← Quay lại trang sách

Phần Thứ Tư: Nội Trị.

DẸP PHÁI PHẢN ĐỘNG

Đối với “bếp lửa” nhà Lê, sau khi đã vạc, vua Thanh Càn Long, cũng như vua Quang Trung, không muốn một tàn lửa nào có thể nhân hơi gió hay sức quạt mà bùng bốc lên nữa.

Khi cho bọn Nguyễn Đình Bái 38 người (đám theo vua Lê Chiêu Thống) cùng với 43 người trong gia quyến họ về nước, vua Thanh phải dặn Phúc Khang An nới với quốc vương (chỉ vua Quang Trung) biết trước rằng họ về đến nước Nam, thì quốc vương cứ quản thúc. Về phần họ, chắc họ phải yên phận, giữ phép không dám gây sự khuấy rối gì đâu. Nhưng nếu họ có mật đem thư tín Lê Duy Kỳ (Chiêu Thống) về nước để phiến hoặc lòng người, thì quốc vương cứ việc trừng trị, không cần phải e dè kiêng nể vì cớ bọn họ đã do “Thiên triều” cho về.

Nhưng, than vạc lại hồng kia không phải do bọn ở Tàu về, mà lại chính bởi Hoàng Ba Lê Duy Chi (em vua Chiêu Thống), người vẫn lẩn quất ở trong nước.

Duy Chi343 thấy cuộc Việt Thanh giao thiệp đã mười phần xong xuôi, không thể còn gửi hy vọng “cuốn bụi lại về” vào anh là Chiêu Thống nữa, bèn lén đến châu Bảo Lạc thuộc trấn Tuyên Quang, nương tựa viên thổ tù tên là Khoan Triều, rồi chiêu hiền, mãi mã, có chí khôi phục nhà Lê. Lúc ló ra, lúc im bặt, tung tích bất thường, Duy Chi khuấy rối một vùng biên thùy, Tây Sơn nhiều lần phái quân đi tiễu mà chưa dẹp yên được. Từ đó, Duy Chi lẩn quất ở trong rừng núi, người ta không biết đích xác ở đâu.

Khi hay tin Duy Chi lại vùng vẫy ở Bảo Lạc, tràn lan đến cả những vùng Mục Mã, Thái Nguyên, quan lưu thủ thành Thăng Long liền cắt Phan Văn Chuẩn đem binh đi dẹp.344

Sau lại dựa vào lực lượng bọn thổ tù Nùng Phúc Tấn và Hoàng Văn Đồng, Duy Chí chiếm giữ Tuyên Quang, Cao Bằng làm chỗ đứng chân, rồi liên kết với các xứ Vạn Tượng, Trấn Ninh, Trịnh Cao và Quy Hợp, mưu đánh phá trấn Nghệ An trước.

Sức phản động ấy không phải không to! Song kết cục, dưới thế lực toàn thịnh của Tây Sơn bấy giờ, “chim chích” vẫn không sao địch nổi “bồ nông” được.

Năm Canh Tuất (1790), vua Quang Trung sai Đại Tổng quản Trần345 Quang Diệu và Đô đốc Nguyễn Văn Uyển đem 5.000 tinh binh do đường phía trên trấn Nghệ An đi đánh dẹp, bắt ngay được hai cừ khôi xứ Trấn Ninh là Thiệu Kiểu, Thiệu Đế (tháng sáu năm Canh Tuất), diệt được hai xứ Trịnh Cao, Qui Hợp (tháng tám, năm ấy): đánh được xứ Vạn Tượng khiến cho Quốc trưởng xứ ấy phải bỏ thành chạy dài, phó mặc voi, ngựa chiêng, trống cho quân Tây Sơn chiếm lấy. Luôn dịp quân Tây Sơn đuổi riết đến xứ Tiêm La (nay là Thái Lan) chém được chủ súy xứ Vạn Tượng là Tả Phan Dung và Hữu Phan Siêu (tháng mười năm ấy).

Đánh tan đám ngoại ứng rồi, Nghệ An Đốc trấn Trần Quang Diệu, phất cờ “đại thắng” quay về Bảo Lạc.

Địa thế Bảo Lạc hiểm, ba mặt đều là núi đá bích lập, chỉ hở một mặt phía bắc có thể thông sang nước Tàu.

Bấy giờ nhờ có quận Diễn, phiên thần của nhà Lê cũ, coi giữ cửa ải Tụ Long, làm hướng đạo cho Tây Sơn, đưa đường đi đánh hoàng Ba Lê Duy Chi ở Bảo Lạc346.

Các tướng Tây Sơn, với một số binh tinh nhuệ, do cửa ải Tụ Long sang qua đất Tàu, đi ba ngày, sấn vào thành Bảo Lạc, bắt sống Hoàng Ba với Phúc Tấn và Văn Đồng, điệu về Tụ Long rồi sai đóng cũi đưa về Thăng Long và dâng thư vào Phú Xuân báo tiệp.

Vua Quang Trung vì nể có Ngọc Hân Công chúa, nên nói thác lên rằng cứ giam hoàng Ba đấy, không được giết. Nhưng kỳ thực ngầm bảo chở đi trầm hà347 (1790).

Để khoe với Mãn Thanh cái võ công hiển hách ấy, vua Quang Trung sai bầy tôi Vũ Vĩnh Thành và Trần Ngọc Thị sang Tàu báo tin thắng trận.

ĐỐI PHÓ VỚI ĐÁM THÂN SĨ Cố Lê

Nhân tâm Bắc Hà, nhất là trong đám thân sĩ bấy giờ, còn in sâu trong óc, nhuần thấm trong mạch máu những ân đức và công nghiệp của vua Lê Thái Tổ (1428-1433), nên dẫu thấy Chiêu Thống ươn hèn bất lực đến đâu, họ cũng hết sức vùa giúp cho cái triều đại mà họ xưa nay vẫn quyến luyến quý mến ấy.

Lòng ái đới đó, sĩ phu Bắc Hà đã từng tỏ rõ trong bao cơn giông tố xông đến lay chuyển “cây” Lê. Hồi Mạc Đăng Dung (1527-1529) tiếm ngôi, đã gợi lòng công phẫn cho bao người, khiến họ được dịp tỏ dạ trung nghĩa với nhà Lê bằng những cái chết rất can đảm, rất tiết liệt, rất cảm động. Nhân sĩ khí và nhân tâm ấy, họ Trịnh mới dễ diệt Mạc dưới cái danh nghĩa phù Lê. Sau khi khôi phục Thăng Long (Lê Thế Tông, năm Quang Hưng thứ 16, 1593), nhà Trịnh nắm hết quyền chính, chỉ để cho nhà Lê cái ngai hờ và chút danh suông, nhưng vẫn không dám ngang nhiên lột lấy chiếc hoàng bào và cái mũ miện kia, cũng chỉ vì kiêng nể cái sĩ khí đó, nên không muốn đi theo vết xe đổ của nhà Mạc xưa.

Đến Bắc Bình vương ra Bắc lần thứ nhất, cũng vì vin vào đại nghĩa phù Lê, nên mới thành công dễ dàng trong việc diệt Trịnh.

Nay vua Quang Trung tuy có công đánh đuổi Tôn Sĩ Nghị, quét sạch 20 vạn quân Thanh, nhưng đám thân sĩ Bắc Hà bấy giờ – phần đông chỉ biết trung với cá thể một ông vua, một triều đại, chưa có cái nhận thức rõ rệt về quan niệm quốc gia, – không khỏi nảy ra những việc phản động một khi thấy vua Quang Trung do cái đà chiến thắng Đại Thanh bước lên địa vị làm chủ nhân ông suốt cả Bắc Hà, theo ý nghĩ của họ, là địa bàn thuộc quyền sở hữu riêng của nhà Lê. Vì thế, từ “khối” thân sĩ đương thời, mới âm ỉ nhen lên những “than lửa” rối ren trong lúc thay triều đổi họ.

1) Việc Trần Quang Châu: Năm Quang Trung thứ nhất (1788), Trần Quang Châu, người huyện Gia Bình (Bắc Ninh), đứng lên xướng suốt hương binh, chống với quân Tây Sơn ở sông Thiên Đức348.

Năm Mậu Thân (1788), quân Thanh kéo sang nước ta, vua Lê Chiêu Thống cho Châu đem quân đi hộ giá, làm tiên phong đại Tướng quân, hướng dẫn quân Thanh trong khi họ mượn danh nghĩa cứu Lê để thực hành ý muốn thôn tính Đại Việt. Nhưng qua năm Kỷ Dậu (1789), quân Thanh thua, vua Lê chạy, Châu quay về vùng các huyện, âm mưu cùng với bọn Trần Danh Án, Dương Đình Tuấn và Lê Trọng Vĩ, chống lại tân triều bằng những cuộc võ trang bạo động. Rồi trong vòng 3, 4 năm, Tư khấu Vũ Văn Dũng nhà Tây Sơn thường phải cầm quân đi đánh dẹp: kết cục anh và cháu của Châu đều tử trận cả. Qua năm Nhâm Tý (1792), Tây Sơn mới bắt được Châu rồi giết chết vì Châu không chịu khuất phục.

