục Môn67.
Hoàng Tư Quyền đóng đại đội ở Kim Động (nay thuộc Hưng Yên).
Chướng Trung hầu Đỗ Thế Dận68 trấn thủ Sơn Nam, đem bộ binh dàn ở bờ sông Phù Sa69.
Đinh Tích Nhưỡng dàn chu sư trong sông Lỗ Giang, bày thành trận thế chữ “nhất”.
Gió đông nam dào dạt thổi70.
Nước lụt mới rút cạn.
Đội tiền phong Tây Sơn giương buồm thẳng tiến…
Theo sau năm chiếc thuyền mông xung71, đại quân “Đàng Trong” cứ mạnh mẽ lướt sóng.
Thấy thuyền mông xung bên địch xông đến, Nhưỡng hô quân nạp đạn vào súng “bảo lân” ùa ạt bắn…
Để tránh trận mưa đạn, quân Tây Sơn tạm lui vào bến sông.
Đàn dơi chao chát đớp muỗi trên mặt sông.
Màn tối cuốn cảnh vật vào trong đêm trường rùng rợn.
Khác với lúc thường, khúc sông Lục Môn đêm nay “sống” trong cảnh tượng hoạt động dưới bóng đèn đuốc lập lòe.
Lừ đừ vài mươi chiếc thuyền, nghênh ngang kẻ vác giáo, người cầm kích, thuận buồm cứ tiến… tiến bức đến tận tiền đội bên quân Trịnh.
Nhưỡng thúc quân hăng hái bắn. Xa xa nhận thấy một chiếc thuyền Tây Sơn bị đắm chìm.
Nhưng còn các thuyền khác? Càng bắn, càng thấy im lặng, im lặng như tờ, không một ai bắn lại. Cũng không một ai theo giọng chế giễu của quân Đông Ngô xưa mà hô lớn: “Tạ ơn Thừa tướng cho tên”!
Trời đã sáng. Trí Nhưỡng bấy giờ mới sáng.
Mấy chục chiếc thuyền ấy? Rặt thuyền không!
Bọn quân bơi chèo, cầm binh khí kia? Toàn bồ nhìn!
Thôi, mắc mưu Nguyễn Huệ rồi! Đinh Tích Nhưỡng đã hi sinh hết cả thuốc đạn để đổi lấy mớ xác “bồ nhìn”!
Phải bỏ thuyền, quân Nhưỡng chạy lên cạn!
Đại đội binh thuyền Tây Sơn kế tiếp sấn đến.
Đạn súng đại bác vèo vèo bay.
Nhiều cây cổ thụ trên bờ răng rắc gẫy!
Trước cái sức mạnh đó của súng đạn Tây Sơn, quân Nhưỡng hoảng sợ.
Nguyễn Huệ thúc toàn quân lanh lẹ xông lên bờ, hăng hái đuổi đánh…
Quan quân Bắc Hà chết như ngả rạ! Người nọ gối lên người kia! Đinh Tích Nhưỡng? Chiếc thân chạy thoát!
Quân Đỗ Thế Dận? Bỏ trận chạy trốn!
Quân Trịnh Tự Quyền! Chưa đánh chác gì đã tự tan vỡ trước!
Thuyền Tây Sơn cứ tiến và tiến mãi đến Hiến doanh.
Thế là trấn Sơn Nam hoàn toàn lọt vào tay Nguyễn Huệ (ngày 24, tháng sáu năm Bính Ngọ, 1786).
Vấn đề “chiến thủ” lại được Trịnh phủ rối rít gấp rút bàn.
Một phương sách sau này nếu được ứng dụng có lẽ Long Nhương Tướng quân Nguyễn Huệ chưa chắc đã cắm cờ thắng trận trên thành Thăng Long một cách dễ dàng:
Nguyễn Lệ72: cựu Tham tụng! Hớt hải đến từ Nghệ An dâng kế cho Trịnh Khải:
– Nên cắt tướng giữ lấy kinh thành. Còn chúa thì hộ giá Lê Hoàng lánh đi Sơn Tây: nắm giữ lấy miền thượng du để tính nước đi về sau. Ở khúc sông bên bãi Tự Nhiên nên thả chông chà để át thuyền bè bên địch. Bổ đồn đóng bộ binh ở hai bên bờ sông để giữ cho khỏi xổng xểnh. Lại dùng và ban quan tước cho bọn thủy phỉ (giặc cướp trên đường thủy) khiến chúng khuấy rối mặt sau thủy quân của Tây Sơn. Tây Sơn mượn tiếng tôn phù, nếu không níu được vua Lê thì lui tới đều bất lợi. “Quân mọi”, lương hết, thế tất không ở lâu được. Ta nên truyền hịch cho các hào mục ở miền Thanh, Nghệ dấy binh chẹn lối họ về. Như thế dù không bắt sống được Nguyễn Huệ, cũng làm Tây Sơn phải bị trọng thương. Chứ giờ đánh với họ thì tất nhất bại đồ địa, vì tụi kiêu binh của ta không thể dùng được.
Chiến thuật ấy của Nguyễn Lệ suýt được chúa Trịnh làm theo nhưng lại bị kiêu binh phá đám!
Vu vạ cho Lệ dắt “giặc”về nhà, bọn kiêu binh tụ họp lại, ồn ào, rầm rĩ, thả hơi huyên náo vào bầu không khí rối ren. Rồi chúng sùng sục chực bắt giết Lệ. Lệ phải chạy lên Sơn Tây.
Tình hình Bắc Hà càng phút càng trầm trọng!
Nhân dân ngong ngóng đón ngày tương lai, tốt đẹp hơn…
Một lá hịch giết một đời vương
Nguyễn Huệ, sau khi hạ được Sơn Nam, truyền hịch đi khắp các lộ, tỏ bày công việc diệt Trịnh, phò Lê.
Như mưa trút, gió giựt, tin quân tấp nập từ biên thùy bay về Trịnh phủ, làm cho các “ngài” mão cao áo rộng trống ngực thình thình!...
Chiến?
Thủ?
Tính sao đây?
Chẳng một ai dám thò tay gỡ mối tơ vò ấy! Cũng chẳng một ai muốn đeo đá vào mình!
Quan võ cũng như quan văn, thảy đều bối rối hoảng sợ, tất tả lo việc gia đình: giữ vợ gìn con, chôn tiền, giấu của… Quân sự? Mặc! Việc dân, việc nước? Cũng thây!
Chạy loạn!...
Dân chúng nhôn nhao chạy loạn! Cõng trẻ, dắt già, rình rịch luôn mấy ngày, họ bỏ thành chạy trốn. Nhưng trốn vào đâu? Vào lối tiền đồ tối tăm, không đảm bảo!
Trong cơn gấp rút, Trịnh Khải cố đi một nước để gỡ thế cờ bí: với quận Thạc Hoàng Phùng Cơ đem năm trăm quân nghĩa dũng từ Sơn Tây về kinh hộ vệ.
Mấy lời hăng hái của quận Thạc, khi vào ra mắt, làm cho chúa Trịnh càng thêm phấn khởi tinh thần:
– Chín cha con nhà tôi xin đem cái chết để đền ơn nước, chứ quyết không chịu cùng sống với giặc!
