← Quay lại trang sách

Chương 3

Hồ Annecy rất thơ mộng, nhưng một thanh niên làm công việc buôn bán gái mại dâm da trắng phải tránh xa những ý nghĩ đó.

Tôi đáp chuyến xe ca đầu tiên đến T., một làng lớn, thủ phủ của tổng mà tôi chọn hú họa trên tấm bản đồ Michelin. Con đường lên dốc và những chỗ ngoặt làm tôi buồn nôn. Tôi cảm thấy dường như mình đã quên sạch mọi dự định đẹp đẽ. Tật ham mê những xứ sở lạ và nỗi khao khát được cải thiện hai lá phổi ở Savois nhanh chóng giúp tôi quên đi mọi vất vả. Sau lưng tôi, mấy thằng cha quân nhân hát: “Dân sơn cước kia kìa” và tôi cũng hát theo chúng một lúc. Cuối cùng tôi xoa hai tay lên lần vải quần bằng nhung kẻ, ngắm đôi giầy thô và cây gậy đầu bịt sắt để leo núi tôi mua lại trong một cửa hiệu trong phố cổ Annecy.

Chiến thuật tôi tính sẽ áp dụng là như sau: đến T., tôi sẽ đóng vai một nhà vận động viên leo núi trẻ tuổi, chưa có kinh nghiệm, chỉ biết quả núi này theo những gì được viết trong cuốn sách của Frison Roche. Nếu tôi trổ ngón khôn khéo, tôi sẽ gây được cảm tình với mọi người, và khi đó có thể lặng lẽ và nham hiểm lựa chọn cô gái nào đáng để tôi xuất sang Braxin. Để ăn chắc hơn tôi quyết định thó căn cước rất Pháp của cậu bạn tôi, Essarts. Cái họ Schlemilovicth nghe quá xấu xí. Dân hoang dã ở đây chắc hẳn đã nghe nói đến người Do Thái trong cái thời cảnh sát lùng sục vùng này. Nhất định không được để họ có chút nghi ngờ nào. Phải dập ngay trong bản thân tôi tính tò mò muốn tìm hiểu thêm về dân tộc học kiểu Lévy-Strauss[65]>. Dân vùng Savois này ranh ma hơn thổ dân da đỏ ở Parana. Không được nhìn đàn bà con gái ở đây bằng cặp mắt của kẻ mối lái, nếu không họ sẽ đoán được dòng dõi tổ tiên của tôi là người Cận Đông.

Xe ca đỗ trước nhà thờ. Tôi đeo ba lô leo núi lên vai, chống cây gậy bịt sắt lọc cọc trên vỉa hè rồi đi bằng bước chân quả quyết đến tận cửa khách sạn Trois Glaciers. Chiếc giường bằng đồng cổ xưa và giấy hoa dán tường của phòng 13 lập tức chinh phục được tôi. Tôi gọi điện về Bordeaux báo Nam tước Lévy-Vendôme biết tôi đã đến nơi, rồi huýt sáo một điệu nhạc menuet.

Thoạt đầu tôi nhận thấy dân địa phương xì xào về tôi. Họ lo ngại về chiếu cao của thân thể tôi. Kinh nghiệm cho tôi biết rằng điều đó thuận lợi cho tôi. Khi lần đầu tiên tôi bước vào quán giải khát Municipal, tay cầm gậy leo núi và giầy đính những cái móc sắt để móc vào vách núi, tôi cảm thấy tất cả mọi cặp mắt đều hướng vào tôi. Một mét chín mươi bẩy, chín mươi tám, chín mươi chín hay hai mét? Rõ ràng họ đang đánh cược với nhau. Ông Gruffaz, chủ lò bánh mì đoán đúng và vơ hết số tiền đặt cuộc của những người khác. Lập tức ông tỏ vẻ rất thân thiện với tôi.

