Phần Thứ Ba: Đối Ngoại.
Cọp thanh chực vồ thịt việt
Mùa hạ năm Đinh Mùi (1787), Bắc Bình vương ra Thăng Long lần thứ 2, giết Tiết chế Vũ Văn Nhậm, xếp đặt ngạch quan quân, chỉnh đốn việc quốc chính, rồi lưu 3.000181 binh đóng giữ Bắc Hà, lại trở về Nam.
Gánh lấy trọng trách vương đã giao phó, bọn Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm không giám “giấu ta lâng”182 trong khi vắng chủ.
Hễ đâu có sức phản công bùng nổ thì sai tỳ tướng đem quân đi dẹp, cũng đủ làm cho nước lặng sông trong.
Phủ huyện có văn án đệ trình, thì tùy liệu phân xử, không để đọng lại một việc.
Việc canh phòng biên giới giáp với Mãn Thanh? Đã có đô đốc Nguyễn Văn Diễm183 đem du binh đi tuần, xét hỏi giấy phép, cấm ngặt những ai lén lút sang Tàu.
Sống trong thời oanh liệt, bọn Sở mua vui với nhau bằng cách quần ngựa khiển hứng và chuốc chén tiêu nhàn.
Nhưng, họ có ngờ đâu, dưới bóng cờ chiến thắng, đã ẩn ngầm những biến động tầy đình khiến họ phen này, ngựa trận phải đổ mồ hôi, tóc Tướng quân phải pha mầu tuyết:
Nguyên bọn Tham tri chính sự Lê Duy Đản và Phó đô Ngự sử Trần Danh Án, sau khi vâng mật chỉ của Chiêu Thống, cải trang giả làm lái buôn Tàu, nhập bọn với tụi khách, đi lọt được sang đất Mãn Thanh, sốt sắng vận động cuộc cứu viện.
Bọn Án nhờ người canh gác cửa ải giới thiệu, vào ra mắt viên phân phủ họ vương ở phủ Thái Bình (Tàu). Họ kêu khóc kể lể những nỗi Tây Sơn xâm lăng từ năm Bính Ngọ (1786). Hiện nay, vua quan nhà Lê long đong điên bái, “không chỗ gối đầu”!
Trước những ngôn ngữ cử chỉ của họ, vương phân phủ trước còn ngờ, tưởng Tây Sơn bày mưu sai người sang thám thính, nên cứ vặn vẹo bọn Án mãi. Sau, cảm động vì những giọt nước mắt thành thực của Án và Đản, họ Vương phải hứa sẽ nói giùm với Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh và Lưỡng Quảng Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị để Nghị đề đạt việc này lên triều Thanh.
Khi đã nghe thấu cả hai tiếng kêu của bọn Án và của bọn Nguyễn Huy Túc, Tôn Sĩ Nghị giở ngay lối văn sáo cũ nói với bọn liêu thuộc:
– Nước Nam xưa “vốn” thuộc Hán, Đường. Mãi đến đời Tống, họ Đinh mới cựa được lên, giữ lấy nước. Từ đó trở đi, đời nọ nối đời kia gây thành một nước độc lập. Nay cuộc thế xoay vần, họ không giữ nổi, có lẽ ý trời muốn ban cho chúng ta chiếm làm quận huyện đấy nhỉ?
Nghị liền sang Long Bằng doanh, họp bàn với Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh.
Vĩnh Thanh, với giọng lý sự, phản đối:
– Gây sự với ngoài là việc lớn. Lợi hại không phải vừa. Cứ như Ngài (chỉ Tôn Sĩ Nghị) nói, thì Lê Tự tôn cũng đáng thương thật; song thế lực Tây Sơn chưa chắc đã đốn mạt đến thế, vì Nguyễn Huệ là tay thảo trạch vùng lên, hành binh từ thủa để chỏm. Một phen ra tay đã đánh đổ được cái triều đình hơn 300 năm (chỉ nhà Lê) thì lực lượng ấy, tưởng không phải yếu.
Huống chi nước Tàu chúng ta hàng 200 năm nay thái bình vô sự, dân không quen biết việc binh; một sớm giong ruổi vào nơi viêm chướng, chưa chắc đã đánh được, mà được cũng chẳng vinh gì! Muôn một rủi ro thì thiệt hại lắm. Ngài (Nghị) là đại thần nhà nước, cần nên giữ vững bờ cõi, chứ đừng cả tin người ngoài, vội gây sự với lân bang. Cái gương tày liếp của Hoàng Ngũ Phúc, Trương Phụ (đều người đời Minh) ở hồi Vĩnh Lạc (1403-1424), Tuyên Đức (1426-1435) nào đã mờ đâu!
Tôn Sĩ Nghị cãi lại:
– Nhà Lê chịu phong, đời giữ lễ cống. Nay nước người gặp cơn biến loạn, lẽ nào không cứu mà lại ngồi nhìn?
Xếp lý luận ra một xó, Nghị nhúng tay vào việc: đòi gọi bọn Nguyễn Hữu Túc, Lê Quýnh, Hoàng Cái Hiểu, Nguyễn Đình Trạc và Nguyễn Đình Mai đến quân môn cung trạng.
Nghị lại đưa một bản đồ cho Lê Quýnh coi rồi hỏi xem bộ vị và phương diện trong bản đồ ấy có đúng với thực tế không. Thấy Quýnh cho rằng bản đồ sai đến bốn, năm phần mười, Nghị liền sai họa công đến sửa lại theo Quýnh chỉ bảo. Phàm những chỗ còn, mất, hư, thực và anh em Lê Hoàng hiện đang ở đâu đều phải biên chua vào bản đồ cho rõ ràng kỹ lưỡng.
Rồi Nghị dặn bọn Túc: “Việc này, để ta còn tâu lên triều đình. Khi nào được chỉ, ta sẽ giúp cho các ngươi. Các ngươi hãy cứ về nước, tìm cho đến chỗ Tự hoàng đang ở, thám thính tình hình Tây Sơn bây giờ ra sao và người nước xu hướng bây giờ thế nào, lập tức phải phi báo sang để ta phúc tấu. Bấy giờ ta sẽ kéo binh qua cửa ải: chống lại cái nhà đã đổ và dựng lại cái nước đã tan.”
Vua Thanh Càn Long184 (1736-1797) nhận được tờ biên của Tôn Sĩ Nghị nói về nội tình nước Nam và việc vua Lê đem Thái hậu cùng Nguyên tử chạy sang cầu viện liền hạ chiếu thư dụ bảo Nghị:
Tự tôn Duy Kỳ khi đem gia quyến sang đất Bắc (Tàu), là do Trào Châu ruổi đến Long Châu. Cứ theo như lời Tôn Sĩ Nghị tâu, thì ra Lê Duy Kỳ cũng cùng đến cả. Nhưng Duy Kỳ đã thân đem gia quyến sang nội địa, mà sao trong tờ trình vẫn để di quan (quan mọi) Nguyễn Huy Túc đứng tên?
Vả, bọn thổ tù Nguyễn Nhạc đã công phá đô thành nhà Lê, sau thấy Lê Duy Kỳ chạy trốn, lại đem binh đuổi theo để chực giết.
Nếu nước ấy đã bị họ Nguyễn (Tây Sơn) chiếm hết cả mà Duy Kỳ đem quyến thuộc chỉ có hơn 60 người, thì suốt dọc đường sao lại yên ổn mà sang đến tận nội địa này được?
Hiện Duy Kỳ đã tới Long Châu. Vậy truyền Tôn Sĩ Nghị sau khi đến Long Châu nên hỏi tận mặt Duy Kỳ: họ Nguyễn (Tây Sơn) làm loạn, xét ra là vì cớ gì mà gây nên biến? Duy Kỳ gặp nạn gửi mình nơi nội địa phải chăng chỉ cốt bảo toàn lấy tính mạng mẹ con, còn đất đai thì đem nhường cho họ Nguyễn? Hay là chỉ tạm nương náu bên nội địa để trốn tránh, trong bọn thần hạ của Duy Kỳ còn có kẻ có thể vì Duy Kỳ mà giết giặc mà khôi phục rồi đón mẹ con y về nước? Vậy hỏi xem chủ kiến của y như thế nào? Nếu y không biết được rành mạch tỏ tường thì nên đến xét hỏi tận bọn Nguyễn Huy Túc…
Lần này Tự tôn nước ấy cùng quẫn quá lắm mới phải gửi thân nơi nội địa. Trong tờ trình dẫu không thấy nói xin cứu binh, nhưng bọn trấn mục của y nếu quả có thể triệu tập được dân binh, quét tan được hung nghịch, đón Tự tôn về thì cố nhiên là hay lắm rồi.