2) Việc Dương Đình Tuấn. Người huyện Yên Thế (Bắc Giang), Tuấn đem hai con, một cháu và người nhà kháng chiến với Tây Sơn để bảo vệ cho vua Chiêu Thống, khi vua này chạy đến huyện Nhân Mục (1788). Đem cái thế lực như đá Thái Sơn, Tây Sơn không khó gì trong việc đối chọi với trứng: Tuấn bị thương, con cháu và gia thuộc bảy người của Tuấn đều chết trận. Năm Mậu Thân (1788), Tuấn cắt nhiều dân phu hàng huyện lên đón quân Thanh tận cửa Nam quan để… đem về làm mồi cho gươm súng của quân Tây Sơn hùng kiệu.

Năm Kỷ Dậu (1789) Tuấn lại hoạt động sau khi tiễn đưa vua Chiêu Thống đến cửa ải Nam quan. Nhưng cái đóm lửa hầu tàn ấy không sao đương nổi trước cơn gió lộng của tân triều: Tây Sơn đã đuổi quân Tuấn đến tận huyện hạt Yên Thế, lại bổ luôn ba đồn đóng chẹn, đốt cả nhà và làng Tuấn: rồi dồn Tuấn vào rừng. Chẳng bao lâu, Tuấn phải ôm bầu tâm sự mà chết.

3) Việc Nguyễn Phủ. Nguyễn Phủ người Gia Lâm (Bắc Ninh), từ năm Đinh Mùi (1787) tụ họp thủ hạ, kháng chiến với Tây Sơn ở xã Tiến Lâm, nhưng bị Tây Sơn đánh tan và giết hết.

4) Việc anh em cha con Phạm Đình Đạt. Có thể nói nhà Phạm Đình Đạt ở Vũ Giàng (Bắc Ninh) là một nhà bài Tây Sơn. Em hai của Đạt là Tạo sĩ Phạm Đình Phan, em ba là Tiến sĩ Phạm Đình Dữ và con trưởng là Phạm Duật đều vào trong núi Huyền Đinh (ngàn Treo Đanh) mưu việc khôi phục nhà Lê, lật đổ Tây Sơn. Năm Kỷ Dậu (1789), sau khi vua Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu, Phan còn họp tập dân binh, hoạt động ở miền Lạng Giang. Nhưng rồi những cuộc thất bại đã đem đến cho Phan biết bao phẫn uất đến nỗi Phan phải uống thuốc độc mà chết. Còn Phạm Đình Chẩn, em tư của Đạt, đem hơn 500 hương binh, cũng nổi lên chống với Tây Sơn, nhưng chỉ chác lấy cuộc tàn phá cho nhà và cho làng. Hai con của Đạt là Đình Cù, Đình Ninh cũng đều bị bắt và bị giết trong một ngày vì đã tham dự vào cuộc khởi binh chống lại triều mới.

Dùng nhân tài

Nguyễn Huệ, với cặp mắt sáng khác đời, chẳng những thấy rõ được mọi vật trong đêm tối, mà rất sáng suốt trong việc liên tài hay dùng người. Trừ ra khi nào có ai cương cường không chịu hàng phục, Huệ xét để người ấy lại chắc sẽ có hại cho mình về sau thì thế tất phải tính. Một ví dụ:

Năm Giáp Ngọ (1774), Tham tán Nguyễn Đăng Trường bên Nguyễn theo chúa Duệ Tông không kịp, dắt mẹ vào lánh ở thành Quy Nhơn.

Bắt được Đăng Trường, Nguyễn Huệ vì liên tài, lấy lễ tân sư (vừa là bạn, vừa là thầy) mà đối đãi, song Đăng Trường không chịu, từ tạ xin đi.

Huệ nói: “Tiên sinh đi chuyến này, phỏng xoay lại trời đất được không? Sau có ăn năn, e muộn quách rồi!”

Đăng Trường nói: “Tài trai ở đời lấy trung hiếu làm đầu. Tôi nay dắt mẹ tìm vua, đối với đại nghĩa là quang minh lắm. Còn cùng hay thông, được hay hỏng là số mệnh cả, chứ có ăn năn nỗi gì!”

Huệ khen là hăng hái, rồi để cho đi.

Đến năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Huệ lại bắt được Đăng Trường. Huệ nói: “Lần này tiên sinh tính sao?” Đăng Trương đáp: “Bây giờ chỉ có chết thôi, can chi phải hỏi nữa!” sau dụ hàng không được. Huệ bất đắc dĩ phải sai giết đi. (Quốc triều sử toát yếu, tiền biên, quyển 1 tờ 36b-37a)

Khi ra Bắc, vua Quang Trung để ý ngay đến việc thu dùng nhân tài, nên những nhân vật xuất sắc như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đều “vì người yêu mà hết sức làm đỏm”. Đáp ơn tri ngộ, mấy ông này đã đem văn chương tô điểm cho non sông tổ quốc, chiến thắng Mãn Thanh về mặt ngoại giao.

Nhà vua lại rất cưng chiều và tin dùng Vũ Huy Tấn349 thị trung đãi chiếu. Tỏ ý thân yêu, ngài thường vuốt ve bộ râu dài đẹp của Tấn. Nhiều khi ra đi, vua Quang Trung đường bệ ngự voi đi trước, Huy Tấn nho nhã cưỡi voi đi sau. Dấu hiệu đó tỏ ra Huy Tấn là tay văn mặc trọng yếu ở đương thời, không thể thiếu ở tả hữu Hoàng đế.

Để ghi ơn tao tế ấy, Vũ Huy Tấn có mấy câu Kỷ sự rằng:

文章屡奉綸音獎

眉鬓親承御手叉

更有一班堪畫處

輦途聯象接光華

Văn chương lũ phụng luân âm tưởng.

Mi mấn thân thừa ngự thủ thoa.

Cảnh hữu nhất ban kham họa xứ.

Liễn đồ liên tượng tiếp quang hoa.

(Trích trong Hoa trình tùy bộ thi tập)

Dịch:

Văn hay, lời thánh thường khen ngợi.

Râu tốt, tay vua vẫn vuốt ve.

Lại có chuyện này nên tả vẽ:

Liền voi, rạng vẻ lúc đi, về.

Vì nhà vua chinh phục được trái tim của Tấn, nên Tấn đã phơi gan, giãi ruột, đem tấm thân hăng hái dâng cả lên bàn thờ quốc gia. Chính Tấn bảy lần gõ cửa Nam quan (vi thần thất độ khấu Nam quan), vận động giảng hòa với Trung Quốc.

Đối với những phái chịu ra, vua Quang Trung không câu nệ họ là người cũ hay mới, có khoa danh hay không, thảy đều dung nạp và thu dụng, miễn họ có chân tài và thực tâm ghé vai gánh vác việc nước.

Nhưng, đối với những phái thích ẩn độn, ngài chẳng những không ép buộc bức bách, mà lại không đoạt chí của họ nữa.

Chứng cớ đó thấy rõ trong việc ngài xử với Trương Quán350 và Nguyễn Thiệp351:

Trương Quán là con cháu công thần nhà Lê. Tây Sơn muốn thu dùng, song Quán không chịu; thế mà các nhà cầm quyền bấy giờ cũng để cho Quán được tự do vui thú giang hồ, bạn cùng cỏ, hoa, mây, khói, suốt đời ôm chủ nghĩa độc thân.

Như trước đã nói, Nguyễn Thiệp nhiều lần từ sính, không chịu ra làm quan, vậy mà vua Quang Trung vẫn nhìn Thiệp bằng con mắt biệt đãi, không hề tức giận mỗi khi mời mãi không ra, cho gì không lấy. Song, trước thanh phong cao tiết của nhà danh sĩ ấy nhà vua vẫn một niềm tôn kính như thầy.

Coi mấy việc trên, đủ thấy vua Quang Trung có tài biết rõ người và có độ lượng dung được người. Chính nhờ cái tài ấy, cái độ lượng ấy, các bộ máy quân sự, ngoại giao và chính trị, mới chạy rất hợp lý, rất nhanh chóng và kết quả rất sai trĩu tốt tươi.

Vả, ơn tri ngộ của ngài thấm sâu vào xương tủy nhiều thân thần, nên về sau, khi băng, ngài để lại biết bao niềm thương nỗi tiếc cho người đương thời. Chẳng thế, Phan Huy Ích đã viết mấy câu cảm hoài khi gặp Quốc tang352 (thu Nhâm Tý, 1792):

遭際機緣難再得

從今羈旅雁臣孤

Tao tế cơ duyên nan tái đắc!