Trầm trồ khen, rồi chúa Trịnh ban cho 5.000 lạng bạc để Phùng Cơ dùng vào việc binh.
Lấy tư cách vị lão tướng, gánh công viêc “phi thường”, Cơ xách túi bạc ra, lo việc binh bị. Trong một ngày “bạo vì tiền”, Cơ mộ được hơn nghìn thủ hạ.
Quận Thạc, cùng tám con (kể cả rể)73, đem binh ra đóng ở hồ Vạn Xuân74.
Tứ thị thủy sự dàn thuyền ở bến Thúy Ái75.
Còn chúa Trịnh? Mặc nhung phục, cưỡi voi, đem hết binh lính trong thành ra ngoài cửa Tây Long76, bày trận ở dưới Ngũ Long lâu: hỏa pháo bắc, binh trượng bày, quân hộ vệ san sát… (ngày 25, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Gió đông nam vẫn lộng!
Mặt thủy vô cùng xung yếu!
Đánh tan chu sư của Đinh Tích Nhưỡng, Tây Sơn làm chủ suốt cả một dải trường giang.
Thừa thắng, Nguyễn Huệ kéo quân thẳng tiến kinh kỳ.
Cờ rợp trời. Trống trận lay động sóng. Quân Tây Sơn cặp bến Nam Dư.77
Bỏ thuyền, lên cạn, họ đánh úp quân tứ thị thủy hiệu của Trịnh ở cửa sông Thúy Ái (ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Trận đánh úp này cực kỳ thần tốc, nên quân Trịnh không kịp trở mình, phải đại bại dưới bóng cờ Long Nhương Tướng quân.
Số là, lầm tưởng quân Tây Sơn vẫn còn ở xa, quân Trịnh không để ý đề phòng, cứ việc phóng tâm: neo thuyền, lên bãi, tỏ vẻ ung dung trong lúc đáng phải cơ cảnh cẩn mật. Chẳng dè đại đội chu sư “Đàng Trong” ập đến, đánh rốc vào chiến tuyến Thúy Ái ở Thanh Trì. Quân Trịnh bối rối hoảng hốt, không kịp xuống thuyền, tán loạn chạy!
Quân Nam vặn súng cự thuần ầm ầm bắn… bắn chết được người chiến sĩ can đảm nhất bên Trịnh: Ngô Cảnh Hoàn78, quản tiền phong cơ.
Thuận dao chẻ tre, Tây Sơn bắt được hết cả thuyền mành và khí giới của Trịnh.
Trước đó, thấy đồng bạn tan vỡ, tình thế nguy ngập, Ngô Cảnh Hoàn cứ làm phận sự đến phút cuối cùng: tay cầm thanh đao, đứng ở đầu thuyền Trung Trạch, cự chiến hơn một khắc. Sau thế cô, sức kiệt, trúng đạn của súng cự thuần bên Tây Sơn, Ngô phải gửi mình xuống dòng Thúy Ái trong mát.
Trận thua! Chồng chết! Một cái tang đau đớn cho Phan Thị Thuấn, ái thiếp của Ngô.
Nhưng nàng Phan cứ trấn tĩnh với can đảm và nghị lực, âm thầm trong cảnh sinh hoạt quê mùa, nàng vẫn bận thường phục, có khác chăng chỉ kém lúc thường cái vẻ diêm dúa, óng ả và trau chuốt. Nàng cười nhạt trước những tiếng mai mỉa nông nổi và những cái ngấm nguýt lố lăng! Nàng trả lời họ bằng việc làm sau khi quân Tây Sơn rút khỏi Bắc Hà: Mặc đồ tang, nàng đến bên sông Thúy Ái, tế một tuần, khóc một đêm rồi lênh đênh một chiếc thuyền con, dưới vòm trời âm u thảm đạm, nàng tìm bạn trăm năm nơi Thủy phủ!
Thanh danh nàng đã rửa mặt cho quân Trịnh: cái nhục thua trận ở sông Thúy Ái này.
Sau khi bắn chết được Ngô Cảnh Hoàn, quân Tây Sơn đổ xô lên cạn, xông đánh vòng trận Phùng Cơ.
Quân Phùng Cơ, bấy giờ, đang ăn. Thấy quân Nam ập đến, ai nấy kinh khiếp rụng rời, không kịp xếp thành hàng ngũ, chạy hoảng như đàn cừu trước miệng sói hung hăng!
Xông ra chận đường quân Tây Sơn, Mai Thế Pháp79, thuộc tướng của Phùng Cơ, vác đao, thúc ngựa, tỏ gan mật trên chiến trường. Pháp vẫn đánh và cứ đánh mặc dầu bộ thuộc đều tan vỡ cả.
Giết được hơn 10 người quân “Đàng Trong” bằng cái khí lực vụt hăng vì sắp tàn tạ, Pháp túng thế quá, phải nhảy tùm xuống sông với thanh đại đao vẫn khư khư vác.
Quận Thạc, thấy quân Tây Sơn đánh rát tới nơi, sáu con đã phải làm mồi cho đạn súng và mấy chục thủ hạ cũng đã chết tại trận rồi, bất đắc dĩ phải cùng con trai là Hoàng Phùng Gia và con rể là Nguyễn Trọng Thu80 cố sống chết, cướp lấy một đường chạy về Hưng Hóa.
Không đuổi theo Phùng Cơ, quân Tây Sơn được thể, cứ việc xông pha chém giết: quân Trịnh làm mồi cá trong hồ Vạn Xuân không biết bao nhiêu mà kể.
Phá được quân Phùng Cơ rồi, Tây Sơn, trống đánh vang trời, rần rộ kéo thẳng đến bến Tây Long bắn “hỏa hổ” ầm ầm dữ dội…
Trịnh Khải, tay cầm cờ lịnh, cố thúc chư quân xông vào chống đánh, song chẳng ma dại nào dám liều mạng hi sinh!
Tây Sơn bỏ thuốc súng vào ống, đốt lửa ném ra: Quân Trịnh không sao đương nổi.
Họ lại lấy hỏa hổ đốt voi bên Trịnh: voi sợ, chạy cuống81!
Cơn thất bại đang hầm hầm trút xuống! Trịnh Khải thúc voi quay về thành, chực vào vương phủ, nhưng đến cửa Tuyên Võ thì thấy cờ Tây Sơn đã ngạo nghễ bay trên sào huyệt “nhà chúa” rồi. Lật đật do cửa An Hoa, Khải chạy về phía tây. Theo sau chúa Trịnh còn có hơn trăm quân tàn (ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Ngai “chúa” họ Trịnh cũng theo gót Khải đổ từ đây!
Trận này Nguyễn Huệ càng tán thán cái sức hùng cường của quân mình, càng phải ngạc nhiên trước cái bất lực của quân Bắc: đánh chác toàn nhờ Nghĩa binh, còn Ưu binh và Nhất binh ăn hại công khố, bấy lâu đến nay chỉ là đàn vịt chạy dài!
Đắc thắng! Nguyễn Huệ kéo quân vào thành Thăng Long với cái triêu khí đang hăng hái.
Thần Tàn phá đang lù lù xông đến: bao nhiêu nhà cửa quanh Trịnh phủ, sau một cơn khói lửa, chỉ còn mảnh vụn tro tàn.