Nếu họ Nguyễn (Tây Sơn) chỉ chiếm một dải đất của đô thành Lê mà chỗ khác vẫn còn của Lê, bọn trấn mục tuy không trừ diệt được họ Nguyễn (Tây Sơn) nhưng vẫn có thể làm yên được việc mà đón Tự tôn về thì bấy giờ ta sẽ vì họ mà khuôn xếp cất đặt. Thế thì dòng nước họ Lê không đến nỗi bị đoạn tuyệt, ta cũng không bõ dấy quân, thay họ làm đỡ việc lớn.
Nếu họ Nguyễn công phá đô thành Lê rồi lại chiếm cứ hết đất đai An Nam, hoặc con cháu họ Lê đều bị giết hại hết cả thì Tự tôn mai sau chung quy cũng chẳng còn có nước đâu mà về được nữa.
An Nam thần phục bản triều rất là cung thuận, nay bị cường thần tranh cướp, gõ cửa ải mà kêu xin gửi nhờ nội địa, nếu ta bỏ mà không xét đến thì thật không phải là đạo vỗ yên nước nhỏ, làm sống lại kẻ luân vong.
Vậy nên họp tập binh bị cho dày sức rồi kể tội kẻ cường thần mà tiến sang đánh. Đến bấy giờ tự Trẫm sẽ xếp đặt quyết định…”185
Mới đọc xong tờ dụ trên, chắc các bạn tưởng vua Thanh giàu lòng nhân đạo khi thấy vua Chiêu Thống đương thất thểu đi đến bên hố luân vong, nhưng khi xem đến lời chiếu dưới đây, sẽ thấy rõ cái dã tâm của vua tôi nhà Thanh hồi đó:
Nay Lê Duy Kỳ dẫu phải bôn vong, nhưng toàn cõi chưa đến nỗi mất hết. Mà thần dân trong nước hãy còn yêu mến họ Lê thì cũng có cơ hưng phục được. Vậy cho khanh đem quân đóng ở biên thùy, xa làm thanh thế cứu viện. Rồi bảo Duy Kỳ phải triệu tập nghĩa binh thu phục lấy quốc thành, chứ ta không cần phải động binh đánh giúp cho nhọc công, tốn của. Khi họ lấy được kinh thành rồi, khanh sẽ đem quân hộ tống Duy Kỳ về nước. Nếu Tự tôn không làm nổi việc và Tây Sơn cứ rông rỡ thì bấy giờ khanh sẽ đem binh hỏi tội. Rồi thừa cơ chiếm lấy nước Nam.
Nghị liền thông tư đi Vân Nam và Tứ Xuyên đốc lấy binh mã.
Khi sắp xuất quân, Nghị lại làm sớ tâu vua Thanh đại lược:
… Nội lực nhà Lê yếu lắm, rồi ra chắc cũng không giữ nổi nước đâu. Nay thấy họ sang cầu viện, đối với danh nghĩa bề ngoài, triều ta không lẽ không cứu… Nhân dịp này, nếu hưng phục cho Lê được rồi ta sẽ đặt thú binh mà giữ lấy nước. Thế là vừa có ơn với Lê, lại vừa lấy được An Nam: nhất cử lưỡng lợi!
Tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh tuy bác bẻ lời sớ của Nghị là “trước dùng nghĩa, sau mưu lợi”, Nhưng Vĩnh Thanh cũng lộ cái dã tâm muốn nuốt nước Nam trong mấy câu này:
… Chi bằng ta cứ đóng binh không động, đợi khi Lê và Tây Sơn cả hai cùng kiệt quệ, bấy giờ ta sẽ thừa cơ đánh lấy cũng chưa muộn nào!
Rồi lời thỉnh cầu của Nghị được chuẩn y, giấc mộng xâm lược của Nghị được thành sự thực. Binh mã bốn tỉnh Vân Nam, Quý Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, tất cả 20 vạn quân rần rần rộ rộ chia làm ba đường, đồng thời vào xâm nước ta:
Một đạo của Lưỡng Quảng Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị và Đề đốc Hứa Thế Hanh đi theo con đường từ Nam quan rồi do Lạng Sơn đổ xuống.
Một đạo của Vân Quý Đề tổng họ Ô (không rõ tên gì) từ Tuyên Quang186 tràn vào.
Còn một đạo nữa của Điền Châu Tri phủ Sầm Nghi Đống thì từ Cao Bằng kéo xuống.
Hứa Thế Hanh: Đề đốc;
Trương Triều Long:187 Tiên phong;
Thượng Duy Thăng: Tả dực;
Sầm Nghi Đống (Điền Châu Thái thú): Hữu dực.
Hết thảy tướng tá và 20 vạn quân đều ở dưới quyền gươm ấn của Tôn Sĩ Nghị.
Khi quân Thanh trảy đi, tuy ai nấy phải đeo khí giới tùy thân, nhưng mỗi tên lính lại có một tên phu theo phụ188.
Dử giặc vào sâu
Muốn biết rõ lực lượng chiến đấu của quân ta bấy giờ ra sao, nay cần nên biết thêm về mặt đối phương một chút.
Khi kéo sang, Tôn Sĩ Nghị có ban ra tám điều quân luật. Ngoài những điều khuyên răn quân lính của Nghị không cần dùng làm đối tượng để nghiên cứu, còn có ba điều dưới đây cũng có thể dựa làm bằng chứng để cho ta thấy sơ phương lược của tướng Thanh định ứng phó trước cái oai võ của các chiến sĩ Đại Việt ở đương thời và chiến lược của vua Quang Trung toàn vượt ra ngoài chỗ Nghị sở liệu cả.
Điều thứ 2 – Ở ngoài quan ải (chỉ nội địa bên ta) có non cao, núi hiểm, địa thế vốn dễ mai phục; trước nên bạt bỏ đá núi, đốn phát rừng nứa, khiến cho trông ra quang đãng, có thể phóng tâm mà tiến lên. Nếu thấy ở đâu có đất mới lổm ngổm thì càng nên để ý xem xét kẻo mắc mưu chước quỷ quyệt.
Điều thứ 4 – Người Nam, khi ra trận hay dùng voi. Voi không phải là món người Tàu quen thạo. Hễ gặp voi thường cứ chạy tránh đi trước. Nhưng nào có biết sức voi dẫu có lớn chung quy vẫn là con vật có huyết khí, không thể đương nổi với đồ dẫn hỏa của ta. Vậy hễ thấy voi ra trận, nếu xa thì bắn bằng súng, nếu gần thì trị bằng dao và cung, khiến voi bị thương, đau phải chạy quay lại, rồi tự giày đạp lẫn nhau. Quân ta (Thanh) thừa cơ ấy mà tiến công, tất thắng, không còn phải ngờ nữa.
Điều thứ 5 – Quân Nam toàn dùng cái ống phun thuốc súng làm lợi khí, gọi là “hỏa hổ”. Khi hai quân giáp nhau, quân Nam tất phải trước dùng thứ đồ ấy để đốt cháy quần áo người ta khiến cho phải lui. Nhưng so với sang pháo của Tàu chúng ta thì kém xa lắm. Hiện ta đã chế được vài trăm cái mộc bằng da trâu sống (không thuộc). Nếu thấy quân Nam bắn hỏa hổ thì quân ta một tay cầm mộc để đỡ lửa, một tay cầm dao để chém bừa.
Quân luật của Nghị như thế kể cũng ráo riết, nhưng đến mồng 5 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789) này, sự thực sẽ trả lời Nghị:
Quân Nam không cần cậy hiểm, đặt quân phục, thế mà quân Thanh đến phải lách khe núi, luồn rừng cây mà trốn về!
Quân Nam có dùng voi, nhưng chỉ để giày đạp quân Thanh, chứ không đến nỗi chà lộn nhau như Nghị đã tính trước.
Quân Nam vẫn dùng hỏa hổ để công phá làm cho vài trăm chiếc mộc da trâu của quân Thanh đều thành vô hiệu!
***
Đang sống trong những phút “đế vương” hưởng bao bông đẹp trái ngon trong 11 trấn, Ngô Văn Sở bỗng được tin quân gấp rút, tấp nập như gió mưa. Móng chân bịt sắt của ngựa Mãn Thanh đang chà nát luống cầy thượng du miền Bắc. Thổ binh vì sợ hãi, đã chạy trốn mất quá nửa! Phan Khải Đức189 một trong hai tướng đang giữ Lạng Sơn, đã xuống hàng giặc! Tướng Nguyễn Văn Diễm, thấy thế cô, phải rút quân về Kinh Bắc, hiệp sức với lưu thủ Nguyễn Văn Hòa, cố giữ lấy thành trì ấy.
Sở lập tức nhóm các văn võ quan liêu nhà Lê, sai thảo bức thư nói với tướng Thanh xin hoãn binh dưới đứng tên Giám quốc Sùng Nhượng công Lê Duy Cận. Rồi cắt bọn Trần Bá Lãm, Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chử đem thư đưa cho Tôn Sĩ Nghị.