Lão Gruffaz này có con gái không? Tôi sẽ sớm biết được thôi. Lão giới thiệu tôi với các bạn của lão, chưởng khế Forclaz Manigot và chủ hiệu thuốc tây Petit Savarin. Ba người mời tôi uống một li rượu bã táo làm tôi sặc, ho sù sụ. sau đó họ cho biết họ đang chờ ông Đại tá về hưu Aravis để đánh bài. Tôi xin họ cho phép tham gia, trong lòng thầm cảm ơn Nam tước Lévy-Vendôme đã dạy tôi cách chơi bài này, đúng hôm tôi sắp lên đường đến đây. Tôi còn nhớ câu dặn dò kỹ càng: “Buôn gái mại dâm da trắng, đặc biệt là gái trẻ Pháp ở tỉnh nhỏ, không có gì lí thú đâu, tôi phải báo trước cậu như vậy. Chúng ta cần tập thói quen, tác phong của người đại diện thương mại: chơi bài, đánh bi-a và uống rượu khai vị”.

Ba người hỏi tôi múc đích tới T. Tôi đã dự kiến trước cho nên trả lời rằng tôi là một thanh niên con cái gia đình quý tộc Pháp say mê môn thể thao leo núi, một hướng đạo sinh con nhà lành kiểu Simonde de Beauvoir[66]> và Guy de Larigaudie.

- Đại tá Aravis gặp cậu sẽ mừng lắm đấy, chưởng khế Forcalz Manigot nói riêng với tôi. Đại tá là con người tuyệt vời. Một tay săn bắn trên núi cao lâu năm. Mê các đỉnh núi cao. Một tay say leo dây lẫn vách đá. Ông ấy sẽ truyền cho cậu được nhiều kinh nghiệm lắm đấy.

Đại tá Aravis đến và quan sát tôi từ chân lên đến đỉnh đầu, chắc hẳn ông nghĩ đến tương lai tôi sẽ tham gia những cuộc săn bắn trên đỉnh núi với ông.

Tôi siết tay ông thật chặt rồi giập hai gót chân đến bộp một cái.

- Jean – Francois Des Essarts! Rất hân hạnh, thưa Đại tá.

- Một chàng trai tuyệt đẹp, đàng hoàng và quý phái! Phục vụ quân ngũ thích hợp lắm đây! - ông ta tuyên bố với ba người kia.

Ông lập tức có thái độ ân cần như người cha với con trai:

- Cậu bạn ạ, tôi e thời gian không cho phép chúng ta tiến hành một số bài tập về leo trên vách núi đá dễ lở để tôi có thể thấy được những phẩm chất của cậu! Nhưng không sao, chuyện đó sẽ có dịp! Dù sao tôi cũng sẽ làm cậu thành một tay sơn cước dũng mãnh. Tôi nhận thấy cậu có thân thể rất thích hợp. Đấy là điều chính yếu.

Ba ông bạn mới của tôi bắt đầu chơi bài. Bên ngoài tuyết rơi. Tôi thì chúi đầu vào đọc Echo-Liberté, tờ báo của địa phương. Tôi được biết rạp chiếu bóng ở T. đang chiếu một bộ phim của anh em hề Marx. Vậy là chúng tôi đã có sáu anh em, sáu người Do Thái lưu đầy ở đất Savoie. Tôi cảm thấy đỡ cô đơn.

Suy nghĩ xong, tôi thấy mến đất Savoie này ngang với Guyenne. Phải chăng đây chính là quê hương Henry Bordeaux? Hồi người sáu tuổi tôi đã đọc và thán phục những cuốn “Người vùng Roqueville”, “Tu viện của trạm nghỉ” và “Đoạn đường khổ ải” của Cimiez. Là người Do Thái mất quê hương, tôi khao khát ghê gớm mùi hương đất từ những kiệt tác này bốc lên. Gần đây tôi cảm thấy chưa giải thích nỗi tại sao Henry Bordeaux lại ít được công chúng yêu thích? Đối với tôi, ông tác động mạnh mẽ và tôi sẽ mãi mãi chung thủy với ông.