Tòng kim ký lữ nhạn thần cô!

Dịch:

Duyên may gặp gỡ còn đâu nữa!

Nhờ đậu từ đây, chiếc nhạn côi!

Chính trị

Sau khi từ Phú Xuân (Huế) bước lên cái ngai hoàng đế, vua Quang Trung phải cưỡi ngay voi, huơ ngay kiếm, đánh đuổi giặc Thanh để giữ lấy chủ quyền và lĩnh thổ. Kế đó, mặt Bắc, phải giao thiệp với Tàu, mặt Nam, phải đối phó với chúa Nguyễn, nên trong năm năm trị vì (1788-1792), ngài chưa được mấy lúc rảnh tay lo việc nội trị…

Vả, triều Tây Sơn cầm quyền không được lâu, nên dấu tích chính trị của triều đại ấy, dầu ai thấy xa, nghe rộng đến đâu cũng không thể nhặt lượm tài liệu nào khác ngoài mấy quyển chính sử, ngoại truyện, dã sử của ta và ít trang ký tái của mấy nhà truyền giáo ngoại quốc hồi đó.

Dầu sao mặc lòng, căn cứ vào các mảnh vụn lịch sử, chúng ta ngày nay sinh sau hàng trăm rưởi năm, cũng có thể nhận thấy trong vua Quang Trung có lắm cái sáng kiến và đặc sắc về chính trị cũng như về quân sự.

Khi đã chiến thắng Mãn Thanh về võ lực và ngoại giao, vua Quang Trung một mặt lo đàn áp các phần tử phản động ở trong, một mặt dự bị khôi phục lấy đất Lưỡng Quảng, lẽ tất nhiên ngài phải đặt việc võ bị lên trên hết mọi vấn đề khác.

Một cái ấn tín của nhà binh đời Tây Sơn,

trong có mười chữ này:

率忠良二衛三校中郎將

Suất Trung lương nhị vệ, tam hiệu Trung lang tướng.

Về quân hiệu, ngoài tên ngũ quân Trung, Tiền, Hậu, Tả, Hữu như đã thấy tổ chức trong khi đánh giặc Thanh ra, lại có những quân đặt tên là Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Càn thanh, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sách, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị lân, Thị loan nữa.

Ở hàng huyện về ngạch võ, có viên Võ phân suất cầm đầu, Binh chế thì có từng Đạo, từng Cơ và từng Đội: lấy Đạo thống Cơ, lấy Cơ thống Đội.

Vì bấy giờ đang mưu đồ công cuộc đánh Tàu, nên trong nước phải dùng đến chính sách cưỡng bách tòng quân: từ 12, 13 đến 60 tuổi, đều phải ra lính hết353.

Một nhà truyền giáo lúc bấy giờ có chép rằng người Nam bấy giờ theo anh em Tây Sơn đi trận, trở nên gan dạ, hùng kiện, một người đương nổi mười người, đánh đâu thắng đấy354.

Năm Quang Trung Nguyên niên (1788), Ngô Thì Nhậm có dâng sớ bằng chữ nho, điều trần về việc nội trị, đại ý nói:

Xưa kia nhà Chu đã thắng nhà Ân, phân phong các anh em gây lấy cái thế như rết trăm chân, giúp đỡ lẫn nhau nên chư hầu không dám đoạt, nhà Chu hưởng nước được 800 năm. Nhà Hán, khi mới đại định, phong ngay đồng lính, gây thành cái hình như hai hàm răng cùng cắn chặt lấy nhau, nên thiên hạ họ phục là mạnh, nhà Hán trị vì lâu đến 400 năm. Nay Bệ hạ (chỉ vua Quang Trung) nếu biết làm theo như thế thì có thể sánh với Chu Hán đấy.

Vua Quang Trung nghe theo, bèn chia phong các con giữ các địa bàn:

Con cả, Quang Toản làm Thái tử.

Con thứ, Quang Thùy làm Khang công, lĩnh Bắc thành, Tiết chế Thủy bộ Chư quân.

Con thứ ba, Quang Bàn làm Tuyên công, lĩnh Thanh Hoa đốc trấn, Tổng lý quân dân sự.

Nhà vua lại sai các huân thần và danh tướng hiệp sức giúp việc cho các hoàng tử đã lĩnh những trọng trấn ấy.

Bộ máy hành chính gồm có những cơ quan này.

Tam công, Tam thiếu, Đại Chủng tể, Đại tư đồ, Đại Tư khấu, Đại tư mã, Đại Tư không, Đại Tư cối, Đại Tư lệ, Thái úy, Ngự úy, Đại Tổng quản, Đại Đổng lý, Đại Đô hộ, Đại đô đốc, Đô đốc, Nội hầu, Hộ giá, Điểm kiểm, Chỉ huy sứ, Đô tư, Đô úy, Trung úy, Vệ úy, Quán quân, Tham đốc, Tham lĩnh, Trung thư sảnh, Trung thư lệnh, Phụng chính, Thị trung Đại học sĩ, Hiệp biện Đại học sĩ, Thị trung Ngự sử, Lục bộ Thượng thư, Tả hữu Đồng nghị, Tả hữu Phùng nghị, Thị lang, Tư vụ, Hàn lâm…

Mỗi trấn đặt một trấn thủ về hàng võ và một hiệp trấn về hàng văn. Mỗi huyện đặt một văn phân tri, một võ phân suất, một tả quản lý và một hữu quản lý. Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng. Phận sự của quan võ là coi quản và thao diễn quân lính từ Đạo đến Cơ, từ Cơ đến Đội.

Trong các xã, các thôn thì có xã trưởng, thôn trưởng.

VIỆC XÃ HỘI

Muốn cho tiện sự giao thông ở một địa điểm thích trung (kể theo địa thế nước ta bấy giờ), vua Quang Trung đặt thêm một số đô thành ở trấn Nghệ An, gọi là Trung Đô (sẽ nói kỹ ở phần kiến trúc). Và muốn cho mới mẻ tai mắt thiên hạ, ngài đổi tên Thăng Long làm Bắc thành.

Từ đời Lê, Bắc Hà chia làm 11 xứ (hoặc trấn):

1 – Xứ Nam (Sơn Nam)

2 – Xứ Đông (Hải Dương)

3 – Xứ Bắc (Kinh Bắc)

4 – Xứ Đoài (Sơn Tây)

5 – Xứ Yên Quảng (nay là tỉnh Hải Ninh)

6 – Xứ Lạng (Lạng Sơn)355

7 – Xứ Thái (Thái Nguyên)

8 – Xứ Tuyên (Tuyên Quang)

9 – Xứ Hưng (Hưng Hóa)

10 – Xứ Thanh (Thanh Hoa)

11 – Xứ Nghệ (Nghệ An)

Đến triều Quang Trung, ngoài chín xứ để yên như cũ, có chia lại hai xứ Sơn Nam và Thanh Hoa (1788)356.

Xứ Sơn Nam chia làm hai trấn: phía trên xứ ấy gọi là Nam thượng hoặc Thượng trấn; phía dưới giáp biển gọi là Nam hạ hoặc Hạ trấn. Trước kia, phố Hiến là lỵ sở của Sơn Nam, đến bây giờ lỵ sở Hạ trấn đóng ở Vị Hoàng bên sông Nhị, cách dưới phố Hiến vài dặm; còn lỵ sở Thượng trấn thì đóng ở Châu Cầu (nay thuộc Hà Nam), cách phía dưới kinh đô độ hai mươi dặm, ở ngay bên đường cái quan ăn thông từ Bắc vào Nam Hà357.

Xứ Thanh Hoa cũng chia làm hai: Về mặt Bắc gọi là Thanh Hoa ngoại; về mặt Nam gọi là Thanh

Hoa nội358.

Mỗi xứ chia làm nhiều phủ, mỗi phủ chia làm nhiều huyện, mỗi huyện chia làm nhiều tổng và mỗi tổng chia làm nhiều xã. Tựu trung có nhiều xã lại chia ra từng thôn359.

Còn kinh đô mà xưa ta gọi là Kẻ Chợ thì gồm có một phủ, hai huyện, mười tám phường360.

KIẾN TRÚC

Từ khi còn làm Đại nguyên súy Tổng quốc chính Bình vương, Nguyễn Huệ đã để tâm đến việc lập tại Nghệ An một kinh đô mới. Vì ngài cho rằng, đối với địa thế nước ta hồi ấy, Nghệ An ở vào khoảng giữa đất nước, đạo lộ thích quân và là chỗ đất rau rốn của tổ tiên ngày trước.