Ngồi ghế chủ tịch, Văn Sở nhóm quân sự hội nghị, bàn chước chiến, thủ. Dự hội nghị ấy có Lân, Dụng và Thì Nhậm…
Chưởng phú190 Nguyễn Văn Dụng nói:
– Cuối đời Trần, người Minh sang chiếm nước ta. Bọn Hoàng Ngũ Phúc, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Liễu Thăng đều là những tướng kiệt hiệt. Vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn: đọ sức ra, khó lòng địch nổi chúng. Nhưng vua Lê biết hành binh, khéo mai phục, nhắm vào chỗ yếu của giặc, ập ra đánh giết, nên mình ít mà vật được nhiều: làm khốn Vương Thông ở bến Đông Bộ191, giết được Liễu Thăng ở núi Mã Yên192. Võ công ấy nghìn thu hãy còn thơm nức. Nay người Thanh vượt suối, trèo non, từ xa kéo lại: chúng nhọc lắm rồi! ta đang nhàn rỗi, sức hãy còn hăng. Chi bằng đặt sẵn quân phục ở nơi hiểm yếu, đợi chúng mới thoạt đến đổ ra thịt sống cả đi. Làm vậy, lo gì chẳng thắng?
Với giọng nho nhã, thâm trầm, Thì Nhậm bàn lại:
– Tình cảnh giống nhau, nhưng thời thế đổi khác. Xưa nước ta thuộc nhà Minh, suốt nước căm giận cái thói tham tàn, độc ác của quân Ngô, ai cũng muốn vùng dậy mà đánh đuổi chúng. Cho nên vua Lê hô lên một tiếng, gần xa thảy đều vang theo. Khi đánh với quân Minh, người nào cũng trổ tài, gắng sức. Nghe tin thắng trận, lòng ai cũng hớn hở vui mừng. Nhân tâm như thế, nên mai phục được kín đáo, không ai dám để lộ cho giặc thông rõ tỏ tường. Vì vậy, vua Lê mới thắng và bá cáo được bài “Bình Ngô”.
Ngô Thì Nhậm lại tiếp:
– Bây giờ khác hẳn. Các bô thần nhà Lê đâu đâu cũng có. Nghe tin người Thanh đến cứu, họ đều nghển cổ trông mong, chực chờ bàn tay ngoại viện làm nên công việc hưng phục. Vả, dân mình lại nhẹ dạ, trúng cái mưu độc “diệt Hồ lập Trần” thuở trước, họ cũng náo nức đi đón quân Thanh. Như vậy, quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay dễ, số quân ít hay nhiều, thế nào chẳng có nội công cáo tỏ. Người Thanh sẽ nhân kế của ta mà vật lại ta: đổ ra bốn mặt lùng bắt cho kỳ hết quân phục, chẳng hóa ra tự mình mua lấy cái chết? Quân cơ đã lộ, còn mong gì đánh úp được ai?...
Sở nói:
– Vậy thì tính sao bây giờ?
Nhậm đáp:
– Dụng binh có hai cách: đánh và giữ. Nay quân Thanh kéo đến, thanh thế đã vang dậy rồi, người mình lại có lắm kẻ làm nội ứng, đồn đại quá lời, làm cho lòng người càng thêm náo động. Ta có việc gì sai người ra khỏi thành chắc sẽ bị chúng bắt giết. Vả, những lính Bắc Hà được dịp này, lại dễ trốn lắm. Thế mà chực đem quân đó đi đánh, khác nào thả dê đánh cọp, tài nào chẳng thua? Muốn đóng cửa thành cố sức giữ, lại sợ không thể tin cậy ở lòng người, tất có nội biến… Đánh đã không xong, giữ lại không vững, bây giờ chỉ còn một chước: rút lui, dử giặc vào trong nội địa.
– Tướng quân, – Vẫn lời Thì Nhậm, – Nên mau truyền lệnh cho quân thủy đóng thật nhiều lương thực vào các thuyền, chở ra đồn Biện Sơn trước. Rồi ta sẽ kéo bộ binh, gióng trống, mở cờ, lui giữ lấy núi Tam Điệp193, liên lạc với quân thủy. Cố giữ cho vững chỗ hiểm yếu ấy, bấy giờ mới bay thư về báo Đại vương (chỉ Nguyễn Huệ) cũng chưa muộn nào.
Sở nói:
– Khi Đại vương về Nam, Ngài đã giao phó thành này cho ta. Nay giặc đến ta phải sống chết với thành, trước là khỏi thẹn là bầy tôi giữ đất, sau mới không phụ cái trọng trách cầm binh quyền. Nếu bây giờ sợ bóng gió, chưa chi đã vội chạy, bỏ thành cho giặc thì chẳng những có tội với Đại vương, mà lại để tiếng cười với người Bắc Hà nữa.
Nhậm giảng giải:
– Tướng giỏi đời xưa liệu giặc rồi mới đánh, tính chước rồi mới làm, lâm cơ, ứng biến, vào quỉ, ra thần, cũng như tay cao tính nước, tùy thế mà đánh cờ vậy. Ta kéo đủ quân về, không phí một người lính, một mũi tên, cho giặc ngủ nhờ một đêm rồi lại đuổi đi, nào có mất gì mà sợ? Nếu vì rút lui mà mang tội, thì tôi xin giãi bày với Đại vương, chắc Ngài cũng sẽ soi xét. Xin Tướng quân đừng ngại.
Trận đấu bất lợi
Sở mật truyền các trấn thủ ở Kinh Bắc và Lạng, Thái rút quân lui về, nhưng phải thanh ngôn là đi hội quân để đắp lũy đất ở bên sông Nguyệt Đức194.
Sở lại hẹn ngày cho các trấn thủ ở Hải Dương và Sơn Tây phải đem quân về họp ở thành Thăng Long. Trấn Sơn Nam phải sửa soạn thuyền, đợi quân thủy đến thì cùng tiến phát.
Năm hôm sau, các đạo đều hội binh ở dưới bóng cờ Tiết chế Văn Sở. Lễ duyệt binh bắt đầu trang nghiêm cử hành ở bên sông Nhĩ. Sở hạ lệnh cho các bộ binh phải sắm sẵn lương khô để đợi sai phái. Thuộc tướng Đặng Văn Chân được lệnh quản đốc thủy quân, đường hoàng xuôi xuống Đông trước.
Sở vừa phân phái xong, thì trời đã vàng tối, bọn Trần Bá Lãm và Nguyễn Đình Khoan về tới Kinh thành. Họ nói: “Khi đến Nam quan, bị tên hậu lại nhà Thanh ngăn cản không cho vào. Hiện nay quân Thanh đã vượt qua Nam quan, lính bộ kỳ tiền phong của họ đã tiến đến địa phận huyện Phượng Nhãn195.”
Giữa vòng các tướng, Sở lại bàn định rút lui…
Nội hầu Phan Văn Lân phản đối:
– Nước không cứ lớn, quân không cứ nhiều, cần phải biết mẹo mới được. Chúng mình nay làm tướng, cầm quân ở ngoài, thế mà giặc đến không đánh, bàn nhau rút lui, còn gọi làm tướng sao được! Vậy tôi xin đem một nghìn tinh binh, qua sông Nguyệt Đức, đánh cho chúng nó một trận, xem Nam khỏe hay Bắc khỏe nào? Có thể, chúng mới biết ta đây là hạng người gan mật chứ?
Được Sở tán thành. Lân liền ruổi quân qua đò sang Bắc. Gấp đường đi suốt ngày đêm, Lân kéo đến bờ bên nam sông Nguyệt Đức thì lầu sương vừa điểm trống canh ba.
Mấy cây gồi cởi trần đứng bên sông, lờ mờ chỏm tóc xác xơ đòi cơn rũ rượi trước những luồng gió lạnh buốt. Lù lù bè rong, bè ngổ, dường cũng sợ rét, dạt nép vào bờ hoang vu.
Trời rét? Mặc! Sông ngăn? Mặc! Lân cứ hăng hái thúc quân tiến vì thấy quân Sĩ Nghị đã đến đóng ở núi Tam Tằng196.
Khi bấm bụng lội tràn qua sông Nguyệt Đức, quân Tây Sơn phải một mẻ buốt thịt xương, run bây bẩy. Có người, vì không chịu nổi rét, chết ngay ở trong sông.
Đổ bộ được sang bờ bên kia, Nội hầu Phan Văn Lân thúc quân vây dinh của Tôn Sĩ Nghị, nhưng phần vì mặt trận quân Thanh kiên cố, phần vì súng đạn ở trong bắn ra rào rào, quân Tây Sơn không sao đến gần được. Lại bị Trương Triều Long197, tiên phong bên Thanh, xông xáo đánh giết và cung tên của hai cánh quân tả hữu dực bên địch bắn châu vào, quân Lân núng thế, chết mất vô kể.