May thay tôi tìm thấy những người bạn mới quen kia những thích thú văn chương giống như thích thú của tôi. Aravis đọc “Những hạ sĩ quan” của Lucien Descaves và những tác phẩm của Đại úy Danrit. Petit Savarin mê René Bazin. Ông chủ lò bánh mì Gruffaz mê Pierre Hamp. Ông chưởng khế Forclaz-Manigot thì đánh giá rất cao Edouard Estaunié. Ông ca ngợi hết lời những cái hay của tác giả này mà chính tôi cũng đá thấy chúng rồi, trong tác phẩm “Văn chương là gì?” Cậu bạn tôi Essarts đã nói đến những cái hay đó như sau:

Tôi coi Edouard Estaunié là nhà văn đồi trụy nhất trong trong tất cả những tác giả tôi đã được đọc. Thoạt nhìn thì tưởng các nhân vật của Estauníe làm ta yên tâm những chủ sự kho bạc, những cô gái nhân viên các phòng bưu điện, những chàng trai học trường dòng ở tỉnh lẻ.Nhưng không nên vội tin vào những vẻ dáng bề ngoài. Viên chủ sự kho bạc kia lòng dạ đen tối, cô gái nhân viên bưu điện thì ra khỏi công sở lập tức bán dâm, cậu học sinh trường dòm thì khát máu không kém gì Gilles de Rais[67]>,.. Estauníe đã che giấu cái ác đằng sau những tấm áo rơđanhgốt dài đen, những áo măngtô, thậm chí cả đằng sau những tấm áo chùng: một Sade[68]> cải trang thành thư ký phiên tòa, một Genet2 trá hình thành Bernadette Soubirous..”

Tôi đọc đoạn văn trên cho Forclaz-Manigot và bảo ông rằng tôi là tác giả nó. Ông nức nở khen ngợi rồi mời tôi đi ăn tối. Trong lúc ăn tôi lén nhìn vợ ông ta. Tôi thấy bà ta hơi chín nẫu nhưng nếu chưa kiếm được thứ gì khác thì tôi nghĩ cũng chẳng nên kỹ tính quá. Thế là tôi với bà ta thực hiện luôn mối tình trong sáng của Estauníe: một chàng trai quý tộc Pháp, mê leo núi, tằng tịu với một bà mệnh phụ trung niên đã xồ xề. Tôi tính chịu khó đưa bà ta vào cuộc sống sa đọa thì chẳng mấy lúc. Nếu tôi xét thấy tốt, bà ta sẽ thành gái mại dâm ở một nhà chứa đất Braxin.

Miền Savoie yêu quý! Suốt đời tôi giữ mãi kỷ niệm êm đềm, chẳng hạn về Đại tá Aravis. Mỗi đứa trẻ Pháp đều có, ở sâu trong vùng quê, một người ông kiểu như vậy. Cậu ta lấy làm xấu hổ về chuyện đó. Ông bạn Sartre của chúng ta muốn quên đi bác sĩ Schweitzer, anh em với ông nội ông ta. Khi tôi đến thăm André Gide tại ngôi nhà của tổ tiên ông tại Cuverville, ông nhắc đi nhắc lại như kẻ mất trí: “Hỡi gia tộc, ta căm thù mi! Hỡi gia tộc, ta căm thù mi!” Chỉ riêng Aragon, bạn thiếu thời của ông là không từ chối cội nguồi. Tôi biết ông ta. Hồi còn mồ ma Staline, Aragon kiêu hãnh nói với tôi: “Dòng họ Aragon cha truyền con nối đều làm cớm!” Một điểm thắng của ông. Hai vị kia chỉ là những đứa con từ bỏ ông cha.

Tôi, Raphael Schlemilovitch, tôi kính trọng lắng nghe người ông của tôi, Đại tá Aravis, như tôi đã từng lắng nghe người ông khác của tôi, Adrien Debigorre.

- Essarts, Đại tá Aravis bảo tôi – cậu nhất định phải trở thành một tay đi săn chuyên nghiệp trên núi cao! Cậu sẽ trở thành người đàn ông được các bà cô mê tít! Vóc cao to như thế kia! Cậu mà là quân nhân thì oai phong ghê gớm lắm đấy!