Từ trước, ngài đã truyền bảo La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp về Nghệ chọn đất dựng kinh đô cho kịp kỳ ngài về ngự. Nhưng La Sơn phu tử chưa làm xong, nên ngài giá hồi Phú Xuân tạm cho sĩ tốt nghỉ sức.

Đến ngày mồng 1 tháng sáu năm Mậu Thân (1788) trước khi lên ngôi Hoàng đế, ngài lại sai thảo chiếu giục Nguyễn Thiệp làm việc ấy. Ý ngài muốn cắm đất làm tân đô ấy ở vào khoảng chỗ dân cư, phía sau Phù thạch hành cung, nhưng gần về mạn núi. Nếu không thế thì cho Nguyễn Thiệp được tùy tiện mà chọn định, miễn là nội ba tháng phải làm xong361.

Sau khi nhận được tờ chiếu ấy, Nguyễn Thiệp thì xem đất, trấn thủ Thận thì đứng đốc suất quân lính các đạo đánh đá ong, thợ thuyền các hiệp xây cất doanh tác, rồi chẳng bao lâu, dưới chân núi Kỳ Lân ở Nghệ An, đồ sộ nổi lên một khu nội thành, trong có long lâu ba từng, điện Thái Hòa hai hành lang để phòng có lễ triều hạ. Thật xứng đáng với cái tên mới mẻ đẹp đẽ là Phượng Hoàng Trung Đô hoặc Trung kinh Phượng Hoàng thành.

Về việc đổi đóng đô ở Nghệ An này, vua Quang Trung có sai Ngô Thì Nhậm viết một bức thư ngoại giao gửi cho Lưỡng Quảng Tổng đốc Phúc Khang An bày tỏ duyên cớ. Đại ý nói: Nước ta từ Lý, Trần về sau đều đóng đô ở Thăng Long cả. Gần đây vượng khí ở đấy đã tan hết rồi. Bấy giờ bờ cõi nước ta, về phía nam, mở rộng hơn trước. Sự đóng kinh đô chỉ có Nghệ An là chỗ đất vừa vặn ở giữa, nên đã chọn nơi núi Phượng Hoàng ở Nghệ đặt làm Trung đô rồi. Từ nay phàm các công văn đi lại, đường xá xa hơn Thăng Long gấp bội, vậy mong bên Tàu lượng thứ cho cái lỗi chậm trễ362.

THUẾ KHÓA, NÔNG CHÍNH

Hồi còn nhà Lê, nhân dân phải đóng một thứ thuế xâu dịch gọi là “điều tiền”. Vì nhà Lê phỏng theo cái phép cố định thời xưa, có đánh thứ thuế ấy. Rồi hễ có những việc xâu dịch công tác thì lấy tiền công ra thuê mộ người làm.

Đến triều Quang Trung, nhà vua thấy quốc gia mới khai sáng, muốn rút bớt xâu thuế để nới nhẹ cho dân, bèn bãi bỏ cái phép đánh thuế “điền tiền363” đó.

Từ năm Mậu Thân (1788), trong nước gặp lúc loạn ly, lại bị quân Thanh kéo sang chà xát giày đạp, gia dĩ luôn năm mất mùa, nhân dân phần vì cơ cận, phần vì dịch lệ, chết đến 7, 8 phần 10.

Trước tình hình ấy, nhà vua phải làm một việc quyền nghị: đánh thuế vào các tư điền để lấy gạo lúa.

Bấy giờ đinh thiểu, điền đa, ai còn sống lại thường phải đóng nặng thuế điền, vì thế nhiều nhà giàu đến phải bỏ ruộng không nhận.

Xem trong bài chiếu “Khuyến nông” như có chép trong tập Hàn các anh hoa của Ngô Thì Nhậm, đủ thấy vua Quang Trung bấy giờ chú trọng vào hai việc:

1. Khuyến khích canh nông.

2. Chăm lo cho nhân dân sinh tụ đông đảo.

Từ khi binh lửa luôn năm, lại thêm vào đấy những nỗi cơ cận, nhân dân siêu dạt, đồng ruộng bỏ hoang, nên thực số đinh điền bấy giờ không bằng 4, 5 phần mười thuở trước.

Ngài bèn ra lệnh:

Phàm những dân nào trước đó kiều ngụ tha phương, trốn tránh lao dịch hoặc vì có thê hương mẫu quán mà đến ở, hoặc vì đi buôn bán làm ăn mà ngụ cư, hễ đã vào làng ở sở tại được từ ba đời trở lên thì mới cho ở, còn ngoài ra bắt về bản quán hết thảy, chứ biệt xã không được chứa chấp. Những ruộng công, ruộng tư đã trót bỏ hoang, nay đều cho về nhận lấy cày cấy, chứ không được bỏ bê trễ, để đến nỗi số ruộng thực khẩn phải chịu khống thuế mãi.

Các sắc mục, các xã trưởng và các thôn trưởng sở tại phải xét số đinh thực tại có bao nhiêu suất, số dân siêu dạt mới về được bao nhiêu suất, rồi xem số thực điền đã thực khẩn được bao nhiêu mẫu, còn số hoang điền mới khai khẩn được bao nhiêu mẫu, đều phải đăng vào sổ bộ, nộp lên các viên phân suất, phân tri ở huyện mình để họ chuyển đệ lên triều đình, triều đình sẽ phái quan khâm sai đi khám lại cho đúng sự thực, bấy giờ mới sẽ liệu định việc bổ thuế cho

công bằng.

Nếu xã nào cứ chứa những người ngụ cư mà không bắt họ phải quay về nguyên quán, nếu những người trốn tránh ấy cứ lần lữa không chịu về, và nếu ai biết chuyện mà cáo tỏ ra thì những sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng sở tại và những kẻ trốn tránh ấy đều phải trị tội cả.

Xã nào ruộng hoang đã đến hạn mà vẫn chưa nhận lấy khai khẩn thì cứ do viên sắc và bộ hạng xã ấy phải chịu trách nhiệm về việc đóng thuế ruộng công chiếu theo ngạch thuế điền cũ mà nộp gấp bội.

Ruộng tư một khi đã sáp nhập làm ruộng công thì thuế đóng cũng như ngạch thuế công điền.

Sở dĩ ban ra cái mạng lệnh ấy, là vì nhà vua muốn hạng lưu dân quay về làng cũ, chăm việc canh nông, đừng lười biếng để hại đến cuộc mưu sinh, ngõ hầu nhà vua cùng trăm họ được hưởng cái vui đông đúc, giàu có, thịnh vượng.

Sau hồi chiến tranh, sổ điền không được minh bạch: hoặc ruộng bỏ hoang mà vẫn phải chịu thuế hoặc ruộng xấu mà vẫn phải đóng thuế vào hạng thượng đẳng điền; hoặc kẻ cường hào hay tụi Thanh kiều, nhân dịp hỗn quân hỗn quan trong lúc Tôn Sĩ Nghị tiến đóng Thăng Long, bá chiếm của hạng yếu bóng, lép vế. Thành thử, về việc hộ, hay có lắm chuyện rắc rối vì ruộng đất.

Để giải quyết vấn đề về địa chính rất phức tạp ấy, năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung hạ chiếu bảo trong nước làm lại sổ điền. Hai văn thần là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích đều tán thành việc này.

Ruộng tư cũng như ruộng công, chia làm ba hạng, hạng nào có thuế riêng hạng ấy:

Ruộng công:

Hạng nhất: mỗi mẫu nộp thuế 150 bát364 thóc.

Hạng nhì: mỗi mẫu nộp thuế 80 bát thóc.

Hạng ba: mỗi mẫu nộp thuế 50 bát thóc.

Cả ba hạng mỗi mẫu phải ra một tiền quý về thuế thập vật và 50 đồng kẽm về thuế khoán kho.

Ruộng tư:

Hạng nhất: mỗi mẫu nộp thóc thuế 40 bát.

Hạng nhì: mỗi mẫu nộp thóc thuế 30 bát.

Hạng ba: mỗi mẫu nộp thóc thuế 20 bát.

Cả ba hạng đều phải ra mỗi mẫu là 30 đồng kẽm tiền khoán kho. Còn tiền thập vật cũng như lệ ruộng công kể trên.

Ngoài thuế ruộng ra, triều Quang Trung theo lệ cũ cũng đánh những thứ thuế như dung tiền, cước mễ.

Vụ mùa tháng mười năm Quang Trung thứ 4 (1791), thóc lúa các nơi đều được phong đăng cả. Năm phần mười trong nước đã khôi phục được cái quang cảnh thái bình thuở xưa.