Trước đó, Tôn Sĩ Nghị phái ra một toán kỳ binh từ mạn thượng lưu vượt qua sông, đi tắt đánh úp lấy dinh Thị Cầu.
Thấy trong dinh Thị Cầu phát hỏa, quân Lân cả sợ, vội vượt lũy rút về. Giặc Thanh nhân cái đà thắng lợi đó, ruổi dài, tiến tràn, làm cho quân Lân phải một mẻ bất lợi198!
Tin Lân thua chạy ấy là một tin vừa đáng kinh, vừa nhục nhã cho Ngô Văn Sở! Hết sức giữ bí mật, Sở không muốn cho vết dầu ấy loang trên “tờ giấy”
Thăng Long.
Lệnh Tiết chế vừa hạ: các quân, đội nào ngũ ấy, nghiêm chỉnh kéo đi. Họ đã trẩy qua Phúc Châu199, mặt trời mới tròn bóng. Bấy giờ người Bắc mới biết quân Tây Sơn đã rút khỏi Thăng Long.
Đến Yên Mô200 (ngày 20 tháng mười một năm Mậu Thân, 1788), Sở chia bộ binh bổ đóng núi Tam Điệp (đèo Ba Dội), liên lạc với quân thủy ở hải phận Biện Sơn.
Từ Trường Yên201 trở vào bị quân Sở chẹn giữ, cắt hẳn Thanh, Nghệ với các trấn Đường Ngoài202, nên tình hình hai đằng bị ngăn cách hẳn.
Bắc Hà dưới gót sắt giặc Thanh
Để đón quân Thanh, Lê Chiêu Thống sai Bình chương Phạm Đình Dũ và Tham tri Võ Trinh đem thư với 10 con bò, 100 vò rượu lên tận Hòa Lạc203 vấn an Tôn Sĩ Nghị.
Ôm cái dã tâm xâm lược, Tôn Sĩ Nghị vượt qua cửa ải, xuống Lạng Sơn, rồi kéo đến Kinh Bắc với bao nhiêu cái dễ dàng.
Khi Nghị đến trấn Kinh Bắc, vua Lê lóp ngóp từ Phượng Nhãn, thân đem quần thần đến khúm núm yết kiến và mời Nghị hãy vào đóng trong trấn dinh. Song Nghị nói: “Đây cách quốc thành (Thăng Long) không xa, nên đến ngay, chứ không nên chùng chình ở lại.” Nghị bèn sai bắn 9 phát súng, rồi nghiêm chỉnh đội mũ mà tiến đi.
Bóng lạnh đã ngả về chiều, Nghị mới kéo quân đến bờ phía bắc sông Nhĩ. Vua Lê xin trước qua sông, vào thành Thăng Long, sai sửa soạn màn trướng ở trước điện Kính Thiên để mời Nghị đóng.
Nghị không ưng nói: “Chỗ ấy không phải là hành doanh của đại tướng, vì có nhiều điều không tiện cho việc hành binh.”
Nghị bèn sai chia đồn cắm đóng ở những nơi bãi cát rộng rãi bên sông Nhĩ lại sai làm cầu phao ở trong sông để tiện đi lại204.
Ngày 21, tháng mười một (Mậu Thân 1788), Nghị lùa quân vào thành Thăng Long trống rỗng, đặt tướng doanh tại Tây Long cung205.
Khi Sĩ Nghị ra quân, vua Thanh giao sẵn cho sách và ấn, dặn rằng hễ lấy được đô thành Thăng Long thì phong Tự tôn Duy Kỳ làm An Nam quốc vương để ràng buộc lấy lòng người.
Vâng lĩnh ý chỉ của vua Thanh Càn Long, Sĩ Nghị thấy bấy giờ đã có thể thực hành được sứ mạng đó, bèn bảo vua Lê chọn ngày để làm lễ sách phong; song vua Lê giãi bày rằng lăng tẩm ở Thanh Hoa hãy còn sa vào trong Tây Sơn, chưa đến bái yết được thì lẽ đâu lại vội làm cái thịnh điển này. Thế rồi Chiêu Thống khóc xin Nghị hãy tạm hoãn.
Nghị nói: – Những lời của Tự quân thật ra là chí tình, nhưng Hoàng đế (chỉ vua Thanh) đã có mạng lệnh bảo làm thì không thể chầy hoãn được. Tự quân há nên vì tình riêng mà xin hoãn lại cho nhàm?
Cố nhiên, Nghị bảo sao vua Lê phải nghe vậy.
Vì thế qua ngày 22206 Sĩ Nghị làm lễ phong vua Lê làm “An Nam quốc vương” ở điện Kính Thiên.
Trong bài văn sách phong có câu đặc sệt cái mùi đạo đức giả:
披十有一道之提封原非利扶土地
遡百五十年之職貢能不念其祖宗
Phi thập hữu nhất đạo chi đề phong, nguyên phi lợi phù thổ địa;
Tố bách ngũ thập niên chi chức cống năng bất niệm kỳ tổ tông.
Dịch:
Mở dư đồ mười một đạo, lợi đâu hám ở đất đai?
Trải chức cống trăm rưởi năm, tình nghĩ cảm vì tông tổ.
Mặc dầu phải mặc áo cổn, đội mũ miện, quì ở sân điện (Kính Thiên) mới được người Thanh “ban” cho danh hão hiệu hờ, vua Lê vẫn khép nép e dè, không dám đường hoàng, trên văn thư dùng niên hiệu Chiêu Thống, nhưng vẫn phải đề hiệu Càn Long nhà Thanh (bấy giờ là năm Càn Long thứ 53, Tây lịch 1788).
Hằng ngày, vua Chiêu Thống cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa theo sau, với vài chục lính hầu cong cóc sang Tây Long cung nơi Sĩ Nghị đóng, chầu chực công việc quân quốc.
Nghị với vẻ ngạo nghễ tự tôn, không thèm đếm xỉa đến vua tôi nhà Lê gì cả. Có khi Chiêu Thống tiến yết, Nghị không tiếp, chỉ sai người đứng dưới gác chuông truyền ra bảo vua Lê rằng: “Nay không có việc quân quốc gì, hãy cứ về cung mà nghỉ!”
Luôn mấy năm mất mùa, dân gian đương bị hung thần “Đói kém” hành hạ! Sịch một cái, giặc Thanh lại kéo sang, lùa nhân dân vào giữa hai ngọn lửa! Trên bức phông thời sự, bên những tấm thân tàn trong cảnh sống ngắc ngoải, lại điểm thêm mấy nét khói lửa loạn ly! Những tiếng kêu than ra từ lòng không dạ rỗng lẫn cả bao tiếng khóc lóc nghiến răng trước những thảm kịch cướp của, đánh người, luân gian, hãm hiếp do bọn quân Thanh gây nên!
“Đứa ở ăn hiếp chúa nhà!” nạn ấy thường xẩy những nơi như Hà Khẩu phường trong thành Thăng Long, phố Cơ Xá bên Kinh Bắc và phố Hiến thuộc trấn Sơn Nam! Hàng vạn Thanh kiều ở tản trong những nơi đó, đã sống lâu năm bên ta, am hiểu phong tục, nói thạo tiếng Nam, nay bỗng nắm được “Cây gậy thần thế” của Tôn Sĩ Nghị giở ngay thủ đoạn nhờ gió bẻ măng: họ hoặc đến phụ theo quân đồn, hoặc lập riêng cái điếm “Liễm để” công nhiên cướp của, hiếp gái ở giữa chợ hay ngoài đường, không còn kiêng nể e dè gì cả! Rất đỗi họ tìm nhiều cách vu hãm lương dân để tranh chiếm lấy đất, ruộng, tài sản của đồng bào Nguyễn Huệ!
Đã khổ vì đói kém, khổ vì bị hiếp đáp, dân gian lại phải trĩu vai oè cổ gánh vác việc cung đốn giặc Thanh! Vắt từ bồ hôi nước mắt của hạng người kheo khư ốm đói, vua quan nhà Lê nặn lấy rượu thịt, cơm, gạo, cho quân gia Thanh và rơm, cỏ, lá tre, ngô, thóc, cho lừa ngựa chúng! Chỉ thiếu một gánh cỏ, một đấu thóc, anh dân đen cũng đủ nát thịt hay mọt gông rồi!
Chẳng những vậy, sự dâng nộp lại là cái tai nạn ghê gớm đối với dân gian: đã mất của “đổ sông Ngô” lại mất công quỵ lụy chầu chực! Gia dĩ một tang, hai ngoại, hạng người ngắn cổ bé miệng chỉ có cách gạt nước mắt bấm bụng chịu dầu trước những cái tàn ác của kẻ lạm bổ phù thu!