Để thưởng tướng sĩ cái công vào tử ra sinh, Nguyễn Huệ, nhà chiến thắng, đem phân phát cho họ hết các gấm, vóc và vàng báu trong Trịnh phủ. Rồi lại đó, Nguyễn Huệ đóng quân, sống những phút huy hoàng xán lạn của đời vương giả.
Kho Hữu viên mở rộng: nhân dân ở xung quanh kinh thành nhờ bàn tay “Đức Lệnh” Tây Sơn, được hưởng cái ơn chẩn tế.
Trật tự trong thành hoàn toàn khôi phục, sau khi lệnh chiêu an ban bố khắp nơi.
Bá cáo với dân nước? Nguyễn Huệ, muốn tỏ ý phò Lê, vẫn dùng ấn “Ngự tiền chi bảo” của vua Hiển Tông. Còn hiệu lệnh trong quân, Tây Sơn dùng riêng ấn chương đề chữ “Phụng Thiên thảo tội”.
Những nhà còn lại trong thành, muốn tránh sự cướp phá, đều tỏ ra không phải về phe với Trịnh. Mấy chữ này đề ở cổng ngõ dùng làm cái bùa hộ thân: “Nội điện82 gia thần” hoặc “Hữu quân83 gia thuộc”.
Giữ kỷ luật và theo quân lệnh; quân Tây Sơn rất nghiêm, không hề xâm phạm của dân một mảy tóc.
Khi quân Tây Sơn mới đánh đến Vị Hoàng, nhiều tay trung thần của chúa Trịnh vội ôm hai chữ “Cần vương” đi kêu gào thiên hạ: Chính thần Trương Đăng Quỹ84 và Thiêm Sai tri lại phiên Lý Trần Quán85 đều chạy theo cái mục đích đó.
Nhưng quân Cần vương chưa mộ xong, “vương” (chỉ chúa Trịnh Khải) đã bị bắt làm tù binh và tự
chết rồi!
Nguyên, sau ngày 26, tháng sáu, năm Bính Ngọ (1786), Trịnh Khải thua trận cuối cùng ở Tây Long, phải chạy lên Sơn Tây. Định ẩn náu ở làng Giao Cốc, Khải sẽ liệu tính nước gỡ lại sau này.
Khi qua làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, chư quân đã trốn hết, Khải vào ngồi trong một cái quán, nói vờ là quan Hành tham long đong chạy loạn86.
Rồi người cho gọi Lý Trần Quán đến để bàn việc vì Khải biết Quán đương hoạt động ở vùng đó.
Bái quỵ! Một thứ lễ đã làm cho Khải thêm oai trong bình thì, chẳng dè chính nó lại làm cho Khải bấy giờ – thời loạn – phải chết uổng!
Quả thế, cái lễ nghi “bái quỵ” đã giết Trịnh Khải trong khi chạy loạn!
Nguyên, Lý Trần Quán được triệu đến, thấy Khải đang diễn cái cảnh “mạt lộ” của hạng “vua thua chạy dài”87 tức thì thụp xuống toan làm lễ lạy chào: tỏ lòng “tôi con” trung nghĩa.
Khải tinh ý, vội đưa mắt gạt đi vì sợ người ta nhân đó biết ngay rằng mình là ông “chúa” bại trận.
Món buôn có lời đây! Một dịp làm nên phú quý đây!
Cái cử động giữa Quán và Khải đó đã lọt vào mắt thèm thuồng danh lợi của bọn Nguyễn Trang (tức tuần Trang) và Nho Liễu, người làng Hạ Lôi.
Họ sau khi biết đích “quan Hành tham giả hiệu” ấy chính là chúa Trịnh, tức thì đem vài chục đồ đảng ập đến vây bắt Trịnh Khải khi vừa rời khỏi địa phận làng Hạ Lôi một chút.
Trịnh Khải bấy giờ là một “mối lợi” đối với bọn người hám “miếng lập công”: Tên Ba, người làng Vân Điềm88 cũng xông xáo vào chực cướp lấy chúa Trịnh nhưng không được!
Hay tin chúa Trịnh bị bọn Trang bắt sống, Quán lật đật chạy đến, lấy nghĩa lý khuyên bảo họ, song Trang giội ngay thùng nước lạnh vào lòng sốt sắng của Quán bằng câu tàn nhẫn này:
– Sợ thầy89 không bằng sợ giặc. Yêu chúa không bằng yêu mình.
Lời đạo đức của Quán đã không thuyết nổi Trang!
Giọt nước mắt, tiếng van lơn của Quán lại không xiêu được lòng Trang!
Giữa đêm tối mò mò, khí nóng nồng nàn bức bối, bọn Trang điệu Trịnh Khải xuống thuyền, định trở lên kinh đô Thăng Long để nộp lấy thưởng.
Khi chưa đến bến Tây Long, trong lúc mọi người không để ý, Khải biết cơ không thoát được, liền rút dao tự đâm vào cổ. Vết thương còn nhỏ, sợ chưa chết ngay được, Khải lại thò ngón tay vào móc thêm cho toạc rộng ra (đêm 28, tháng sáu, năm Bính Ngọ, 1786).
Qua ngày 2990, Lý Trần Quán cũng sửa soạn tự chôn sống.
Trước khi chết theo Khải, Quán còn cầm bút viết: “Nước vỡ (!) nhà tan, mình làm chức phủ dụ, chẳng được việc gì, thà chết còn hơn! Chỉ hận một nỗi: không chết trước chúa, lại chết sau chúa!”
Huyệt đã đào xong.
Quan tài đã lù lù đặt.
Lý Trần Quán áo mão chỉnh tề, khảng khái đi tìm cái chết91.
Đậy nắp quan tài rồi! Người ta định luận: Lý Trần Quán chết theo Trịnh Khải!
Xác Khải đã bị nộp. Nguyễn Huệ cho đặt ở ngoài cửa Tuyên Võ, rồi vỗ thây Khải: “Tiếc dữ! Một trang nam nhi như thế này can chi mà phải vội chết! Giả sử biết đàng lui tới, mang mình về với ta đây, đi đâu chẳng giữ được phú quý?”
Quan ván và đồ khâm liệm Trịnh Khải được Nguyễn Huệ lo liệu cho một cách chu đáo. Qua hai ngày sau, Huệ cử hoàng điệt Duy Quyết trông coi việc tang, theo lễ vương giả, táng Trịnh Khải tại đồng Dịch Vọng (thuộc phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông).
Đến đây, họ Trịnh hoàn toàn thất bại, người Bắc Hà đua nhau truyền tụng bài hịch do Cống Chỉnh đã thảo dưới cái danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh”, trong có những câu sau như:
“Cơn gấp khúc chẳng thương lòng ngoại tộc, đã không rừng đuổi thú thì thôi;
Dấu cưỡi rồng còn đợi đức Tiên quân, lại cuốc lỗ cày sân sao phải!”
Còn Nguyễn Trang? Được bổ làm trấn thủ lộ Sơn Tây, phong Tráng Liệt hầu (hoặc Tráng Nghĩa hầu)92.
Chúa đã chết, nhưng chưa hết chuyện triều đình!
Trận thay nhà đổi họ này là một tai vạ lớn trút trên đầu trên cổ thằng dân thời đó!