Sở dĩ xã hội bấy giờ chóng đi đến thịnh vượng là nhờ ở cách tổ chức lương thiện và ở chính sự hậu sinh (nhân hậu và hậu sinh). Hễ năm nào gặp nạn đại hạn hay hồng thủy thì lại ra ơn đại xá; hễ kẻ nào phạm tội nhẹ hoặc phụ khiếm mà trốn đi thì đều được bỏ qua, không xét hỏi nữa365.

VIỆC HỌC VIỆC THI

Theo như lời trong “Lập học chiếu”366 thì sau khi đại định, vua Quang Trung cũng rất tỏ ý sùng đạo Nho, lưu tâm yêu kẻ sĩ, mong được những tay có thực tài ra giúp việc quốc gia.

Tại các dân xã đều cho lập nhà xã học: chọn trong đám nho sĩ hàng xã lấy người có học, có hạnh, đặt làm xã giảng dụ để dạy những học trò trong hàng xã mình.

Các đền từ ở các phủ vẫn để cho dân bản hạt nhận giữ, nhưng dùng chung làm trường học hàng phủ, triều đình sẽ bổ một viên phủ huấn đạo đến dạy học tại đó.

Gặp khoa thi hương thì lựa lấy những hương tú tài; hạng ưu được thăng vào quốc học; hạng thứ, cho vào phủ học.

Đối với các ông cống triều Lê, phàm những người tại quán chưa nhậm chức gì, nhà vua cũng muốn dùng họ cả. Ngài có ban chiếu bảo họ đến cửa khuyết đình để lựa bổ sung những chức như huấn đạo, tri huyện. Còn các cựu nho sinh và các cựu sinh đồ đều phải đợi có khoa thi thì thi: hạng ưu được đỗ; hạng liệt phải bãi về xã học.

Đến hạng sinh đồ mua bằng ba quan367 ở triều Lê trước thì đều bị loại về hạng “dân” hết thảy; cũng phải chịu giao dịch như dân thường.

Chữ viết đời Quang Trung

(Tám chữ “văn học, chính thuật, Quang Trung ngũ niên” này là do tác giả tô theo trong đạo sắc của Phan Huy Ích do vua Quang Trung phong ngày 18 tháng tư nhuận, năm Quang Trung thứ 5, 1792).

Ngoài những việc dùng chữ nho, sùng đạo Nho, trọng kẻ sĩ ấy ra, vua Quang Trung còn có cặp mắt trông xa và kiến thức cao vút, đã biết sớm quý trọng tiếng mẹ đẻ, cho nó cũng có một địa vị ở đương thời để mong nhờ nó, tư tưởng dễ được truyền bá, giáo dục dễ được phổ thông. Chỉ một việc trọng chữ Nôm này, đời sau cũng đủ tưởng thấy cái óc sáng kiến của nhà chính trị thiên tài ấy.

Thấy Nguyễn Thiệp, danh sĩ Nghệ An, học rộng, đạo cao, đáng làm mực thước cho hậu học, nhà vua nhiều lần sai đem vàng lụa làm sính lễ, mời Thiệp ra giúp chính sự. Song, ngoài việc mang chiếc bánh chưng, góp chút công vào việc đánh Tôn Sĩ Nghị ra, Thiệp không chịu xuất chính, nên bao lần trả lại các sính nghi.

Dẫu vậy, không chịu bỏ phí nhân tài, vua Quang Trung có nhờ Nguyễn Thiệp dịch Kinh Truyện ra tiếng Nôm để tiện về truyền bá đạo lý Khổng, Mạnh giữa vòng dân chúng.

Vâng mạng vua Quang Trung, Thiệp đã làm được một ít sách, nhưng chưa xong trọn thì vua đã thăng hà! Rồi những dịch phẩm bằng Nôm ấy đều bị tịch thu, thiêu hủy, xóa nhòa theo dấu tích của triều đại Tây Sơn!

Cũng một ý muốn dùng Nôm làm lợi khi để mở trí dân ấy, ngay từ khi làm Đại Nguyên súy Tổng quốc chính Bình vương, ngài đã đem tiếng mẹ đẻ ứng dụng trong công văn như ở tờ chiếu gửi cho La Sơn Phu tử.

Chiếu truyền La Sơn phu tử Nguyễn Thiệp khâm tri:

Ngày trước ủy cho Phu tử về Nghệ An tướng địa làm đô cho kịp kỳ này hồi ngự. Sao về tới đó chưa thấy đặng việc nhỉ? Nên hãy giá hồi Phú Xuân kinh hữu tức sĩ tốt.

Vậy chiếu ban hạ phu tử tảo nghi dữ trấn thủ. Thận công sự kinh chi doanh chi tướng địa tu đô tại Phù Thạch hành cung sảo hậu cận sơn. Kỳ chính địa phỏng tại dân cư chi gian, hay là đấu cát địa khả đô duy phu tử đạo nhãn giám định, tảo tảo tốc thành. Ủy cho trấn thủ Thận tảo lập cung điện kỳ tam nguyệt nội hoàn thành, đắc tiện giá ngự. Duy Phu tử vật dĩ nhàn tốt thị Khâm tai! Đặc chiếu!

Thái Đức thập nhất niên (1788) lục nguyệt, sơ nhất nhật”368

Hiện nay người ta còn truyền tụng hai câu trong chiếu “cầu hiền” của triều Tây Sơn:

Hễ cha mô dù có chí giỏi giang,

Đù mẹ đứa chẳng suy tâm ủy dụng

Lại tục truyền một dật sự về ông nghè Mọc (?) ở triều Quang Trung:

Mới đỗ Tiến sĩ, ông Mọc và ông Đào (?) ai cũng cậy mình hay chữ, không đằng nào chịu nhường đằng nào. Việc tranh giành cãi cọ ấy phải chờ đến lệnh phân xử của nhà vua.

Vua Quang Trung bèn hạ chỉ phán bảo: “Sai lính đánh một hồi trống, mỗi người làm một bài phú, hễ dứt hồi trống mà ai xong trước thì là người hay chữ.” Đào làm bài Nghè Đào Phú, Mọc làm bài Nghè Mọc Phú.

Trong khi nghè Đào mới được một đôi câu (trong đó câu kỳ lạc đào đào) thì nghè Mọc đã ứng khẩu làm xong bài phú theo cái đầu đề tên mình:

Hữu nhất nhân hề: dẳn đùi ếch, vểnh râu trê

Giầu vỏ quạch, cái môi thâm xịt

Rượu hằng dê (?) con mắt đỏ hoe

Không rằng không, có cũng rằng không nghề ngôn chuyện ai nào dám địch;

… (Lược. Vì vế này nói nhá)

Thử sở dĩ trước là thằng Mọc, nay đỗ ông nghè giả dư!

Đó chắc là những chuyện chế giễu do mấy nhà trào phúng Bắc Hà ở đương thời hoặc đầu triều Nguyễn bịa đặt ra để mỉa mai cá thể vua Quang Trung không giỏi chữ Hán hoặc để công kích cái chính sách nhà vua bấy giờ dùng văn Nôm trong chiếu, biểu, thi, phú… mà, theo ý họ, là một lối “nôm na mách qué” không nhập nhã dưới những con mắt đang thiên trọng Hán văn.

Nhưng nhân hai câu chiếu văn và chuyện dật sự trên đây, ta lại xét đến nhiều bài văn ở triều Cảnh Thịnh (1793-1800), Bảo Hưng (1801-1802), tuy là quân quốc trọng sự mà cũng dùng Nôm, như “Canh Thân (1800) xuân, nghĩ Diệu quận quân thứ quốc âm hiểu văn”369, “Dụ nhị súy quốc âm chiếu văn”370 và “Kỷ Mùi (1799) đông nghĩ ngự điện Võ Hoàng hậu tang”371… thì đủ biết sự dùng quốc âm trong văn đường bệ đã hầu thành “gia sáo” và thói quen của nhà Tây Sơn rồi. Vậy nay có thể quả quyết: vua Quang Trung đã mạnh bạo đánh đổ cái thành kiến, cái tập quán hàng ngót hai nghìn năm chỉ quý Hán văn, không dám trọng dụng Việt ngữ.

Tương truyền rằng: mỗi khoa thi, cứ kỳ thứ ba (Đệ tam trường), nhà vua buộc các sĩ tử phải làm thơ phú bằng tiếng mẹ đẻ.

Sau khi xem xét bài biểu của Nguyễn Thiệp nói về ba điều quân đức, dân tâm và học pháp372 nhà vua có ý muốn chỉnh đốn lại việc học, nên qua năm Quang Trung thứ 5 (1792) định thiên đô về Nghệ An: dựng nhà Sùng chính thư viện, cử Nguyễn Thiệp làm Viện trưởng, giữ việc giáo dục quốc dân. Nhưng, cái “thai” thư viện đó không được nhìn thấy ánh sáng, là vì chưa kịp thực hiện thì vua Quang Trung đã băng.