Sống mặc bay! Chết cũng mặc bay! Quân Thanh cứ việc ăn chơi phưỡn phệ!
Dùi đến đục, đục đến săng, vua tôi nhà Lê cũng sướt trán về việc liệu lý binh lương, nhưng nạo vét được bao nhiêu thì lại “cúng sống” khách binh hết cả!
Đã trót đáp theo tiếng gọi Cần vương, nghĩa binh các nơi riêng chịu bóp bụng tòng quân chứ đừng hòng triều đình phát tiền, phát gạo mà nhờ!
Bắc thành trước ý yêu ghét của Chiêu Thống
Sau ngót một tháng đã phục được kinh thành Thăng Long, nhưng hiệu lệnh của vua Lê chỉ choèn choèn ở 5 lộ Ứng (Ứng Hòa), Thường (Thường Tín), Từ (Từ Sơn), Thuận (Thuận Thành), Quảng (Quảng Oai) thôi. Còn từ Trường Yên (Ninh Bình) trở vào Nam đều bị ngăn cách không thông tin được207.
Lê Chiêu Thống, một người có tính hẹp hòi khắc nghiệt, sau khi nhờ sức quân Thanh, thu phục được Thăng Long, làm luôn những việc báo ân trả oán, cốt thỏa tư ý yêu ghét thiên lệch và riêng theo tình cảm cá nhân không chính đáng, chứ chẳng cân nhắc bằng lý trí mà đặt vấn đề quân quốc lên trên hết mọi sự.
Nên chi, trong dịp này, chính là một cơ hội tốt để Chiêu Thống lộ hết cái bản tướng bất xứng chức của mình!
Hồi tháng mười một năm Chiêu Thống thứ 2 (Mậu Thân, 1788), vua Lê trị tội những người xuống hàng Tây Sơn. Bấy giờ trong họ nhà vua có người tông nữ kết duyên với tướng Tây Sơn đã có mang, vậy mà vua Lê sai mổ bụng lấy thai giết chết cả hai mẹ con vô tội. Chính Chiêu Thống lại sai chặt chân ba người hoàng thúc quăng ra giữa chợ trong cung208.
Ấy là không kể những vụ như: giết Phạm Như Tụy, trấn thủ Tuyên Quang, vì Tụy bắt Hoàng đệ Duy Lưu đem nộp Tây Sơn và khép Phò mã Dương Bành vào tử hình vì Bành dẫn quân Đàng Trong đuổi bức ngự giá209.
Mấy việc này chẳng những làm cho lòng người nôn nao ngờ vực và không nhất tâm, lại còn khiến cho bà Thái hậu (mẹ của Chiêu Thống) đau đớn tức bực nữa. Nguyên, khi Thái hậu từ Tàu về đến Thăng Long nghe biết những việc ngang trái của vua Lê đã làm ấy, bà phát bẳn lên rằng: “Ta cay đắng mới xin được quân cứu đến đây. Nước nhà phỏng được mấy phen cứ trả ân báo thù để phá hoại thế này! Hỏng đến nơi rồi!” Rồi bà kêu khóc, không chịu vào cung. Tụng thần là Nguyễn Huy Túc khuyên giải mãi, bấy giờ bà mới thôi210.
Đến khi ban thưởng, chia chức, vua Chiêu Thống lại rất thiên từ tây vị: chỉ rảy mưa móc cho bọn bầy tôi hoặc tòng vong hoặc ở nơi hành tại211, chứ không nghĩ gì đến những cựu thần và hào kiệt các nơi. Vì vậy nhiều người thất vọng và ngã lòng.
Bấy giờ, Kinh Bắc Hiến sát Phó sứ Ngô Tưởng Đạo có dâng sớ khuyên vua Lê rằng:
… Việc binh quý ở thần tốc. Nếu gặp cơ hội có thể làm được thì sao cứ phải chuyên cậy vào ngoại binh để động tí lại ngừng lại đến hàng tuần nhật? Hiện nay quân cần vương ở các lộ ai chẳng muốn cố sức chết để đền bồi? Bây giờ quân Tây Sơn đã lui, ta nên đem ngay đại binh mà đuổi theo, làm như sấm choẹt không kịp bưng tai, khiến cho bên địch không còn rảnh rang mà lo tính được nữa. Hai xứ Thanh, Nghệ nghe biết tất nhiên hưởng ứng. Văn Huệ thì cách trở ở phía nam Hoành Sơn, bọn Văn Sở thì thế côi không có quân cứu, hình thế xa cách nghẽn tắc, hai bên không thông được với nhau, thì không ngoài mười ngày ta có thể bắt sống được cả. Một khi đã bắt được vây cánh của họ rồi, ta sẽ có thể lần lượt phá sạch được hang tổ của họ đấy. Cái cơ trung hưng chính ở ngay đây, xin đừng bỏ lỡ…
Nhưng Chiêu Thống chỉ hoàn toàn ỷ lại vào quân Thanh, coi Tôn Sĩ Nghị như vị cứu tinh, như bức Vạn lý Trường thành; Sĩ Nghị bảo sao thì nghe vậy, chứ mình chẳng có một chút năng lực tự động gì cả!
Một cố cung nhân đến từ Trường Yên đã phải phàn nàn với Lê Thái hậu: “Nguyễn Huệ là tay anh hùng lão luyện, mạnh tợn, giỏi nghề hành binh, lúc ra Bắc, lúc về Nam, xuất quỉ nhập thần, chẳng ai có thể dò lường được: chẳng thế bắt Hữu Chỉnh như túm trẻ con, giết Văn Nhậm như thịt con lợn: không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn bao giờ. Hễ thấy hắn trỏ tay hay lườm mắt, thì người ta đã sợ quá sấm sét: phách lạc hồn siêu cả rồi! Tôi trộm e: chẳng bao lâu hắn sẽ lại đến đây. Tôn Tổng đốc (Sĩ Nghị) đem đàn quân có nạn nội cố này chực địch với hắn, phỏng sao đương nổi? Tôn chẳng qua là khách, sang đây cũng chỉ nghe ngóng tình thế khó hay dễ mà liệu chiều lui hay tới thôi. Còn quốc gia của ta thì sao!”
Thấy gần đến tết, vua Lê theo lời Lễ quan tâu xin, cho phong ấn cất đi (hạp ấn) từ ngày 25 tháng Chạp (Mậu Thân, 1788), và làm lễ miếu xã triều đình theo lệ thường. Cho bách quan và quân lính nghỉ mười ngày để đón mừng xuân mới. Còn đối với “Đại súy của Thiên triều” (chỉ Tôn Sĩ Nghị) thì nghi phẩm cung đốn theo lệ khoản tiếp “Thiên sứ” sang sách phong, nhưng nay gia hậu bội phần.
Chúng nó chỉ mua lấy cái chết
Đường hoàng giữa cảnh sông Hương núi Ngự, Bắc Bình vương đương chú mắt vào thời cục Bắc Hà, thì Nguyễn Văn Tuyết212 từ núi Tam Điệp, vâng lệnh Ngô Văn Sở phi ngựa trạm, đem tin khẩn cấp vào thành Phú Xuân (ngày 24 tháng mười một năm Mậu Thân, 1788): Tôn Sĩ Nghị lót miệng bằng tiếng “cứu Lê” đã kéo binh sang chiếm Thăng Long, giày đạp dân chúng! Khí diễm quân Thanh đang ngùn ngụt như lửa bốc dữ! Thú binh ở Bắc của ta không sao địch nổi, đã phải rút lui đóng giữ từ Thanh Hoa trở vào.
Với vẻ cương quyết như Trần Hưng Đạo khi có giặc Mông Cổ: “Đầu tôi chưa rụng xuống đất, đừng lo!” Và với giọng khảng khái như Lê Lợi khi có giặc Minh: “Tài trai phải cứu nạn đời, lập công lớn, lưu tiếng thơm ngàn thu, chứ sao chịu để cho người sai khiến?” Bắc Bình vương lớn tiếng mắng nhiếc quân Thanh trước cái kinh hoàng của Tuyết: “Vẻ chi anh em sợ hoảng lắm mấy? Đàn Ngô cẩu chỉ đem thân đến để mua lấy cái chết đó thôi!”
Bấy giờ các tướng ta ai cũng khuyên vương: Nên hãy trước chính vị hiệu để ràng buộc lấy lòng người Nam, Bắc, rồi sau sẽ ra bắt sống quân hùm beo ấy cũng chưa muộn nào!
Chiều ý chư tướng, Bắc Bình vương sai chọn ngày lập đàn Giao ở Bân Sơn, phía nam núi Ngự Bình, làm lễ tế trời đất và các thần sông, núi. Rồi với bàn tay đanh thép như Nã-phá-luân thứ nhất, vương tự làm lễ “gia miện” lấy. Thế là, từ ngày 25 tháng mười một năm ấy, được mang cái hiệu Quang Trung nguyên niên (1788) thay vào hai niên hiệu: Chiêu Thống thứ 2 và Thái Đức thứ 11.