Trong khi hỗn quân, hỗn quan, trật tự chưa lấy lại được, dân chúng hạng người không tên, không tuổi phải rốc cạn bao chén cay đắng trong cuộc biển dâu:
Họ kéo nhau xô bồ chạy ra khỏi thành, đi tìm nơi ẩn náu trong cái tương lai đầy bất trắc!
Nhưng, vừa rời khỏi kinh đô Thăng Long, là lò sát sinh chỉ chực làm thịt những kẻ vô tội, họ gặp ngay “hung thần” cướp bóc đứng chận đường: Rắn bắt nhái, chim sẻ mổ bọ ngựa! Bọn “chạy loạn” nay là cái mồi ngon cho những kẻ hung tàn ở phụ cận quanh thành nổi lên như nấm!
Xóm cạnh làng bên tàn phá lẫn nhau.
Quần áo bị bóc lột.
Tiền nong bị cướp giựt.
Tiếng kêu khóc như ri vang động một góc trời đầy sát khí.
Đường xá vắng tanh nhuộm sắc chết.
Gia dĩ, bọn tàn binh, sau cơn thua trận, chạy tản khắp nơi. Chúng cầm gươm, vác súng, kéo đi từng đàn hàng trăm hàng nghìn đứa. Chúng là cái tai vạ ghê gớm cho nhân dân. Trẻ chăn trâu bò hễ thấy chúng kéo đến, thì sợ hãi rụng rời, bỏ của chạy trốn.
Bức tranh loạn ly treo khắp dân gian! Người ta, từng giây, từng phút hồi hộp trong cơn khủng bố kinh hoàng!...
"Đừng lung lạc ta bằng cái danh hão!"
Sau khi thành Thăng Long hoàn toàn lọt vào tay quân Tây Sơn và Trịnh Khải đã cuốn hết cơ đồ vương bá xuống nơi ở cuối cùng, Nguyễn Huệ sai chư tướng đem quân đóng giữ Hoàng Thành, lấy lại trật tự. Quân lính Tây Sơn rất nghiêm, không lấy của ai một mảy tóc. Người Bắc Hà bấy giờ gọi họ là “cha” vì “cha” là tiếng dân tục đương thời dùng kêu quân lính93.
Ngày 26, tháng sáu (Bính Ngọ 1786), Nguyễn Huệ cho người vào nói với vua Lê Hiển Tông: xin đến ngày mai, sẽ vào bệ kiến.
Qua bữa sau, Huệ dẫn các tướng bộ hạ là bọn Cống Chỉnh vào điện Vạn Thọ, xin yết kiến vua Lê94.
Vị quý khách đó được mời lên điện thượng.
Thấy Nguyễn Huệ làm lễ, vua Hiển Tông vội sai người đỡ dậy, rồi mời ngồi ở một cái sập riêng kê ở bên giường ngự. Vua Lê thăm hỏi bằng giọng ôn tồn.
Nguyễn Huệ trước còn rụt rè không dám, sau vì cố ép, mới ghé ngồi vào cuối chiếu.
Nguyễn Huệ nói nhún:
– Tôi vốn là kẻ mặc áo vải ở Tây Sơn, nhân thời thế mà nổi dậy. Bệ hạ tuy không cho cơm ăn, áo mặc, nhưng tôi ở cõi xa xôi, bấy lâu vẫn kính mến thánh đức. Bữa nay được nhìn thấy mặt trời, đủ giãi được tấc lòng khao khát. Họ Trịnh vô đạo, hiếp đáp hoàng gia, nên trời mới mượn tay tôi: một trận phá triệt ngay đặng. Ấy là nhờ oai đức Bệ hạ hết thảy.
Vua Lê úy lạo:
– Ấy là võ công của Tướng quân cả, chứ quả nhân nào có tài đức gì!
– Tôi chỉ cốt tôn phò, chứ dám kể đâu tới công lợi. Việc ngày nay đã xảy ra như thế thiệt bởi lòng trời xui nên hết thảy. Kể đến việc binh thì tôi cất đặt đặng quân lính, điều khiển đặng chiến thuyền; song lẽ tôi có sức chi khiến được nước lụt phải cạn, gió đông nam phải thổi ào ào? Thế là trời có ý xui Bệ hạ phấn chấn kiền cương, thống nhất bờ cõi. Từ giờ xấp đi, Bệ hạ cầm cương, nảy mực, khiến cho trong êm, ngoài ấm, thì tôi đây cũng được ơn nhờ.
Nói dứt, Nguyễn Huệ trỏ Cống Chỉnh mà rằng:
– Người này là cố thần của Bệ hạ! Tôi được tới đây chính là nhờ người này giúp sức đó.
Vua Lê nói lấy lòng:
– Nhưng, Chỉnh được đến đây cũng là nhờ Tướng quân làm thành cho chứ!
Nghe vua Hiển Tông nói vậy, Chỉnh liền khấu đầu lạy tạ.
Chén trà thơm phức bốc một khí nóng hôi hổi, dấu hiệu một cuộc thân thiện đằm thắm nhưng chóng phai tàn.
Nguyễn Huệ nhắp chút hương vị của chén trà “đế vương”, nhưng không nhuần thấm được lòng dục vọng khát cái tương lai vĩ đại.
Nói chuyện hồi lâu, Huệ mới từ tạ lui gót.
Sau cuộc bệ kiến này, Đức Lệnh Tây Sơn không khỏi cười thầm những cách cử động nhỡ nhàng, thưa gửi dớ dẩn của bọn gia thần hậu chực ở điện thượng
vua Lê.
Cái cớ làm cho vị quý khách ấy phải cười? Chỉ vì, trong khi kinh thành tan vỡ, bách quan chạy trốn, không còn ai là người đủ tư cách xứng đáng ứng tiếp vị thượng tân nhà vua!
Vì vậy, sau cuộc hội đàm này, vua Hiển Tông nghe theo lời Chỉnh, phải gọi đến các cựu thần như Trần Công Sán95, Phan Lê Phiên96, Uông Sĩ Điển97…
Đến làm gì?
Sung chân chi hậu, ứng tiếp chủ súy Tây Sơn.
Tia hy vọng ấm áp đã rọi vào lòng lạnh điếng của dân chúng.
Từ đây, lòng người đã yên: chợ lại họp, ruộng lại cầy. Cơn khủng bố bối rối không còn vây phủ trong triều, ngoài nội như trước nữa. Các ông “triều”, mão cao, áo rộng, bấy giờ mới lại mon men đến dần.
Chỉnh nói với chủ tướng Tây Sơn:
– Đức Lệnh đến đây đã lấy tiếng là tôn phù thì phải nên làm cho ra sự thực. Chuyến vào ra mắt vua Lê hôm nọ chỉ là một buổi tư yết. Việc làm ấy còn chưa tỏ rõ với đời. Vây, tôi tưởng Đức Lệnh nên lựa ngày làm lễ triều kiến, khiến cho cả nước đều biết, mới là cử động quang minh.
Mồng 7 tháng bảy năm Bính Ngọ (1786), ngày tươi lại trẻ lại của cây “Lê” đã già cỗi! Ngày oanh liệt nhất của một ông vua 70 tuổi, ôm cái ngai mốc ngồi làm vì trong 47 năm! Nhưng cái tươi đó, cái trẻ đó, cái oanh liệt đó không phải tự tay mình làm nên được, nên chẳng mấy chốc, nó cũng vạc dần rồi tắt theo cái sinh lực hầu tàn của vua Lê Hiển Tông.