Không may, bộ đồng phục của vận động viên leo núi lại làm tôi thấy giống như bộ đồng phục cảnh sát, tôi đã chết trong bộ ấy trước đây hai chục năm rồi[69]>.

- Tính thích mặt đồng phục chưa bao giờ đem đến cho tôi vận may, - tôi giải thích với ông Đại tá. – Hồi 1894, vì nó tôi đã phải ra tòa trong một vụ án ầm ĩ và chịu mấy năm tù ở đảo Diable. Vụ án Schlemilovitch, Đại tá còn nhớ không?

Vị Đại tá không nghe tôi nói. Ông nhìn thẳng vào mắt tôi, kêu lên:

- Cậu trai, vui lòng ngẩng cao đầu lên. Một cái bắt tay thật khỏe. Nhất là cậu hãy bỏ cái điệu cười ngu xuẩn ấy đi. Chúng ta đã nhìn thấy quá nhiều tình trạng nòi giống Pháp bị lai tạp. Chúng ta muốn sự thuần khiết trong dòng máu.

Tôi rất xúc động. Ông chỉ huy Darnand đã từng khuyên tôi những câu như thế khi chúng tôi mở cuộc càn quét bọn du kích.

Mỗi buổi tối tôi đều báo cáo công việc cho Nam tước Lévy-Vendôme. Tôi kể với ông ta về bà Forclaz Manigot, vợ viên chưởng khế. Ông ta trả lời rằng loại đàn bà đã chín nẫu không được vị khách hàng của ông ở Rio quan tâm. Tôi đành nán lại ở T. một thời gian nữa, sống cô đơn. Tôi cắn răng chịu đựng. Không có chút hy vọng nào về phía Đại tá Aravis. Ông ta sống một mình. Hai ông Petit Savarun và Gruffaz thì không có con gái. Mặt khác Nam tước Lévy-Vendôme chính thức cấm tôi không được làm quen với các cô gái làng mà không qua cha mẹ hoặc chồng họ: nếu tôi bị mang tiếng là kẻ chuyên tán gái thì thế là hết, sẽ không ai chơi với tôi nữa.

LINH MỤC PERRACHE GỠ KHÓ KHĂN CHO TÔI

Tôi gặp vị chức sắc Giáo Hội này trong một cuộc dạo chơi trong vùng bao quanh làng T. Ông đứng tựa vào một thân cây, đang chiêm ngưỡng thiên nhiên, đúng tư thế vị sứ thần của Chúa trên đất Savoie. Vẻ phúc hậu trên nét mặt đức cha làm tôi chú ý ngay. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Cha kể với tôi về người Do Thái Jésus Christ. Tôi kể với cha về một người Do Thái khác, tên là Judas[70]> chính là người mà Jéus Christ đã nói: “Tốt hơn là con người này không hề được sinh ra!”.

Cuộc trò chuyện xung quanh đề tài thần học tiếp tục đến tận lúc hai chúng tôi về tới quảng trường ở giữa làng. Linh mục Perrache tỏ vẻ buồn khi thấy tôi quan tâm nhiều tới Judas. Cha nói:

- Con là người tuyệt vọng, ông nghiêm giọng nói. Tội tuyệt vọng là tội lớn nhất trong mọi tội.

Tôi giải thích cho con người hiền đức ấy rằng gia đình tôi cho tôi đến T. để tăng ôxy hai lá phổi và để tư tưởng tôi trở nên trong sáng hơn. Tôi kể cho ông nghe quãng thời gian quá ngắn ngủi tôi học lớp Dự bị cao đẳng ở trường trung học Bordeaux và nêu lên với ông rằng tôi ngán ngẩm trường vì bầu không khí xã hội cấp tiến ở đó. Linh mục trách tôi là quá nguyên tắc.

- Con hãy thử nghĩ đến Péguy, cha nói, ông ta song song làm hai việc, một ở nhà thờ lớn tại Chartres và một tại Liên đoàn giáo giới. Ông ta đã cố gắng giới thiệu Thánh Louis và Jeanne d’ Are với Jean Jaurès; Không nên quá cực đoan con ạ!