ĐỐI VỚI TÔN GIÁO

Cũng như các triều đại khác, triều Quang Trung cũng tôn sùng đạo Nho, đạo Phật và đạo Bách Thần.

Có điều rất đáng chú ý, khi Tây Sơn cầm chính quyền, đạo Gia tô cũng được tiến hành tấn tới. Chứng cớ ấy ta thấy ở câu này trong bức thư của Giáo sĩ Le Roy gửi cho Blandia, đề ngày 18 juillet 1793: “Từ khi nhà Tây Sơn lên làm chủ, tôn giáo được tấn bộ”373.

Nhà vua có ý muốn chấn chỉnh Phật giáo trong nước, nên đối với những sư nào không xứng đáng thì bắt hoàn tục làm ăn; chỉ cho những tăng nhân nào có đạo đức, có học thức mới được trụ trì ở chùa chiền để quy Phật374.

Ngài lại muốn cho sắc tướng chốn thuyền môn được trang nghiêm, nên xuống chiếu bắt bỏ bớt những chùa nhỏ ở các làng, truyền đem gỗ gạch làm chung ở mỗi phủ, mỗi huyện một ngôi chùa rất to tát, rất đồ sộ, rất đẹp đẽ375.

Ngoài ra, triều Quang Trung cũng làm cái việc phong sắc cho bách thần theo như lề lối từ đời Lý Cao Tông (1176–1210) truyền lại376:

Ngày 22 tháng sáu, năm Quang Trung thứ 5 (1792) triều đình có ban sắc cho vị thần là Đỗ công Đại vương, trong có hai vế đối:

九服清怡共樂太平之景象

三靈和晏永祈申錫之庥禎

Cửu phục thanh di, cộng lạc thái bình chi cảnh tượng.

Tam linh hòa yến, vĩnh kỳ thân tích chi hưu trinh.

Dịch nghĩa:

Lặng trong chín cõi, vui chung cảnh đẹp thái bình.

Yên ổn ba linh377 ban mãi phúc lành rộng rãi.

Trên tấm sắc mực đen giấy vàng này có đóng cái ấn son đỏ đề bốn chữ triện “hòa nhu chi bảo” (和柔之寶)378.

TÍN BÀI

Tuổi còn trẻ, chí đang hăng, tiền đồ còn đầy hy vọng, vua Quang Trung quyết mài gươm, thét lửa một phen để làm thực hiện cái chí cao xa bấy lâu vẫn ôm ấp.

Để đi đến con đường đánh Thanh, ngài từ khi lên cầm quyền chính, hết sức chấn chỉnh vũ bị, sửa soạn chiến tranh.

Sổ đinh bấy giờ, sau bao cơn trong nước loạn ly, không được minh bạch, nhất là từ miền Linh Giang (sông Gianh) ra ngoài Bắc, dân số ẩn lậu còn nhiều.

Vả, bấy giờ nhà vua ngày đêm cùng các tướng tá mưu việc Bắc phạt. Ai nấy đồng thanh: “Việc cần kíp ngày nay là phải biết đúng số dân để tiện việc tuyển lính.” Ngài lấy làm phải, nên tháng sáu, năm Quang Trung thứ 3 (1790), hạ chiếu sai các trấn phải đốc các dân xã cải tu sổ đinh, chia làm bốn hạng:

1) Hạng vị cập cách: từ 9 đến 17 tuổi.

2) Hạng tráng: từ 18 đến 55 tuổi.

3) Hạng lão: từ 56 đến 60 tuổi.

4) Hạng lão nhiêu: từ 60 tuổi trở lên.

Để tránh sự ẩn lậu, nhà vua sai chiếu theo sổ đinh, phát cho mỗi người một cái thẻ, tên gọi “Tín bài”, trong in bốn chữ lớn “Thiên hạ đại tín”379.

Trên mặt thẻ ở chỗ hồi văn bốn bên thì đề tên, quê quán và in đầu ngón tay tả của người có thẻ để làm tin.

Tín bài ấy ai cũng phải đeo, gặp người xét hỏi thì phải đưa trình. Ai không có thẻ, ấy là lậu dân, hoặc phải bắt xung làm phòng quân, hoặc phải đem xuống tàu, cho đi những nơi đất rộng miền rừng núi. Trách nhiệm ẩn lậu ấy, tổng trưởng (chánh tổng), lý trưởng phải chịu.

ĐÚC TIỀN ĐỒNG

Sau khi lên ngôi, vua Quang Trung có cho đúc một thứ tiền bằng đồng để tiêu dùng trong nước.

Hồi năm 1937, một nhà từ thiện ở làng Cót (trước thuộc Hà Đông, nay thuộc Hà Nội) có đứng lên xây một cái cầu bắc qua sông Tô Lịch. Khi đào lòng sông để xây móng chân cầu, người ta có nhặt được mấy đồng tiền đồng về đời Quang Trung. Cứ như mấy đồng tiền ấy tôi đã được thấy (xin coi hình vẽ), thì khuôn khổ cũng bằng những đồng tiền đồng “Gia Long”: giáp biên có cái gờ theo vành tròn, gần lỗ có cái gờ theo hình lỗ vuông. Mặt trái thì trơn, có bốn hình vành cung day lưng vào lỗ vuông, mặt phải thì có bốn chữ (光中通寶) (Quang Trung thông bảo).

Năm Quang Trung thứ 4 (1791) có lẽ vì dự bị việc làm binh khí để đánh Tàu và đúc tiền đồng để rộng tài nguyên cho dân gian, nên nhà vua hạ lệnh thu hết các thứ đồng tốt trong nước.

PHÁ LỆ CỐNG NGƯỜI VÀNG

Khi Việt – Thanh đã giảng hòa, Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An có đưa thư bảo vua Quang Trung rằng: “Mỗi khi thay triều đổi họ, nhà nào bên Nam cũng cống người vàng để làm tạ lễ, thì nay Tây Sơn cũng nên sắm người vàng để đưa sang Thanh.”

Nói đến lệ cống người vàng380 ta nên xét kỹ lịch sử nó đã. Các bạn đọc có rõ những nỗi khó khăn trọng đại của việc này ra sao, bấy giờ mới biết cái công phá được lệ cống người vàng là vĩ đại, đáng đời đời ghi nhớ.

Nguyên xưa Đức Lê Lợi giận nhà Minh tàn ngược, nổi lên từ núi Lam Sơn: Ròng rã mười năm trường (1418-1428) mới đuổi được giặc Minh về nước, ban bố bài cáo Bình Ngô. Trong khi tấn công giặc Minh ấy, Đại tướng Lê Nhân Chú381 bắt sống được An Viễn hầu Liễu Thăng ở Chi Lăng (thuộc Ôn Châu, trấn Lạng Sơn), ngày 18 tháng chín, năm Đinh Mùi (1427). Rồi viên tướng Minh ấy phải đem thân đền trả cái nợ tàn khốc vô nhân đạo của đồng bào họ đã ngược đãi người Nam.

Tuy đã dẹp yên giặc Minh, nhưng nhân dân còn mang một vết thương rất nặng vì bao năm tranh chiến. Muốn chữa cho họ mau lành, vua Lê Thái Tổ (1428-1433) có làm mấy việc quyền nghi trong lúc điều đình với người Ngô, không nghe quốc dân xui giục về việc thẳng tay giết hết giặc Minh cho hả lòng bấy nay căm giận, nên khi đã ký hòa nghị rồi, Ngài tha cho bọn quan lại, quân dân nhà Minh được về Tàu đến hơn 86.000 người, lại cấp cho bọn Vương Thông tướng Minh, hơn 500 chiếc thuyền và vài ngàn cỗ ngựa để cho toàn hoạt về nước. Đó đúng như trong bài Bình Ngô đại cáo đã nói: “Ta muốn cho được tuyền quân là hơn, và mong cho dân được yên nghỉ” (dịch).

Vì ý nghĩ ngài đã muốn như vậy, nên phàm các việc trang trải với người Minh, ngài phải buộc lòng làm quyền biến cho được việc một lúc. Chính ngài chẳng những tạm bợ trong việc lập Trần Cao, người giả danh là dòng dõi họ Trần, để cho mau êm chuyện ngoại hoạn, mà ngài lại còn phải quyền nghi làm việc cống người vàng cho nạn can qua khỏi kéo dài mãi.

Nguyên từ năm Bính Ngọ, niên hiệu Bình Định vương thứ 9 (1426), vua Lê chến đấu với giặc Minh đã ngót mười năm ròng rã rồi, lòng ngài bấy giờ chỉ mong sao đuổi quân Ngô ra khỏi bờ cõi nước nhà sớm được ngày nào thì nhân dân sớm thoát cái nạn lầm than ngày ấy.