Ngày đó, chủ tướng Tây Sơn Nguyễn Huệ xin Hiển Tông Hoàng đế nhà Lê thiết lễ đại trào ở điện Kính Thiên.
Dưới bóng cờ quạt la liệt và giữa những tiếng chuông trống inh ỏi, chủ súy Tây Sơn, cầm đầu chư tướng, từ cửa Đoan Môn, bước vào điện Kính Thiên với cái trịnh trọng nhưng ngầm chứa vẻ “ngạo nghễ” của con nhà chiến thắng.
Lễ “Ngu bái tam khấu” của Nguyễn Huệ làm tăng vẻ oai nghiêm hách dịch của cái triều đình đương khặc khừ!
Sổ quân dân do Tây Sơn đệ trình trước vua Hiển Tông bỗng làm cặp mắt lờ đờ yếu đuối của cụ già gượng bịnh này vụt nảy tia sáng vui mừng: ngọn đèn cạn dầu bật sáng phừn phựt trước khi tắt ngấm!
Quang cảnh ngoài cửa Đại Hưng ngày đó bỗng khác hẳn mọi khi: Phá tan cái vẻ âm thầm vắng ngắt bấy lâu, bản chiếu thư “nhất thống” ban cho thiên hạ kéo được nhiều người đến xem, đọc hoặc thì thầm…
Đó là cái kết quả đẹp đẽ nhưng chóng “thui” sau khi chủ tướng Nguyễn Huệ làm lễ triều yết và vua Lê Hiển nhận quân dân bạ tịch của Tây Sơn.
Qua hôm sau, Nguyễn Huệ được vua Lê Hiển Tông sai người sang tận nơi quân thứ Tây Sơn, tức bên Trịnh thuở trước, phong làm Nguyên súy Dực chính Phù vận Uy Quốc công (元帥翊正扶運威國公) (có sách viết là Nguyên súy Phù chính Dực võ Uy Quốc công, lại có sách chép là Đại nguyên súy Phù chính Dực vận Uy Quốc công).
Nhận xong, Nguyễn Huệ sai người sang hoàng cung tạ ơn vua Lê. Rồi xẵng tiếng nói với Cống Chỉnh:
– Ta mang vài vạn quân ra đây, một trận dẹp yên Bắc Hà. Vậy thì một thước đất, một người dân, bây giờ không phải là của ta thì là của ai vào đây nữa? Dầu ta muốn xưng đế, xưng vương chi chi, coi ai còn dám làm gì ta đặng? Thế mà ta còn nhường nhịn không làm, chẳng qua ta hậu đãi nhà Lê đó thôi! Cái danh mạng Nguyên soái Quốc công nó có làm cho ta hơn gì! Các đình thần Bắc Hà muốn lấy nước miếng cho cái danh hão, chực lung lạc ta sao? Đừng bảo ta là mán mọi được thế đã lấy làm vinh rồi đâu! Ta không nhận lấy, chắc người ta bảo ta là thất lễ; ta nhận mà không nói ra, người ta lại cho ta là không biết gì!
Dứt lời, chủ súy Tây Sơn “nổi xung”: hầm hầm trừng trợn…, dường muốn phá phách cho hả cơn nóng giận…
Nhưng mấy lời can khéo của Chỉnh làm nguôi lòng Huệ dần dần.
Anh hùng với giai nhân
Nguyễn Huệ, sau khi nhận được cái tước hão của vua Lê phong cho, trong lòng bất mãn, nói toạc cho Nguyễn Hữu Chỉnh biết rằng ông không chịu để người ta lung lạc bằng cái Nguyên súy hay Quốc công ấy được, vì nó, thực ra đối với ông, chỉ là một cái “tẹp nhẹp”, không làm cho ông thêm danh giá gì!
Chỉnh biết Huệ không thỏa lòng dưới trận mưa móc “giỏ giọt” đó của vua Lê, lật đật sang bên hoàng cung tâu bày dàn xếp, tìm hết cách làm đẹp lòng một người đương cầm vận mệnh cả triều đình, cả xã tắc, cả thành quách giang sơn của nhà Lê.
Sau một cuộc trao đổi ý kiến với Chỉnh, vua Lê Hiển Tông thuận gả cho chủ soái Tây Sơn Nguyễn Huệ cô gái thứ 21, Ngọc Hân Công chúa98, mới 16 cái xuân tơ, yêu kiều và diễm lệ.
Đức Lệnh Tây Sơn đưa đồ sính lễ rất hậu: 10 thỏi vàng, 1.000 thỏi bạc, 100.000 quan tiền. Nguyễn Thời Thấu99 người đời bấy giờ, có một bài vận văn ký thuật sự trạng đương thời, trong có mấy câu này chỉ việc nhân duyên của Ngọc Hân Công chúa:
…Ngựa thồ(?) thay mối xích thằng,
Ông Tơ, bà Nguyệt dẫu giằng chẳng ra,
Một ngày một vắng quê nhà,
Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trông…
Bữa làm lễ cưới “chúa Tiên”100, vua Lê đương “se mình”, cũng phải gắng bịnh thiết trào nhận mừng, vui gượng trước cái tương lai đầy bấp bênh.
Qua bữa sau, bệnh tình nhà vua quá nặng, Công chúa Ngọc Hân giục phò mã Nguyễn Huệ vào hỏi thăm, song ông từ chối: “Tôi, chẳng sớm thì chầy, rồi cũng về Nam; việc nước, không dám dự đến. Vả, tôi xa lạ tới đây, chắc người ngoài Bắc hãy còn chưa tin mấy. Nếu vô nội viếng vua cha, muôn một xa giá chầu trời, chẳng hóa ra tự mình chác lấy cái tiếng hiềm nghi không bao giờ giãi tỏ đặng?”
Bầu trời sầm tối. Suốt đêm 17, dân thành Thăng Long sống trong cảnh “chờn chợn”, mưa như trút! Gió rợn rùng!
Trong thành ngập nước đến một thước!
Với 70 tuổi thọ, vua Lê Hiển Tông băng nhằm ngày 17101 tháng bảy, năm Bính Ngọ (1786) sau khi trối lại mấy lời cho Hoàng tôn Duy Kỳ: “Khách binh đương đóng ở đấy; truyền nối là việc quan trọng, cháu nên bàn cùng Nguyên súy (chỉ Nguyễn Huệ), chứ đừng tự tiện làm một mình.”
Suốt 47 năm ngồi làm vì trên ngai vàng, vua Lê Hiển Tông cứ nhắm mắt, cứ che tai, cứ thản nhiên tự tại.
Chúa Trịnh làm trời? Mặc! Làm đất? Cũng thây! Vì vua theo đúng câu “châm ngôn” này của ngài đã đặt: “Vương (chỉ chúa Trịnh) mang lấy cái lo; ta hưởng lấy cái sướng, can gì chẳng vui?” Vậy mà nhân dân đương thời không biết tự trông vào mình, tự giúp lấy mình, song cứ mơ hồ trách vọng vào ngài, chẳng những oan cho ngài lắm?
Một vấn đề khó giải quyết “lăn lóc” giữa đình thần và tôn thất nhà Lê sau khi vua Hiển Tông thăng hà: lập Tự quân!