Tôi trả lời rằng tôi thích Cha giám mục Mayol de Pupé hơn; một người Cơ-đốc phải coi trọng lợi ích của Chúa, thậm chí nếu cần có thể gia nhập L.V.F. Một chức sắc Cơ-đốc phải múa gươm thậm chí phải tuyên bố như Simon de Montfort: “Chúa sẽ nhận ra những ai là của Người!”. Hơn nữa, Tòa án giáo hội làm tôi có cảm giác đó là một hội từ thiện. Torquemada[71]> và Ximénès đều quá tốt, họ mong muốn chữa bệnh cho những con người có vẻ thích thú với bệnh tật của họ, bệnh đê tiện kiểu Do Thái. Hai vị đó thật đáng yêu là đã đề xuất can thiệp bằng phẫu thuật cho bệnh nhân chứ không phải để họ chết do bệnh lao của họ. Sau đó tôi ca ngợi hết lời Joseph de Maistre, Edouard Drumont, và nói với linh mục rằng Chúa trời không ưa những kẻ nửa vời.

- Cả kẻ nửa vời lẫn kẻ kiêu ngạo, - linh mục Parrache nói. - Mà con thì mắc cái tội kiêu ngạo, cũng nặng như tội tuyệt vọng. Nghe đây, ta sẽ giao cho con một việc nhỏ. Con phải coi đó là công việc để chuộc tội. Đức giám mục địa phận này sắp đến thăm trường trung học T, sau đây một tuần lễ. Con hãy soạn một bài chào mừng Ngài để ta đưa lên trên. Bài đó sẽ được trao cho một học sinh thay mặt mọi giáo dân trong toàn xứ đạo để cậu ta đọc. Qua công việc đó con sẽ bộc lộ lòng sẵn sàng, tình cảm và sự khiêm nhường. Bởi công việc nhỏ đó sẽ đưa con trở lại con đường chính nghĩa! Ta biết con là một con chiên lạc đường, đang mong muốn một điều duy nhất là trở về với bầy. Mỗi người trong lúc lầm lạc đều muốn hướng Thiện! Ta tin ở con! (Thở dài.)

Một cô gái tóc vàng đang đứng trong vườn của nhà thờ. Cô chăm chú nhìn tôi; linh mục Parrache giới thiệu với tôi, đấy là cháu của ông, tên là Loitia. Cô mặc đồng phục xanh lam của học sinh nội trú.

Loitia châm một ngọn đèn dầu hỏa. Những đồ gỗ Savoie sực nức mùi dầu quang. Màu bức tường bên trái làm tôi rất có cảm tình. Linh mục Parrache dịu dàng đặt bàn tay lên vai tôi:

- Schlemilovitch, ngay từ bây giờ, con có thể báo cho gia đình biết là con đã được rơi vào những bàn tay nhân đức. Ta nhận coi sóc sức khỏe linh hồn cho con. Phần còn lại sẽ được khí trời vùng núi ở đây làm nốt. Bây giờ, con trai của ta, con hãy viết bài chào mừng Đức giám mục của chúng ta. Loitia, cháu vui lòng đem trà và vài chiếc bánh ra đây! Chàng trai này đang cần ăn để lấy sức.

Tôi mải ngắm mái đầu xinh đẹp của Loitia. Các bà sơ của tu viện Notre Damedes Fleurs khuyên cô tết đuôi sam bộ tóc vàng của cô, nhưng vài ngày gần đây, do tôi, cô lại để xõa trên hai vai như cũ. Sau khi quyết định sẽ đưa cô sang Braxin, tôi vào phòng của chú cô, thảo bài văn chào mừng Đức giám mục Nuits Saint- Georges.