Đến tháng mười một năm đó (Bính Ngọ, 1426), Vương Thông nhà Minh sau khi trải qua bao trận thất bại, có ý giảng hòa, rút quân kéo về, nhưng không vin vào danh nghĩa gì để bãi binh được. Thông dựa ngay vào lời chiếu ở đầu niên hiệu Vĩnh Lạc (1403-1424) bảo tìm lập con cháu họ Trần, bèn ngầm khuyên dỗ vua Lê làm việc ấy, bắt đắc dĩ ngài phải dằn lòng ưng thuận.

Trước đó, có Hồ Ông trốn ở nhà Cầm Quý, thổ quan ở Ngọc Mạ (nay là phủ Trấn Định thuộc Nghệ An) mạo xưng là cháu ba đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372), vua Lê bèn sai đón lập Hồ Ông làm Trần chúa, đổi tên là Trần Cao, kỷ nguyên là Thiên Khánh. Còn ngài thì xưng là Vệ quốc công.

Sau khi được đứng lên làm bồ nhìn, Cao “ngự” ở núi Không Lộ thuộc huyện Thạch Thất, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây dưới quyền giám chế của Lê Quốc Hưng do vua Lê sai phái382.

Ngay hồi ấy, vua Lê đã thay Trần Cao, đưa tờ biểu sang nhà Minh xin phong cho Cao, nhưng nhà Minh cứ làm lơ, không nói sao cả. Qua năm Đinh Mùi niên hiệu Bình Định vương thứ 10 (1427), vua Lê lại sai sứ bộ Lê Thiếu Dĩnh383 đem biểu văn384 đi với nhân viên do Vương Thông cắt cử cùng sang Yên Kinh để giao thiệp về việc cầu phong này.

Kèm với biểu văn ấy có những phương vật này:

1 pho người vàng thế thân (trong Khâm định Việt sử quyển 14, tờ 24 chép là hai pho người vàng thế thân).

1 cái lư hương bằng bạc;

1 cái lọ bạc để cắm hoa, 300 tấm lụa tiến (thổ quyên);

14 đôi ngà voi;

20 bình đựng thứ hương ướp áo, 30.000 nén hương vòng;

24 khối trầm thơm385.

Sau, Lê mất, nhà Mạc (1527-1593) sợ Minh hỏi tội, có đúc người vàng sang cống để làm của lót. Vả, vì muốn “hối lộ” thật nhiều cho Minh, họ Mạc chắc phải đúc người vàng to hơn và nặng hơn thuở nhà Lê trước.

Năm Bính Thân, hiệu Quang Hưng thứ 19 (1596), vua Lê Thế Tông (1573-1599) bấy giờ tuy đã khôi phục Thăng Long386, nhưng còn bị người Minh vặn vẹo là không phải thực dòng dõi họ Lê, nên ngài phải thân lên ải Nam quan để cùng người Minh dự việc hội khám.

Người Minh trùng trình không đến họp, yêu sách người vàng… (Khâm định Việt sử, quyển 30, tờ 15)

Rồi vua Lê phải sai lũ Đỗ Uông đem hai pho người vàng, người bạc và cống lên Lạng Sơn để chầu chực đưa cống phẩm, song lại bị người Minh thoái thác bằng lời văn hoa giả dối (Khâm định Việt sử, quyển 30, tờ 18b -19b).

Qua năm Quang Hưng thứ 20 (1597), lại sai Phùng Khắc Khoan387 sang sứ Tàu để giao thiệp với người Minh về việc cầu phong. Cũng nhờ ông Phùng là người có tài ngoại giao, nên mới nói êm được việc người Minh hạch sách người vàng lớn, nhỏ, nặng, nhẹ.

Về việc này, trong truyện Phùng Khắc Khoan ở loại Nhân vật chí sách Lịch triều hiến chương có chép:

… Đinh Dậu năm thứ 20, (ông) vâng mạng đi sứ. Bấy giờ người Minh ăn của lót của mầm độc họ Mạc, không chịu dung nạp ông. Khắc Khoan chầu chực, có đưa lên xoái ty, hết sức nói họ Mạc là kẻ cướp ngôi, tội trạng đã rành rành. Nay con cháu nhà Lê gõ cửa quan, chờ mạng lịnh. Nếu Thiên trào phò Mạc nén Lê thì là về hùa với kẻ gian, làm hại người ngay, sao tỏ nghĩa lớn với thiên hạ giữ danh giáo cho muôn đời được nữa! Người Minh khen, để cho ông vào trong cửa ải. Ông bèn được trảy tới kinh đô (nhà Minh).

Khi đã tới Yên kinh, Lễ bộ đường có trách ông về việc người vàng thế thân không làm đúng y mẫu cũ, họ bèn bắt ông ngừng lại, chứ không để cho ông vào chầu. Khắc Khoan cãi: họ Mạc cướp lấn thì danh là nghịch, nhà Lê khôi phục thì danh là thuận. Họ Mạc được theo hình thức làm người vàng thế thân đã là hưởng ơn may mắn lắm rồi. Đến như họ Lê đời đời làm cống thần thì hình dáng người vàng đã có mẫu sẵn ở đó. Nay nếu vin lấy họ Mạc làm lệ thì sao nêu rệt được cái nghĩa răn dữ khuyên lành?

Lời trạng của ông được thấu đến tai vua Minh, vua Minh rồi cũng thuận theo cái hình thức của Tiền Lê388. (dịch)

Năm Mậu Tuất, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 14 (1718) đời vua Lê Dụ Tông (1705-1729), Binh bộ Hữu Thị lang Nguyễn Công Hãng đóng vai chính sứ, sang Thanh cầu phong cho vua Dụ Tông (Khâm định Việt sử, quyển 35, tờ 21b-22b).

Về việc này trong truyện Nguyễn Công Hãng389 ở Tang thương ngẫu lục, quyển trên, tờ 10b-11b có chép:

… Trước kia Thái tổ Hoàng đế đánh người Minh ở núi Mã Yên (thuộc Ôn Châu, Lạng Sơn) chém được tướng Minh An viễn hầu Liễu Thăng. Kịp khi nộp cống khoản, người Minh trách móc bắt đền, phải đúc người vàng để thay thế nó.

... Họ Mạc cướp ngôi, người Minh sai Cừu Loan, Mao Bá Ôn sang đánh. Mạc sợ, lấy người vàng đút lót xin hòa.

Hồi mới trung hưng, nhà Minh vặn hỏi về việc tự tiện giết chết cống thần của Minh là Mạc Mậu Hợp, (nhà Lê) lại phải dùng người vàng để tạ.

Nhân thế, các triều thành ra lệ thường công. Ông (Nguyễn Hãng) xin bỏ đi. Bộ viện (nhà Minh) lại đem việc cũ ấy ra hỏi. Ông nói: “Quốc vương nay giữ cơ nghiệp của tổ tiên, về việc cống hiến, không thiếu thốn gì, còn chuyện thâu thành nạp khoản là chuyện việc cũ thì kẻ sứ thần này không dám biết tới.

Họ lại vặn hỏi về việc Liễu Thăng. Ông nói: “Liễu Thăng là tướng nhà Minh kia. Còn nhà Thanh ta rộng có muôn nước, thế mà lại bo bo đòi của lót để báo thù cho người xưa thì lấy gì khuyên được người ta đến với mình?...” (dịch)

Thế rồi bắt đầu từ Nguyễn Hãng, lệ cống người vàng và lệ cống nước rửa ngọc trai390 mới dừng lại được.

***

Sau khi đi ngược thời gian, xét lại lịch sử, chắc các bạn đã nhận thấy việc cống người vàng là bắt đầu từ đời vua Lê Thái Tổ, qua Mạc đến Lê trung hưng. Tựu trung ở đời Lê Giụ Tông tuy nhờ tài ngoại giao của ông Nguyễn Hãng mà ta tạm thoát được cái “nợ Liễu Thăng” trong một lúc391. Nhưng cái nợ này vẫn còn truyền tử nhược tôn mãi, nên bên ta mỗi một triều đại nào lên, cũng phải “trả nợ đậy” vì yếu thế, lép vế!

Khác hẳn các triều xưa, vua Quang Trung đối với Mãn Thanh, trước đã chiến thắng về quân sự, sau lại chiến thắng về ngoại giao, không khi nào chịu cong lưng gánh cái nợ vô lý và bất công ấy.

Phải, ngài đưa thư phản kháng Phúc Khang An khi viên này lên tiếng yêu sách về việc bắt cống người vàng; ngài thẳng tay cất cái gánh nặng ấy đã mấy mươi đời vẫn chất trên lưng dân Nam, ngài rửa được cái nhục nghìn thu cho lịch sử.