Trái với phái muốn lập Hoàng tôn Duy Kỳ, Công chúa Ngọc Hân hết sức phản đối, lấy cớ rằng Duy Kỳ không đủ tư cách. Ngọc Hân muốn lập Duy Cận, hết lời khen Duy Cận là người hiền.
Nghe vợ ngăn, Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng cực.
Cả triều nao nao. Bầu không khí “ngờ vực” phủ khắp Hoàng Thành.
Các tôn thất nhà Lê đổ riệt cho Công chúa Ngọc Hân cái tội “làm lỡ việc lớn”!
Ngọc Hân sợ, lật đật nói với Nguyễn Huệ thu xếp cho Duy Kỳ được nối ngôi ngay102.
Làm lễ đăng quang Duy Kỳ lấy niên hiệu là Chiêu Thống (sau mất ở Tàu, tên thụy là Mãn Đế) vì đang có tang vua Hiển Tông, nên mọi việc đều tỉnh giảm cả.
Đèn sáp lèo lẹt, khói trầm xen khói hương, tỏa mờ gian nội điện thâm nghiêm, u ẩn. Chủ súy Tây Sơn lấy tư cách con rể, mặc áo tang trắng, đứng ở nơi điện tả, dự lễ tế thành phục vua Hiển Tông.
Một viên tiểu lại, trong bọn người chấp sự, hơi mủm mỉm cười khi hành lễ. Nguyễn Huệ liếc mắt bắt gặp, cho thế là khinh mạn, bất kính, liền truyền lính lôi ra chém ngay103.
Triều đình, từ đó, len lét khiếp oai!
Ngày 25, đưa tử cung xuống thuyền để đem đi làm lễ Ninh lăng104 ở Thanh Hoa, Nguyễn Huệ cũng mặc tang phục, thân đi hộ tang đến tận bên sông. Lại sai bộ tướng là Nguyễn Văn Kỷ105 và Nguyễn Hữu Chỉnh, mặc áo trắng, đi hộ tống đến Bàn Thạch lăng (thuộc huyện Lôi Dương, trấn Thanh Hoa), nơi ở cuối cùng của ông vua được hân hạnh làm bố vợ một trang anh hùng cái thế.
Làm xong mọi việc với vua Hiển Tông rồi, Nguyễn Huệ, với giọng tự phụ, nói nửa thật nửa bỡn với Ngọc Hân: “Tiên đế có 30 người con, thế mà không một người nào bằng một mình mình là gái! Trong việc tang Tiên đế, mình với các anh em, chị em khác, ai hơn nào?”
Ngơ nhau!
Sau khi Huệ đã kéo quân ra Bắc. Nguyễn Nhạc, ở Quy Nhơn, nhờ bức thư của Huệ106 đưa về, mới hay tin “đại cử Bắc phạt” đó. Trước cái cử động ấy của Huệ, Nhạc rất không đẹp lòng vì cho rằng Huệ tự tiện làm việc như thế, là Huệ tỏ ra không thèm đếm xỉa đến vua anh. Nếu Huệ thành công, tất vua anh không thể kiềm chế được nữa. Hối hả, Nhạc sai người đến Phú Xuân để ngăn lại. Nhưng đã muộn rồi! Khi được tin Huệ đã hạ xong thành Thăng Long, Nhạc đâm lo sợ quá.
Huệ vốn là tay ngang tàng sắc sảo, nay lại đóng binh ở ngoài sau một trận thành công lớn, Nhạc biết không thể gọi về bằng cách viết mấy chữ trên mảnh giấy được.
Tháng tám, năm Bính Ngọ (1786), Nhạc đem 500 thân binh và 100 voi, lật đật từ Quy Nhơn trẩy ra Phú Xuân, lựa lấy thêm quân tinh nhuệ107, rồi lại đi gấp ra Thăng Long, lót miệng bằng tiếng đem quân ra tiếp ứng chú Thơm (tên tục của Huệ) đương ở
Bắc Hà.
Tin đó rung động gần xa: ai nấy nao nao, vừa ngờ, vừa sợ! Có người khuyên vua Chiêu Thống, để giữ vững chiếc ngai Hoàng đế, nên đưa biểu xin hàng.
Việc còn chùng chình, gót ngựa Thái Đức (Nguyễn Nhạc), sau bảy ngày đêm, đã từ Phú Xuân lộp cộp nên trên mảnh đất đế đô.
Vua Chiêu Thống, cầm đầu bách quan, thân ra tận ngoài cửa Nam Giao, đón tiếp với thái độ của một kẻ “lép vế”: mặc!
Tụng quan quỳ đón ở bên đường: cũng mặc!
Thái Đức sai người mời vua Lê hãy cứ về cung, rồi ruổi quân đi thẳng, bỏ lại đằng sau cái khí ngạo nghễ lạnh lùng!
Tuy được Thái Đức hẹn đến bữa khác sẽ tương kiến, nhưng, qua hôm sau, vua Lê đã phải lóp ngóp sang tận chỗ vua Thái Đức đương đóng để tỏ
cảm tình.
Nghe lời Chỉnh khuyên, Thái Đức tiếp Chiêu Thống bằng lễ “hai vua tương kiến”, chứ không “lậy lục” theo lễ hạ thần.
Thoạt thấy Chiêu Thống đến nơi, Thái Đức đứng trên thềm, sai em là Nguyễn Huệ xuống thềm đón.
Rồi Thái Đức ngự ở ghế giữa, mời Chiêu Thống ngồi ghế bên tây. Nguyễn Huệ ngồi ghế bên đông.
Giữa bầu không khí thân mật nhưng giả dối, Chiêu Thống nói lấy lòng khách bằng những lời yên ủi và cảm ơn.
Thấy vua Lê tỏ ý muốn cắt đất để làm lễ khao quân, Thái Đức vội gạt: “Giận họ Trịnh chuyên chính, anh em chúng tôi mới làm việc tôn phù này. Đất đai, nếu của họ Trịnh, một tấc chúng tôi không để; nhưng nếu của nhà Lê, một tấc cũng không lấy. Chúng tôi chỉ mong Tự hoàng cầm vững kiên cường, giữ yên bờ cõi; hai nước chúng ta đời đời hòa mục giao hiếu với nhau: thế là phúc!”
Hai nhà “ngoại giao” lại diễn một trò giả dối trong sự chèo kéo mời mọc nữa:
Chiêu Thống mời Thái Đức ở lại ít lâu để giúp mình.
Thái Đức nhận lời và hứa cột chặt hai nước bằng sợi dây liên lạc mật thiết.
Bấy giờ tướng sĩ Tây Sơn đóng lâu ở Thăng Long, lòng quê ai nấy không khỏi gửi đám mây xa những tứ nhớ nhung man mác.
Tả quân Vũ Văn Nhậm, vì ghét Hữu Chỉnh là người tráo trở, hay vơ lấy quyền bính, nhân gièm Chỉnh ở trước mặt Nguyễn Huệ rằng:
– Chỉnh là kẻ bô thần, cùng đường phải về với ta. Hắn muốn cam tâm với cố quốc, nhờ sức ta làm được thành công. Nay ta lại phí hàng vài vạn người để làm vây cánh cho hắn thì còn gì bất trí hơn nữa! Vả, hắn thường nói: Ở Bắc Hà, chỉ có một mình hắn là nhân tài. Bây giờ chi bằng ta kéo về bỏ hắn lại. Người Bắc oán hắn đến tận xương tủy; ta mượn tay họ để giết hắn đi. Khi Chỉnh chết rồi, ta sẽ lấy Bắc Hà cho rảnh.