“Kính thưa Đức giám mục,

Trong tất cả các nhà thờ của địa phận đẹp đẽ mà Chúa trời đã giao phó cho Ngài, thưa Đức giám mục Nuits Saint- Georges, Ngài hãy coi như đang ở trong nhà của Ngài. Sự hiện diện của Ngài ở đây đem đến cho toàn địa phận một niềm khích lệ và những ân huệ quý giá.

Nhưng xin Ngài cảm thấy Ngài còn hơn ở trong nhà của mình trong thung lũng ngoạn mục T. này, nổi tiếng về những cánh đồng cỏ và rừng rậm… Thung lũng này cách đây không lâu đã được một nhà sử học mệnh danh là “mảnh đất của các giáo sĩ gắn bó chặt chẽ và thân ái với các chức sắc coi sóc linh hồn”. Ngay tại đây, trong các trường trung học được xây dựng bằng các tấm lòng hào hiệp, đôi khi phải gọi là các anh hùng… Thưa Đức giám mục, hiện lúc này Ngài đang ở trong nhà của Ngài… Và khi nghe tin Ngài sắp đến thăm, giáo dân và mọi học sinh ở đây đã nóng lòng trông ngóng.

“Kính thưa Đức giám mục! Ngài đến đây là mang niềm khích lệ và luồng ánh sáng qua những lời răn dạy của Ngài đến các thầy giáo, các cộng sự tận tụy của Ngài, công việc của họ nhiều khi vô cùng khó khăn và không được đền đáp xứng đáng. Ngài sẽ đem đến lòng bao dung cho các học sinh bằng nụ cười thân thiết và mối quan tâm mà tất cả học sinh ở đây đều sẽ cố gắng để xứng đáng với Ngài… Chúng con vô cùng sung sướng được đón chào Ngài, một người thầy uyên bác, một người bạn hào hiệp, một nhà hảo tâm sẵn sàng làm mọi thứ để nâng cái trường Cơ-đốc này lên, thành một thực tế và một đảm bảo cho tương lai tỏa sáng của vùng đất chúng ta.

“Với chúng con, thưa Đức giám mục, những bãi cỏ trồng tỉa trên các lối đi trước cổng như được tắm gội, và những bông hoa trên đó như đang ca hát bằng những màu sắc tươi thắm của chúng, bất chấp khí trời giá lạnh của một mùa cực kỳ khó khăn. Vì Ngài, Ngôi Nhà của chúng con mọi khi là một tổ ong ồn ào náo nhiệt thì hôm nay lặng lẽ và trang nghiêm. Vì Ngài mà dòng trôi nhàm chán của những cuộc săn bắn hoặc học hành đã biến mất, thay vào đấy là không khí tưng bừng hội hè, một sự tưng bừng thanh thản chan chứa những quyết định tốt lành.

“Kính thưa Đức giám mục! Chúng con muốn tham gia vào những nỗ lực lớn lao đổi mới và cải tạo hiện đang dâng trào trên các công trường của Giáo Hội và nước Pháp. Kiêu hãnh vì cuộc viếng thăm này của Ngài, chúng con sẽ chăm chú lắng nghe những lời răn dạy của Ngài. Xin Ngài nhận ở đây tấm lòng ngưỡng mộ và quý yêu của những đứa con của Ngài.

“Cầu Chúa ban phước cho Đức giám mục Nuits Saint- Georges.

“Hoan hô Đức giám mục!”

Tôi thầm mong bài văn này vừa lòng vị linh mục Parrache và giúp tôi giữ được mối cảm tình của ông ta với tôi: tương lai của tôi trong việc buôn bán gái mại dâm da trắng buộc tôi phải như vậy.

May thay, mới nghe tôi đọc mấy câu đầu, ông linh mục đã trào nước mắt, và hết lời khen ngợi. Thậm chí ông còn đích thân đem bài văn của tôi lên gặp thượng cấp để hưởng một lần nữa niềm thích thú trong lúc hai người cùng duyệt bài chào mừng.

Loitia ngồi trước lò sưởi. Đầu cô hơi cúi và cặp mắt của cô mơ màng giống như những cô gái của danh họa Botticelli. Chắn chắn cô ta sẽ rất thành công vào mùa hè sang năm trong các nhà chứa của thủ đô Rio de Janeiro của Braxin.