Ngay hôm đăng quang, vua Quang Trung tự làm tướng cầm đầu đại binh, đốc thúc các tướng sĩ ở tế đàn, kéo cả quân bộ, quân thủy rầm rộ ra Bắc Hà với cái triêu khí đang tưng bừng bồng bột.
Bữa 29, trẩy đến Nghệ An, nhà vua đóng quân, ở lại hơn mười ngày, sai tướng Hô Hổ hầu213 tuyển lính Nghệ: cứ 3 suất đinh thì lựa lấy một người làm lính. Binh số cộng được hơn 10 vạn người214, voi trận được vài trăm con.
Nghiêm như sắt đá Trà Sơn, hoạt bát như làn nước Hồng Thủy, vua Quang Trung tại trấn doanh Nghệ An, làm lễ điểm duyệt binh lính.
Thân quân Thuận Quảng, chia làm bốn doanh: Tiền, Hậu, Tả, Hữu. Tân binh Nghệ An đặt làm trung quân.
Khi ở Nghệ, vua Quang Trung sai vời “thầy La Sơn” Nguyễn Thiệp215 đến, hỏi thử rằng: “Quân Thanh kéo sang xâm; ta nay làm tướng thân chinh đấy. Chước đánh, giữ và số được thua ra sao, nhà thầy thử nói cho ta nghe nào!…”
Thiệp thưa: “Bây giờ trong nước rỗng không, lòng người tan nát. Quân Thanh từ xa kéo đến không rõ tình hình khỏe yếu và phương thế đánh giữ gì đâu. Chúa công ra chuyến này, chẳng qua mười ngày thì dẹp được giặc.”
Thấy Thiệp nói hợp với ý chỉ mình, vua Quang Trung mừng lắm.
Chỉ nội mười ngày quét sạch giặc Thanh
Đội mũ trụ, mặc áo giáp, cưỡi voi, vua Quang Trung ra khỏi tướng doanh, vỗ về yên ủi quân sĩ bằng một thái độ ôn tồn.
Rồi lệnh truyền “cho ngồi” vừa hạ, chư quân phăng phắc im tờ, chăm chú ngồi nghe nhà vua diễn dụ:
Quân Thanh kéo sang xâm lấn, hiện đương chiếm cứ Thăng Long, các ngươi đã hay tin chửa?
Trong vòng trời, đất, chia theo phận sao Dực, Chẩn, Nam Bắc vẫn riêng một non sông. Người Tàu không phải nòi giống ta thì tất khác lòng khác dạ. Từ nhà Hán về sau, họ cướp đất đai ta: cắt thịt nhân dân, vơ vét của cải, nông nỗi ấy thật khó chịu quá! Người nước ai cũng phải nghĩ đánh đuổi đi.
Đời Hán, có Trưng Nữ vương, đời Tống có Lê Đại Hành; đời Nguyên có Trần Hưng Đạo; đời Minh có Lê Thái Tổ. Các cụ không chịu bó tay ngồi nhìn quân Tàu tàn bạo, nên phải thuận lòng người, dấy quân nghĩa, đánh thắng chúng rồi đuổi cổ về Tàu. Trong những khi ấy, Nam Bắc đâu lại phận đó, bờ cõi yên ổn, vận nước lâu dài. Từ nhà Đinh tới nay, chúng ta không đến nỗi phải cái khổ thuộc nước Tàu như xưa nữa. Đó lợi, hại, được, thua chuyện cũ rành rành là thế.
Nay người Thanh không soi gương Tống, Nguyên, Minh, lại sang mưu chiếm nước Nam ta đặt làm quận huyện! Vậy, ta phải vùng ra mà khu trừ đi!
Các anh em, hạng người có tri thức, có tài năng, phải cùng ta đồng lòng gắng sức, khiến cho việc lớn được nên, chứ đừng giở thói phản trắc, nhị tâm đó! Hễ việc lộ ra ta quyết giết chết, không tha một ai, bấy giờ đừng trách ta không bảo trước.”
Tiếng dụ vừa dứt, tướng sĩ thảy đều cảm kích. Ai nấy tỏ vẻ hăng hái hy sinh, quyết tâm “làm thịt” giặc Mãn.
Qua bữa sau, vua Quang Trung hạ lịnh trẩy quân.
Hơn mười vạn binh, nhất là đám thân quân, đều được huấn luyện thành thục: họ bơi lội rất giỏi, đi đường rất nhanh; thật không phụ với hai tiếng “tì hưu” xưa kia người ta vẫn dùng để tặng hạng quân hùng kiệt.
Để làm như binh mã từ trời sa xuống, vua Quang Trung muốn cho cực kỳ thần tốc trong lúc hành binh, Ngài ra lệnh này cho đám quân Bắc phạt: cứ ba người một tốp, luân phiên võng lẫn cho nhau, suốt dọc đường, anh lính nào cũng phải võng người và được người võng. Như thế, hết lượt anh này phải đi, lại đến lượt anh khác được nghỉ. Nghỉ, đi, đi, nghỉ, cứ đồng lần mãi cho ra đến chỗ đất mục đích. Vì thế, vừa trảy được nhanh, vừa khỏi kiệt quân lực.
Quân lính đi trước, vài trăm voi trận đi sau216 người ta dõng dược, hăng hái bước trên con đường dẫn đến thành công.
Ngày 20 tháng Chạp năm Mậu Thân (1788), vua Quang Trung đã đến núi Tam Điệp (chỗ tiếp giới Thanh Hoa và Ninh Bình).
Để nhận việc rút lui là tội đáng chết, Sở và Lân, cả hai vác gươm ra đón Quang Trung hoàng đế.
Vua quở trách: – Các khanh đem quân theo ta, làm đến quân soái. Ta đã giao cho toàn hạt mười một trấn, được phép tiện nghi làm việc. Vậy mà thấy giặc đến, không dám đánh một trận nào đã vội trốn! Cái tội đó, cứ kể đáng chết thật. Vì theo binh pháp: thua trận thì tướng phải chết chém.
Ta đã biết trước: các khanh chỉ thạo nghề võ, gặp giặc thì đánh khỏe; chứ đến liệu cơ chế thắng, chắc không phải là ngón sở trường. Vậy nên, trước khi về Nam, ta phải cử Ngô Thì Nhậm ở lại làm việc với các khanh.
Vả, Bắc Hà mới dẹp yên, lòng người chưa thật quy phụ. Mà thành Thăng Long bốn mặt đều là chiến trường không có chỗ nào hiểm trở có thể giữ vững được. Nghiệm ngay như năm xưa ta ra lấy Bắc Hà, chúa Trịnh quả không trông nổi thì đủ biết. Các khanh đóng quân ở đấy ngoài thì giặc Thanh đến lấn, trong thì người Bắc làm nội công, các khanh còn biết xoay trở làm sao được nữa!
Các khanh chịu nhịn, tránh mũi gươm đang bén của giặc, rút quân chẹn các nơi hiểm yếu để, mặt trong, khêu mối tức tối của quân ta, mặt ngoài, tăng thêm cái khí kiêu căng của quân địch. Chước đó kể cũng phải đấy. Mới nghe, ta đã đoán ngay là mưu kế của Thì Nhậm; kịp hỏi Văn Tuyết, quả nhiên không sai.
Thì Nhậm, bấy giờ, cũng ra lạy tạ nhà vua và thuật rõ gót đầu công chuyện.
Vua Quang Trung lại tiếp: – Nay ta tới đây, thân đốc việc binh, chiến thứ ra sao đã có phương lược định sẵn. Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch được giặc Thanh. Song le ta nghĩ: nước chúng lớn hơn nước mình mười lần. Chúng bị thua rồi, tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách rửa hờn. Nếu cứ để binh lửa kéo dài, mãi không yên ổn, thật không phải là phúc nhân dân, lòng ta sao nỡ? Nên chi, sau khi chiến thắng, ta nên khéo đường từ lệnh thì mới dập tắt được ngọn lửa binh tranh. Việc từ lệnh đó, ta sẽ giao cho Ngô Thì Nhậm.
Rồi xây217 ra phía Nhậm, ngài nói: – Vậy khanh phải tùy cơ mà liệu ứng phó với chúng?
Dọn lại giọng, vua Quang Trung nói cách khảng khái: – Cứ thả cho ta mười năm nữa, quân ta mạnh, nước ta giầu, thì có sợ gì chúng nó?
Ngài lại ngọt ngào yên ủi bọn Sở, Lân: – Các khanh làm vậy cũng là một mẹo nhử giặc đó. Thôi, nay ta hãy cho đới tội lập công, trông mong ở chỗ các khanh rán sức sau này…
Mấy lời hùng lược tự tín của vua Quang Trung trên kia nay cần lặp lại: “Chỉ nội mười ngày nữa, thế nào ta cũng quét sạch được giặc Thanh!”