Nguyễn Huệ lấy làm phải, đã ngầm có ý bỏ Chỉnh rồi, lại gặp Nguyễn Nhạc vừa ở Nam ra, bèn ngày đêm mật tính đường về, mà Chỉnh bấy giờ đương đóng ở chùa Tiên Tích108, say sưa trong cảnh tôn vinh, vẫn mơ màng không biết.
Về phần Chỉnh, thấy Nguyễn Nhạc sai chọn ngày tốt, sắm lễ vật để yết nhà Thái Miếu, Chỉnh cứ đồ chừng rằng anh em Tây Sơn chắc chưa rút lui.
Trong khi anh em Tây Sơn cùng ở Thăng Long, họ nhường nhịn nhau rất khôn khéo. Phàm việc, Nhạc muốn làm thế nào thì nên thế ấy. Huệ nhất nhất thuận nghe và các tướng sĩ cũng đều vâng theo mệnh lệnh của Nhạc.
Suốt ngày 17, tháng tám, năm Bính Ngọ (1786), Huệ với thái độ vồn vã niềm nở, giữ Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại trong dinh, nói chuyện lan man, không hề hở ra cho biết sắp lìa non Nùng, sông Nhị.
Nhưng, giữa trống canh ba đêm hôm đó, một ám hiệu truyền ra, quân gia Tây Sơn nai nịt đâu đấy, cả thủy lẫn lục thẩy đều lặng lẽ kéo đi. Lẽ cố nhiên là bao nhiêu của cải trong kho đụn đều cuốn đi sạch.
Sai người từ giã vua Chiêu Thống, anh em Tây Sơn vội vã về Nam, bỏ Chỉnh ở lại đất Bắc.
Qua sớm sau, Chỉnh có cái cảm giác như một cô gái “theo trai” bỗng bị tình lang phụ bạc! Rất bối rối bâng khuâng, Chỉnh chưa biết xoay trở ra sao cả.
Vì không dám ở lại Thăng Long sợ chác oán mua thù với người Bắc, Chỉnh liền “dày mặt” quyết theo để bám lấy anh em Tây Sơn.
Lập tức sáng sớm 18, Chỉnh cùng với vài mươi thủ hạ lật đật chạy ra bến sông, cướp được một chiếc thuyền buôn, quẳng hết đồ đạc của người ta đi, giương buồm để vô Nghệ109.
Trong khi đó nhiều người Kẻ Chợ đuổi theo, tranh nhau lấy gạch ngói ném Chỉnh. Chỉnh phải chính tay giết chết vài người mới đi thoát được.
Dọc đường, anh em Tây Sơn lần lượt dập tắt được những ngọn lửa “biến cố”.
Số là, khi quân Tây Sơn kéo đến Nghệ An, có gặp mấy cuộc tập công của những phần tử phản động.
Lê Hân, cựu quản Hậu thắng cơ ở Nghệ An và Lê Đình Hoán, cựu quản Hữu uy cơ ở Nghệ An, đứng lên chiêu mộ binh phu ở Nộn Liễu huyện Nam Đường (Nghệ An), chận đường, cứ hiểm, chẹn đánh ở núi Đại Huệ thuộc địa phận làng Sa Nam, huyện Nam Đường. Nhưng Tây Sơn dong quân tràn qua núi: quân bọn Lê Hân thua lớn, bị giết đến 8, 9 phần 10.
Rồi ung dung đem quân vào trấn doanh Nghệ An, Nguyễn Huệ đóng lại hơn mười ngày, thu xếp mọi việc: giao trách nhiệm đóng giữ trấn đó cho bộ tướng là Nguyễn Văn Duệ. Lại cắt đô đốc Vũ110 Chiêu Viễn đóng ở Hà Trung, Vũ Văn Nhậm cầm trọng binh đóng ở Đông Hải, làm thế ỷ dốc với Duệ.
Khi Chỉnh theo kịp đến Nghệ, Nguyễn Huệ bề trong tuy không bằng lòng, nhưng ngoài mặt vẫn vồn vã yên ủi. Huệ bảo Chỉnh:
– Hiện nay tướng Trịnh là Hoàng Phùng Cơ và Đinh Tích Nhưỡng hãy còn, thì ngoài Bắc không có ông ở lại không xong.
20 lạng vàng, 200 lạng bạc, Huệ dùng món quà đó tặng Chỉnh và khuyên đóng lại ở Nghệ An cùng làm việc với Nguyễn Văn Duệ.
Để trinh thám những hành động của Chỉnh, Nguyễn Huệ dặn ngầm với Vũ Văn Nhậm:
– Chỉnh vốn là tên vong mạng. Túng thế, hắn mới chịu về với ta. Hắn quyệt lắm! Không thể tin cậy đặng. Vả, người Bắc oán giận hắn dữ. Ta muốn bỏ hắn cho họ thịt đi, nên chi lúc về Nam, giấu bặt không cho hắn biết. Chẳng dè hắn lại trốn chết, theo về tận đây. Kể về tình nghĩa, ta không lẽ không dung hắn. Giờ ta cho hắn ở lại Nghệ An là quê hương hắn. Vậy thì các ngươi phải hiệp lòng, đậu cật, phòng giữ cho cẩn thận. Hễ hắn làm chi, và lòng người yêu hay ghét hắn ra sao, các ngươi phải dò xét cho kỹ. Thấy có sự chi khác, thì phải tức tốc báo cho ta hay.
Diều biển xổ lồng
Sau khi về Nam, Nguyễn Huệ được Trung ương Hoàng đế Nguyễn Nhạc phong làm Bắc Bình vương (Đinh Mùi, 1787), đóng ở Quảng Nam, một trong ba chân kiềng đối lập với Quy Nhơn, địa bàn của Nhạc và Gia Định, đất phân phong của Đông Định vương Nguyễn Lữ. Anh em một nhà chia ba non nước111: một thời kỳ rất thịnh trong bộ lịch sử Tây Sơn!
Bắc Bình vương, thân ở Quảng Nam, nhưng tai mắt vẫn nghe ngóng ở Nghệ An, nơi thả lỏng con “Diều biển” Nguyễn Hữu Chỉnh.
Quả như Bắc Bình vương đã liệu trước, Chỉnh từ khi ở lại Nghệ An, không quên kiếm cách để phá lồng để bay nhảy.
Bị Bắc Bình vương “ly dị”, Chỉnh, một mặt thu dùng bọn lưu vong, một mặt luyện tập quân hương dũng, ngấm ngầm có chí chiếm lấy Nghệ An.
Ở Thăng Long, sau khi quân Tây Sơn rút khỏi, tình hình trở nên nghiêm trọng. Vua Lê vội vời các triều thần bàn rằng: bây giờ trong nước hư không, nếu có biến động cần kíp gì thì lấy chi mà trị được? Vua Lê bèn bay thư đi các nơi, triệu các cố thần trong các thế gia dấy binh vào vệ. Các hào mục các nơi đều chiếm giữ từng địa bàn, chiêu tập binh mã, lót miệng bằng tiếng bảo vệ nhà vua. Các cựu thần họ Trịnh cũng ló ra, hoạt động về chính trị và quân sự.