Giáo sĩ Saint- Gervais, Hiệu trưởng trường trung học, tỏ ra rất hài lòng về bài văn chào mừng của tôi. Ngay trong cuộc tiếp xúc giữa tôi và ông, ông đã mời tôi thay chân một Giáo sư dạy môn lịch sử, linh mục Ivan Canigou, ông này đột nhiên bỏ đi đâu mất tăm. Theo giáo sĩ Saint-Gervais thì linh mục Canigou vốn rất đẹp trai, không sao cưỡng lại được thiên hướng của ông là làm nhà truyền giáo và đã có nguyện vọng truyền giáo cho những người dân hiền đức ở Tân Cương. Sẽ không bao giờ ông quay lại đất T. này nữa. Qua linh mục Parrache, thầy Hiệu trưởng biết được tôi đã theo học lớp Dự bị Cao đẳng Sư phạm ở trường trung học Bordeaux và rất tin vào trình độ môn lịch sử của tôi:

- Cậu sẽ tiếp tục dạy khóa học của linh mục Canigou cho tới khi nào nhà trường tìm được một Giáo sư lịch sử mới. Công việc này làm đầy những thời gian rỗi rãi của cậu. Cậu nghĩ sao?

Tôi vội chạy đến báo tin vui này cho linh mục Parrache.

- Chính ta đã đề nghị thầy Hiệu trưởng tìm cho con một công việc gì để con khuây khỏa. Nhàn rỗi rất có hại cho con. Hãy làm việc đi, con của ta! Con đang dần đi vào con đường chân chính đấy! Đừng bỏ con đường đó!

Tôi xin linh mục cho phép tôi chơi bài. Ông vui vẻ bằng lòng. Tại quán giải khát Municipal, Đại tá Aravis, Porclaz Manigot và Petit Savarin tiếp đón tôi thân tình. Tôi kể cho họ nghe về chức vụ mới của tôi. Chúng tôi cùng uống rượu mận vùng Meuse và vỗ vào vai nhau.

Viết đến đoạn này trong bản tiểu sử của tôi, tôi thấy cần thẩm tra lại qua báo chí. Tôi đã vào dạy học trong trường dòng, như lời khuyên của linh mục Parrache chăng? Bài báo của Henry Bordeaux có tựa đề: “Một giáo sĩ ở Ars, linh mục Raphael Schlemilovitch” (Báo Hành động Pháp số ra ngày 23 tháng Mười năm 191…) khiến tôi kết luận: nhà tiểu thuyết gia đã ca ngợi tôi về thái độ tận tụy và sùng tín mà tôi bộc lộ trong ngôi làng nhỏ bé T. miền Savoie.

Bất kể thế nào, tôi cũng tiến hành những cuộc dạo chơi dài với Loitia. Bộ đồng phục học sinh duyên dáng và làn tóc mềm mại của nàng đã tô điểm cho những buổi chiều thứ Bẩy thêm hai màu xanh lam và vàng. Đại tá Aravis tình cờ nhìn thấy hai chúng tôi và ông nở nụ cười đầy thông cảm. Hai ông Porclaz Manigot và Petit Savarin thậm chí còn đề nghị được làm nhân chứng trong lễ kết hôn giữa tôi và Loitia. Dần dần tôi đâm quên nguyên nhân dẫn tôi đến vùng Savoie cũng như khuôn mặt nhăn nhó của Nam tước Lévy- Vendôme.

Không! Không đời nào tôi chịu trao cô gái hồn nhiên trong trắng Loitia cho bọn chủ nhà chứa Braxin. Tôi sẽ lui về sống vĩnh viễn ở làng T. Tôi sẽ làm nghề dạy học trong yên bình và giản dị. Tôi sẽ có bên cạnh một người vợ yêu tôi, một linh mục già, một Đại tá đáng mến, một viên chưởng khế và một ông chủ hiệu thuốc tây dễ thương…

Mưa quất vào ô kính, ngọn lửa trong lò sưởi tỏa ra một làn ánh sáng dịu dàng.