Rồi mở tiệc linh đình, khao lạo tướng sĩ. Ngài với giọng quả quyết cương nghị bảo họ rằng: “Bữa nay ta hẵng ăn tết Nguyên Đán trước (bữa ấy mới là ngày 20 tháng Chạp) sang xuân, ngày mồng 7, ta sẽ lại vào ăn tiệc ở thành Thăng Long. Các ngươi cứ nhớ lấy lời ta xem có đúng thế không!”
Để khêu gợi lòng trung dũng, khí hăng hái của ba quân, vua Quang Trung, trước khi tan tiệc tất niên không quên gắn bó họ bằng “khẩu hiệu” này:
“Một là ăn đặng Tết; hai là đành chịu chết! Các tướng sĩ phải thật hết lòng cùng ta!”
MỖI NGÀY SĨ NGHỊ XỬ TỬ HÀNG ba, bốn CHỤC NGƯỜI!
Sau khi bọn Ngô Văn Sở đã rút lui về Nam, Tôn Sĩ Nghị kéo quân qua sông Nhĩ tràn vào thành Thăng Long với vẻ “ta đây, các chú Thiên triều!” bổ đồn đóng quanh thành218, từ cửa ô Thăng Long đến Hà Hồi (thuộc huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, Hà Đông). Nghị chia khoảng từ đồn nọ đến đồn kia, đặt súng đại bác, lại chôn địa lôi ở ngoài đồn trại; cắm chông sắt ở phía trước Tây Long cung bên bờ sông. Nói tóm, đồn lũy đằng giang của quân Thanh có vẻ liền lạc và kiên cố lắm.
Việc canh gác kho khí giới và lương thực của quân Thanh? Giao cho viên đề lĩnh họ Đinh với một toán quân già.
Khi đóng quân ở quanh thành như vậy, tướng lệnh của Sĩ Nghị kém nghiêm minh, không ngăn cấm được những sự làm càn của quân lính: cái nạn cướp chợ và hiếp dâm phụ nữ không ngày nào, không chỗ nào không thấy xảy ra219. Thành thử mối thù oán gây bởi đám quân sài lang không kỷ luật ấy càng lâu càng thấm sâu vào tận xương tủy dân chúng!
Nghị lại phi sức cho các quan nhà Lê phải tra xét, lùng bắt, dâng nộp những tướng sĩ của vua Quang Trung hãy còn rớt rát tại các thôn trại. Hằng ngày số người không may bị Nghị bắt giết ấy có tới hàng ba, bốn chục! Lâu dần tổng số chết đến hơn nghìn mạng người220!
Cầm đầu 20 vạn quân, Sĩ Nghị không nghĩ đến bốn chữ “kiêu binh tất bại” trong binh pháp, song chỉ tìm cuộc vui suốt buổi, trận cười thâu đêm ở trong soái phủ; ngoài rượu nồng, gái đẹp hai món quà của vua Lê Chiêu Thống đưa tặng, Nghị không hề hành động chi hết. Vì vậy, từ hôm Nghị đóng quân ở Thăng Long, ngày nào trước cửa soái phủ cũng thấy cao treo tấm bài “miễn tiếp”.
Khi nhận được tờ sớ của Ngô Tưởng Đạo khuyên kíp tiến quân như trên đã nói, vua Chiêu Thống có sai Lê Quýnh đến nói với Sĩ Nghị, nhưng viên tướng Thanh kiêu căng này lại bảo là không nên221.
Từ sau khi lấy được Thăng Long, hào kiệt các trấn đi cần vương tranh đến cửa quân xin tiến binh Sĩ Nghị đều bỏ qua, chẳng hỏi gì đến222.
Khi thấy vua tôi nhà Lê khẩn khoản thúc giục về việc tiến quân ấy, Nghị lại khoác lác: “Cần gì bối rối sợ hãi! Việc này ta chỉ coi như thò tay vào túi mà móc lấy đồ vật thôi: lấy sớm thì xong sớm, lấy muộn thì xong muộn. Nay đã ngày hết tết đến, đại binh mới từ xa lại, chính là lúc hãy nên nhàn hạ nghỉ ngơi, không nên đánh vội. Giặc (!) còn gầy, ta hãy cứ nuôi cho béo, để chúng tự đến dâng thịt cho ta. Các ông đã kêu xin tiến quân, thì ta cũng liệu cho xếp đặt: từ đô thành (Thăng Long) vào Nam, cứ độ 60 dặm một, chia đặt ba chỗ đồn binh. Đó cũng là cái ý xa đặt quân xích hầu (do thám), phòng sự không ngờ. Rồi đợi đến sang năm, đem binh tiến lấy cũng chưa muộn nào.”
Thế rồi Nghị lại sai đắp thổ lũy ở ba nơi này và phái quân đến phòng thủ:
1. Một đồn ở bên bờ bắc sông Nguyệt Quyết thuộc huyện Thanh Liêm223;
2. Một đồn ở làng Nhật Tảo224 thuộc huyện Duy Tiên;
3. Một đồn ở Ngọc Hồi thuộc huyện Thanh Trì225.
Về phần Lê Chiêu Thống, càng ngày nhà vua càng làm cho nhân tâm trong ngoài càng rời rạc như cát, giá lạnh như băng.
Như các bạn đã thấy, từ ngày dựa vào cái “núi băng Tôn Sĩ Nghị”, vua Lê đã hành động nhiều việc tàn bạo, mất hết thiên lương.
Tổng viên đề lĩnh họ Đinh giữ chức giám oi, canh gác khí giới, lương thảo, chứ không trọng dụng vào việc quân quốc, vì ông Đinh đã có can đảm và cao kiến dám phản đối việc cầu viện nhà Thanh bởi lấy cớ rằng làm vậy chỉ là một cách rước vóc cõng rắn, thế nào nước mình chẳng mất nếu chúng làm được thành công.
Thẳng tay giết hết những viên mục trong nước đã theo Tây Sơn. Rất đỗi những đàn bà bị cáo là theo “Ngụy” dẫu đang có mang cũng bị phanh thây, xả bụng226! Nhưng có ngờ đâu những “hòn máu” vô tội trong bụng mẹ chúng kia sẽ vang dậy tiếng kêu oan, làm cho trái tim vua Lê sau này mang xuống tuyền đài hãy còn uất kết chưa tan, lúc đã quê người xương trắng. (Vua Chiêu Thống mất ở Bắc Kinh ngày 16 tháng mười năm Quý Sửu, 1793, hưởng linh 28 tuổi).
TRÁ HÀNG ĐỂ KIÊU LÒNG GIẶC
Vua Quang Trung, sau khi kéo quân từ Nghệ trảy đi, làm theo mưu kế của danh sĩ Nguyễn Thiệp227, một tay am hiểu thời cục Bắc Hà và thông thuộc tình hình quân Thanh, vì đã dạy học ở nhà ông đề lĩnh họ Đinh.
Một mặt, vua cứ thúc quân gấp tiến, ập đánh thật nhanh, khiến cho quân Thanh không kịp trở mình, sẽ phải cúp đuôi sam chạy!
Nhưng, một mặt, vua lại không quên dùng kế làm cho Sĩ Nghị sinh kiêu, đem lòng khinh địch: Vua sai Trần Danh Bính cầm đầu tám người sứ thần, đưa đến cho Tôn Sĩ Nghị ba đạo bẩm văn228 nói rõ về sự tình phải lên thay nhà Lê.
Với giọng khẩn khoản thiết tha, sứ bộ Tây Sơn nài xin Tôn Sĩ Nghị hãy đóng quân ở cửa ải, tra rõ cái nội tình giữa Lê và Nguyễn (Tây Sơn) từ trước đến giờ.
Chẳng những sai sứ đưa thư, tỏ ý “cung thuận” như vậy, vua Quang Trung lại thả trả nhà Thanh tụi tuần dương binh là bọn Hác Thiệu Tông 40 người do Ngô Hồng Chấn, nguyên tướng Tây Sơn đóng ở Thăng Long, bắt được từ trước229.
Làm thế, cốt để “cưng” lòng kiêu ngạo của Nghị khiến va tưởng rằng “chàng áo vải Tây Sơn” phen này đến phải “tự trói mình, ra Thăng Long tạ tội” thật đấy.
Nhưng cuộc vận động bằng ngoại giao, bằng hòa bình, từ trước đến sau, hoàn toàn thất bại cả.
Làm ra mặt, Sĩ Nghị cự tuyệt hẳn cái “cung thuận giả đò” ấy: xé thư ném xuống đất! Giết phăng Trần Danh Bính! Bắt giam hết cả sứ giả Tây Sơn230!