Nhân dịp ấy, bọn vô lại cũng nổi lên đánh giết lẫn nhau, làm ồn ào rối ren cả một nước.
Có hai đảng tranh nhau giựt lại ngôi chúa: ấy là đảng Trịnh Lệ và đảng Trịnh Bồng.
“Công kênh” Trịnh Lệ, Dương Trọng Tế đem binh từ Kinh Bắc sang Thăng Long, hiệu triệu bách quan lập Trịnh Lệ lên nối ngôi chúa.
Trịnh Bồng với một số đông thủ hạ, từ Chương Đức về kinh, xin vua Lê Chiêu Thống cho nối nghiệp vương.
Trước tình hình ấy, vua Chiêu Thống vốn nhu nhược và lép vế, rất khó xử.
Lá chiếu vặn hỏi Trịnh Lệ tự tiện làm chúa vừa ban ra, liền bị Trọng Tế xé bỏ trước mặt sứ giả.
Tình thế găng!
Sau vua Lê phải liệu chiều lui tới: phong Trịnh Bồng làm Nguyên súy Yến Đô vương vì nhà vua bị uy hiếp bởi Đinh Tích Nhưỡng và Hoàng Phùng Cơ.
Còn Trịnh Lệ, sau trận đại bại ở Cầu Muống (ở gần Khâm Thiên, Hà Nội), phải chạy về mạn Bắc.
Trịnh Bồng từ bữa được lên làm chúa, lại đi theo vết chân của các chúa trước, vơ nhặt cho kỳ hết các quyền chính mà vì khúc ngoẹo trên lịch sử, tình cờ đã lọt qua tay vua Chiêu Thống nhà Lê.
Vào hồi này, theo như các giáo sĩ đã tả trong quyển Sử ký Đại Nam Việt thì dân gian, bấy giờ, phải sống trong cảnh rối ren mất trật tự và ngoắc ngoải hoặc chết chóc vì cơ cận, dịch lệ:
Làng nọ đánh làng kia, chẳng biết cậy ai cứu giúp… Đâu đó cũng có kẻ cướp, người ta giết lộn nhau… Vả lại, năm ấy, phải đại hạn, đoạn phải bão cùng lụt cả thể. Các đảng đê… về xứ Nam Định vữa (vỡ) hết, hai huyện Quỳnh Lưu và Đông Thành thì càng khốn nạn hơn nữa. Bão lớn lắm, cửa nhà sập hết; cây cối cùng sanh hoa đẳng vật hao hại tận tuyệt chẳng còn giống gì… Nước biển tràn ra làm hư hỏng lúa, còn bao nhiêu khỏi lụt hư thì lại phải sâu keo (hoàng trùng). Năm ấy chẳng có ai gặt được, mà lúa năm trước còn lại ít nhiều thì kẻ cướp lấy hết, cho nên thiên hạ đói khát quá lẽ. Dầu có tiền bạc cũng chẳng biết liệu làm sao mà mua ăn, vì chẳng còn đồ ăn gì nữa. Kẻ đã chết đói thì vô ngần vô số kể chẳng xiết. Người ta chỉ ăn cỏ như bò (?) hay là ăn những rễ cây, gốc chuối, thì lại sinh bịnh dịch mà càng thêm chết hơn nữa… Trong xứ Nghệ An có xã chẳng còn sót người nào, hoặc chết đói, hoặc chết bịnh hết. (Sử ký Đại Nam Việt, trang 60, 61).
Dẫn nguyên văn đoạn Sử ký trên, tôi muốn tỏ cho độc giả biết rõ những trạng thái về chính trị, về kinh tế và về xã hội ở xứ ta hồi đó đương thối nát và tối tăm là thế nào! Các nhà đương cục bấy giờ chỉ chuyên tâm chú ý vào cuộc nội tranh, nhìn đâu đến nỗi đau khổ ở nơi hang cùng, ngõ hẻm!
Càng lầm than thảm đạm, dân chúng càng khát khao một cuộc đời sung sướng hơn. Lẽ tất nhiên họ phải mong tìm cho được bàn tay “tế độ” cứu họ ra khỏi biển khổ.
Nguyễn Huệ đại biểu cho cái khuynh hướng ấy của dân gian, nên dễ thành công trong những công cuộc phi thường: diệt Trịnh, thay Lê, quét sạch 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị.
Đáp lại tiếng gọi của Lê Chiêu Thống, Chỉnh đem binh từ Nghệ An vào kinh Thăng Long hộ vệ, để đồ đảng là Lê Duật ở lại làm việc với Duệ.
Chỉnh tỏ ý quyến luyến Duệ bằng lời đường mật; Duệ nâng chén tiễn chân Chỉnh bằng cái thái độ ân cần. Cảm tình trong cuộc khứ lưu này đã gieo cái mầm thông đồng âm mưu vào lòng phản trắc của hai người đó.
Chỉnh phất cờ “hộ vệ” đến đâu, thế lực và địa vị Trịnh Bồng đổ bẹp đến đó. Ngai vương tôn quý của họ Trịnh, sau cơn bại vong của ông chúa cuối cùng này, phải nhường chỗ cho con “Diều biển”!
Vì có công đuổi Trịnh Bồng, Chỉnh được Lê Chiêu Thống phong chức Bình chương Quân quốc Trọng sự, Đại tư đồ, Bằng Trung công.
Từ đó, lộng lẫy uy quyền, Chỉnh đem vây cánh chia giữ các yếu chức trong triều đình và ngoài các trấn. Phàm việc, Chỉnh cứ tự tiện quyết định, chẳng cần bàn hỏi vua Lê.
Chỉnh đi theo vết chân họ Trịnh còn in lại: lập trại quân Võ Thành, đóng tướng doanh ở Trịnh phủ, cho con là Nguyễn Hữu Du lập phủ “Thế tử”ở phía đông dinh mình. Chỉnh sống một thời hách dịch, lẫm liệt.
Thấy Chỉnh lăng bức như vậy, vua Chiêu Thống phát chán, bèn mật mưu với bọn nội hàn Ngô Vi Quý112 định vời Hữu Chỉnh vào tiện điện (đền tư để vua ngự trong lúc bình cư) để bàn việc rồi nhân dịp đánh thuốc độc mà giết đi.
Một hôm, Vũ Trinh113 vào yết kiến; vua Lê đem việc đó nói với Trinh. Trinh giật mình, tâu rằng: “Ai bày mưu ấy cho Bệ hạ thế? Thần trộm lấy làm nguy lắm đấy. Vì nay cường địch (chỉ Tây Sơn) đương lăng bức, tin cảnh báo ngoài biên thùy đương gấp rút, triều đình chưa hòa, lòng người chưa yên, chính là lúc Bệ hạ nên dựa vào Chỉnh mà dùng làm móng vuốt, chứ Chỉnh chưa lộ hình tích là người gian trá và bất tín, sao Bệ hạ lại vội đón trước, đoán phỏng mà chực giết kẻ cường thần? Muôn một thủ hạ của Chỉnh nổi dậ