Nguyên văn bức thư ấy, xin trích lục ra dưới đây:

昔陳莫歷代以得罪於中國獻代身金人本國國長起自布衣乘時集事與黎王無有君臣之分其去留在天數向背在人心非有意於黎之國如簒奪者比且前者孫部堂提兵而來本國國長不得已而應之從無侵犯邊境以得罪於上國今承概按陳黎莫貢金人之例是本國國長明正得國反儕於偽莫之科而一念恭順出於畏天事大之誠反與陳擒烏馬兒黎殺柳昇同律本國國長於情有屈不能無望於鈞衡也夫古者諸侯朝見天子或朝于方岳或覲于京師有能來者自來不能親來遣其子弟入侍貴在奉琛執贄上下之情通至於金人替形入朝唐虞三代以及漢唐宋未常有是大人宣佈教聲亦唯以隆古治朝之良法美意令諸下國元明二代之所為事不師古何足效也伏望追繳鈞命免鑄獻金人之事云云392

… Tích Trần, lịch đại dĩ đắc tội ư Trung Quốc, hiến đại thân kim nhân. Bản quốc Quốc trưởng khởi tự bố y, thừa thì tập sự, dữ Lê vương bản vô hữu quân thần chi phận. Kỳ khứ lưu tại thiên số, hướng bội tại nhân tâm, phi hữu ý ư Lê chi quốc như soán đoạt giả tỉ.

Thả, tiền giả Tôn bộ đường (Tôn Sĩ Nghị) đề binh nhi lai, bản quốc Quốc trưởng bất đắc dĩ nhi ứng chi, tòng vô xâm phạm biên cảnh dĩ đắc tội ư Thượng quốc.

Kim thừa khái án Trần, Lê, Mạc cống kim ngân chi lệ, thị bản quốc Quốc trưởng minh chính đắc quốc phản sài ư Ngụy Mạc chi khoa, nhi nhất niệm cung thuận xuất ư úy thiên sự đại chi thành, phản dữ Trần cầm Ô Mã Nhi, Lê sát Liễu Thăng đồng luật, bản quốc Quốc trưởng ư tình hữu khuất bất năng vô vọng ư quân hành dã.

Phù, cổ giả chư hầu triều kiến thiên tử: hoặc triều vu phương nhạc hoặc cận vu kinh sư. Hữu năng lai giả tự lai, bất năng thân lai khiển kỳ tử đệ nhập thị, quý tại phụng sâm, chấp chí, thượng hạ chi tình thông.

Chí ư kim nhân thế hình nhập triều: Đường, Ngu, Tam đại dĩ cập Hán, Đường, Tống vị thường hữu thị!

Đại nhân (Phúc Khang An) tuyên bố giáo thanh, diệc duy dĩ long cổ trị triều chi lương pháp mỹ ý linh chư hạ quốc. Nguyên, Minh nhị đại chi sở vi, sự bất sư cổ, hà túc hiệu dã?

Phục vọng truy hiệu quân mệnh, miễn chú hiến kim nhân chi sự…393

Dịch nghĩa:

“… Xưa, các đời Trần, Mạc vì được tội với Trung Quốc, phải dâng người vàng để thế hình.

Quốc trưởng nước tôi từ bước là một người áo vải, nhân thời thế vùng lên làm việc, đối với Lê vương vốn không có cái vai lứa ai là vua, ai là tôi chi cả. Còn hay hết, là ở số trời; theo hay bỏ, là ở lòng người. Quốc trưởng nước tôi có ý lấy nước của Lê đâu mà sánh với kẻ giành cướp được?

Vả, trước đây, Tổng đốc họ Tôn (Sĩ Nghị) đem binh lính đến. Quốc trưởng nước tôi bất đắc dĩ phải ứng phó lại, chứ không hề xâm phạm bờ cõi để được tội với Thượng quốc bao giờ!

Nay thấy ngài theo lệ Trần, Lê, Mạc cũ mà bắt cống người vàng, thế thì Quốc trưởng nước tôi được nước một cách quang minh chính đại, té ra lại phải liệt vào hàng tiếm ngụy như nhà Mạc, mà chút lòng cung thuận ra từ tấc thành sợ trời, thờ nước lớn lại phải chịu chung một luật như nhà Trần bắt Ô Mã Nhi, nhà Lê giết Liễu Thăng ư?

Thế thì kể về tình, Quốc trưởng nước tôi có điều bị ức, không thể không trông ở ngài cân nhắc cho vậy.

Này, xưa kia, chư hầu triều kiến thiên tử: hoặc chực ở phương nhạc, hoặc chầu ở kinh sư. Ai đi được thì tự mình đến, ai không thân đi được thì sai con em vào hầu, chỉ cốt dâng ngọc, thám, tỏ đồ tin, để cho cái tình trên dưới được thông suốt.

Đến như bắt lấy người vàng thế hình vào chầu thì suốt từ Đường, Ngu, Tam đại (Hạ, Thương, Chu) đến Hán, Đường và Tống đều chưa làm thế bao giờ.

Ngài đã rao truyền tiếng tăm giáo hóa của Thượng quốc cũng nên đem phép hay, ý tốt của triều đại thịnh trị ngày xưa mà sai bảo mọi nước dưới, chứ bắt chước làm gì cái việc làm của Nguyên, Minh là việc không học theo cổ ấy?

Mong ngài soi xét, miễn cho sự đúc dâng người vàng…”

Bức thư phản kháng ấy quả có công hiệu. Vua Thanh phải nhượng bộ, rồi tỏ cái ý “bắt chẳng được, tha làm phúc” trong câu thơ này tặng giả vương394 do vua Quang Trung phái sang Tàu:

勝朝徃事鄙金人

Thắng triều vãng sự bỉ kim nhân!

Nghĩa: “Triều Thanh đây cho việc triều trước bắt cống người vàng là đáng khinh bỉ!”

Thế là vua Quang Trung triều Tây Sơn, một tay cái thế đại anh hùng, một đối tượng để người ta ghi nhớ trong ngày Giỗ trận, đã làm được một việc ngoại giao thắng lợi cũng như về mặt quân sự, đã hoàn toàn thắng lợi ở xuân Kỷ Dậu (1789).

ĐÒI LẬP NHA HÀNG Ở TÀU

Muốn mở mang về kinh tế, vua Quang Trung chú trọng vào việc buôn bán, hết sức khuếch trương việc mở “thị trường”.

Vua phái người sang điều đình với Mãn Thanh xin mở chợ buôn bán ở Bình Thủy quan thuộc tỉnh Cao Bằng và Du Thôn ải thuộc tỉnh Lạng Sơn, nhưng miễn đánh thương thuế.

Vua Quang Trung lại xin lập nha hàng ở phía Nam Ninh thuộc tỉnh Quảng Tây, mục đích cốt để dân Nam sang đó buôn bán làm ăn, khiến đường thương mại ngày một thuận lợi phát đạt.

Nhưng, muốn để bảo vệ tính mệnh tài sản cho Việt kiều sang Tàu doanh nghiệp, vua Quang Trung yêu cầu nhà Thanh cho ta đem quân sang đóng tại chỗ nha hàng sẽ lập ấy.

Những điều yêu sách đó đều được vua Thanh nhất nhất ưng thuận cả.

Sau cám ơn người Thanh, vua Quang Trung có sai gửi thư cho Lưỡng Quảng Tổng đốc Phúc Khang An, chỗ nói về việc này đã được chuẩn y, nguyên văn có mấy câu như: “… Khai quan thông thị, sử bách hóa vô ủng, dĩ lợi dân dụng”395. Nghĩa là mở cửa ải, thông buôn bán, khiến các hàng hóa không ngừng đọng để làm lợi cho dân dùng.

YÊU SÁCH NGỰA TỐT CỦA TÀU

Mùa thu năm Canh Tuất (1790), vua Quang Trung phái giả vương sang Tàu, được vua Thanh tặng tiễn rất hậu. Tựu trung có thứ ngựa từ tàu ngựa vua Thanh ban ra là giống ngựa rất hay được vua Quang Trung rất vừa ý. Theo như trong tờ Khất mã biểu (biểu xin ngựa) đời Tây Sơn đã nói, thì con ngựa được tặng từ năm Canh Tuất kia sau vì không chịu thủy thổ nên đã hỏng mất. Rồi muốn được thứ ngựa hay ấy của nhà Thanh, vua Quang Trung lại sai viết sang Tàu để “xin” nữa. Nói nhún rằng “xin”, kỳ thực cũng là một lối “yêu sách khéo”. Trong bài biểu có câu:

恕其冒妄干求之罪

錫以權竒馳騁之良

… Thứ kỳ mạo vọng can cầu chi tội

Tích dĩ quyền kỳ trì sính chi lương…

Nghĩa là:

Thứ cho cái tội cầu bậy xin liều

Ban cho thứ ng