Nghị lại truyền hịch đi khắp nước ta: trút tội vào cả trên vai vua Quang Trung, đe dọa đánh rốc đến tận Quảng Nam231, quyết bắt cho được “Nguyễn Huệ” mới cam lòng232.
Thế rồi quân Thanh, với vẻ “con trời” hách dịch, ùa ạt qua sông Phú Lương233, kéo vào Thăng Long, sau khi bọn Ngô Văn Sở rút quân về núi Tam Điệp.
Nào ngờ giữa lúc Sĩ Nghị say rượu nồng, đắm sắc đẹp ở Thăng Long, chính là lúc vua Quang Trung đang lanh lẹ, hăng hái kéo quân ra Bắc.
Kịp khi tiếp được thủ chiếu vua Thanh bảo Sĩ Nghị phải lấy hết đất cũ cho vua Lê rồi hãy rút quân, bấy giờ Nghị mới tính đến mưu chước tiến hành. Nhưng, muộn lắm rồi, quân Tây Sơn đang rần rộ sắp kéo đến nơi rồi! Thế mà Nghị vẫn hớn hở tự đắc mà bảo Chiêu Thống khi nhà vua cuống quít lo sợ vì hay tin quân Đàng Trong đã đến Tam Điệp sơn: “Không cần đánh vội, ta cứ lấy thế nhàn rảnh mà đợi quân nhọc mệt!”234. Nhưng, rồi ít bữa nữa chắc Nghị sẽ phải nói khác lại: “Không sao đánh nổi, ta cứ ung dung mà đợi cái chết!”
PHƯƠNG LƯỢC HÀNH BINH
Quang Trung lập tức cắt cử tướng tá, giao phó mọi việc:
Làm tiên phong, Đại tư mã Sở và Nội hầu Lân: cai quản Tiền quân.
Hô Hổ hầu235 chỉ huy hậu quân, đóng vai đốc chiến.
Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết cầm đầu Tả quân kiêm coi quân thủy, vượt biển vào sông Lục Đầu: Tuyết ở lại Hải Dương giữ việc kinh lược, làm quân ứng tiếp mặt Đông. Lộc đi gấp lên vùng Lạng Sơn, Phượng Nhơn236, Yên Thế237 để chặn lối quân Thanh chạy về.
Đại đô đốc Bảo vào Đô đốc Long238 làm tướng Hữu quân, coi quản đội voi ngựa: Long xuyên ra huyện Chương Đức (Hà Đông), rồi rảo đến làng Nhân Mục (Thanh Trì, Hà Đông) để đánh chặn ngang đồn quân Điền Châu239 của người Thanh; Bảo thúc đội quân có voi từ huyện Sơn Minh (Ứng Hòa, Hà Đông) đổ ra làng Đại Áng (Thanh Trì, Hà Đông) làm ứng binh cho cánh quân Hữu.
Sắp đặt đâu đó, tướng sĩ năm doanh (Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu) đều vâng theo tướng lệnh Quang Trung Hoàng đế.
Ngày 30 tết, cái ngày quân Thanh ở Thăng Long đang phưỡn phệ chuốc chén đón xuân bằng dầu mỡ dân Đại Việt, thì quân Tây Sơn, nhanh như chớp, đã qua sông Giản Thủy (thuộc Ninh Bình) rồi.
Trước đó, khi Đề đốc Hứa Thế Hanh, vâng lệnh Tôn Sĩ Nghị, đem bốn cánh quân đi trước, chia đóng Hà Nội, Ngọc Hồi để phòng thủ, thì quân Đàng Trong ầm ầm đổ đến Sơn Nam.
Hoàng Phùng Nghĩa, cựu tướng nhà Lê, do Tôn Sĩ Nghị sai đóng giữ ở Sơn Nam (nay là Nam Định), chưa kịp giao phong, đã vội tan vỡ ngay trước: chạy bạt đến sông Nguyệt Quyết (Thanh Liêm, Hà Nam). Sợ bóng, khiếp oai, bọn quân xích hầu (do thám) của Thanh cũng vội toán loạn chạy, khi thấy quân Tây Sơn kéo đến với lượng đông đảo và vẻ hùng cường!
Để cắt đứt tin thông báo về Thăng Long, vua Quang Trung thúc quân đuổi đến Phú Xuyên (Hà Đông), bắt sống hết bọn quân do thám của Thanh đó.
Quân xích hầu không còn lại một mống! Tin quân kín mít như bưng! Thành thử giặc Thanh đóng ở Hà Hồi240 và Ngọc Hồi241 vẫn rượu xuân say khướt, bánh chưng ních no nê, mơ màng trong ngàn lớp mây mù, chẳng biết gì về cảnh núi Thúy non Côi đã chìm trong khói lửa!
Cũng như Nã-phá-luân đệ nhất, Quang Trung hành binh cốt ở nhanh chóng. Mà cái cớ đánh thắng phe địch, cũng là do đó một phần. Vụt đến như bay, làm cho quân Thanh không kịp xoay xở, nên các đồn trại của họ dẫu phòng giữ cẩn mật đến mấy đi nữa, cũng không thể chọi nổi với đám quân “từ trời bay xuống” ấy được.
TRẬN ĐÁNH HÀ Hồi VÀ NGỌC HỒI
Thăng Long năm nay (1789) mất Tết! Nhân dân chỉ dốc những chén “khủng bố kinh hoàng” thay cho bánh chưng, dưa hành, thịt mỡ.
Nay đã sang ngày mồng 3 tết. Ông Đinh Đề lĩnh vừa mừng vừa sửng sốt khi thấy ông Cống Nguyễn Thiệp đem từ Nghệ An ra biếu chiếc bánh chưng.
Chắc hẳn là chiếc bánh chưng phi thường?
Quả thế, sau khi thấy tên lính hầu đã bị chủ nhân xua ra bằng cái bàn tay “cơ cảnh”, Nguyễn Thiệp mới chỉ vào chiếc bánh chưng, thuyết ông Đinh một chập, rồi quay ngay tới cái mục đích mình đến: “Trong nhân chiếc bánh này có tờ mật dụ của vua Quang Trung. Ngài muốn nhờ ông ghé vào một vai trong cuộc đánh phá giặc Thanh đương hòng quận huyện nước ta đó. Xin ông cứ theo kế, làm đúng như lời Ngài dụ, quyết sẽ góp được công lao vào cuộc chiến thắng.”
Ông Đinh, vốn có cặp mắt trông sáng thời cục, lại hiểu rõ nghĩa cả quốc gia, nên trước đó, vẫn phản đối việc cầu ngoại viện. Nay được mục kích những thảm họa do quân Thanh gieo rắc khắp dân gian, ông sao khỏi không đau đớn trước cảnh rước voi giày mả!
Thì dịp tốt đây! Ông Đinh quyết ra tay làm cho chính kiến mình được thực hiện. Nên chi, sau khi xem kỹ mật chỉ của vua Quang Trung, ông không ngần ngại quyết định: xin làm theo đúng như mưu kế của nhà vua242.
Đêm mồng 3 tết, cái đêm ấm áp, êm đềm, vui thú của tiết xuân non, cũng là cái đêm hãi hùng đau đớn của giặc Thanh đóng ở Hà Hồi!
Trong đám binh mã “mập mờ” giữa nửa đêm bữa đó, vang dậy tiếng loa kêu, nhiều giọng thay đổi ứng đáp: nghe như hàng vài vạn tiếng người…
Cái mưu “làm ít hóa nhiều” đó của vua Quang Trung khiến cho quân đồn Hà Hồi bên giặc Thanh càng thêm kinh khiếp trong vòng vây hãm.
Quân Thanh trong đồn liền kéo cờ hàng, sau một cơn khủng khiếp, tan hoang, không còn hơi sức đâu chiến đấu.
Thế là không đợi phải đánh, Quang Trung đã hạ được đồn Hà Hồi, lấy sạch quân nhu, khí giới của giặc.
Trận đầu thắng lợi!
Qua ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), tức ngày Giỗ trận sau này ở Đống Đa (Loa Sơn)243, đầu trống canh năm, trời xuân còn đang ngủ trong giấc say sưa mờ mịt, vua Quang Trung đã từ giờ Dần (khoảng bốn, năm giờ sáng) sai thu dồn quân lương vào một khu rồi lấy lửa đốt sạch. Nhà vua lại lấy khăn vàng cuốn buộc ở cổ để tỏ cho tướng sĩ biết rằng phải cố đánh, phải liều chết, chứ không khi nào chịu lùi.
Hai việc này (đốt lương và buộc cổ) cũng cùng một ý nghĩa như khi có giặc Mông Cổ, Đức Trần Hưng Đạo, ngồi trên mình voi, chỉ sông Hóa mà thề: “Không phá được giặc, quyết không qua sông này nữa!” Rồi vua Quang T