Vị linh mục trìu mến trò chuyện với tôi. Loitia cúi mái đầu lên giỏ khâu vá. Thỉnh thoảng nàng ngước mắt lên và bốn con mắt chúng tôi gặp nhau. Linh mục bảo tôi đọc một bài thơ…

Trái tim tôi, nở nụ cười về tương lai

Tôi đã thôi thốt ra những lời lẽ cay nghiệt

Và đã loại bỏ, những hình ảnh đen tối…

Rồi:

… Gian phòng, vòng sáng thu hẹp của ngọn đèn.

Ban đêm, trong gian phòng nhỏ của khách sạn, tôi viết phần đầu cuốn “Hồi ký” của tôi để loại ra khỏi đầu tôi những kỷ niệm về một thời trai trẻ bão táp. Với niềm tin cậy tôi ngắm nhìn núi rừng, quán giải khát Municipal và nhà thờ. Tôi căm ghét những lời dối trá đã làm tôi đau khổ bao nhiêu rồi, Đất là thứ không biết nói dối.

Những quyết định đẹp đẽ trên chất đầy lồng ngực, tôi cất cánh bay lên và đi dạy môn lịch sử nước Pháp. Tôi dành cho học sinh của tôi một bài giảng hùng hồn về Jeanne d’Arc. Tôi tham dự vào mọi cuộc Thập tự chinh, tôi chiến đấu ở Boivines, ở Rocroi và trên cầu Arcole. Than ôi, chẳng bao lâu tôi nhận ra rằng, tôi không có được niềm furia francese[72]>. Các hiệp sĩ tóc vàng càng đi càng bỏ tôi tụt lại phía sau và những lá cờ thêu hình bông hoa bách hợp cứ tuột dần khỏi bàn tay tôi. Lời than vãn của một nữ ca sĩ Do Thái kể với tôi về một người chết không mang đinh thúc ngựa, không có lông chim đà điểu trên mũ, cũng không đeo găng tay trắng.

Cuối cùng, không chịu nổi, tôi trỏ ngón tay về phía Gran Gevrier, người học trò xuất sắc nhất của tôi:

- Chính là một người Do Thái đã đập vỡ cái bình Soissons[73]>. Một người Do Thái, anh nghe thấy chưa? Anh hãy nhắc lại cho tôi một trăm lần: “Người đập vỡ cái bình Soissons là một người Do Thái”. Học cho thuộc bài, Gran Gevrier! Điểm không, Gran Gevrier! Tôi phạt anh một Chủ nhật không được ra ngoài!

Gran Gevrier òa khóc. Tôi cũng khóc.

Tôi lao đầu ra khỏi lớp học và đánh điện cho Nam tước Lévy- Vendôme, báo tin tôi sẽ trao cô Loitia cho ông ta vào thứ Bẩy tới. Tôi đề nghị điểm gặp gỡ để trao “hàng”: là thành phố Genève của Thụy Sĩ. Cuối cùng, tôi ngồi viết cho đến ba giờ sáng bản văn sám hối: “Một tên Do Thái trên vùng thôn quê”, trong đó tôi tự phê phán đã có lúc yếu đuối, chót yêu miền thôn quê Pháp. Tôi không thèm lựa lời gì hết, mà viết thẳng ra: “Sau khi đã là một tên Do Thái cộng tác với quân phát xít chiếm đóng giống như Joanovici Sachs, Raphael Schlemilovitch đã giả vờ làm cái trò “Quay về với đất đai” như Barrès Pétain. Đến bao giờ mới chấm dứt cái vở hài kịch đê tiện của tên Do Thái đáng xấu hổ như Simone Weil Céline? Của tên Do Thái tài ba Proust Saniel, Halévý Maurois? Chúng tôi muốn gã Raphael Schlemilovitch hãy vui lòng làm một tên Do Thái, chỉ Do Thái mà thôi…”

Bài văn sám hối ấy viết xong, tôi bỗng thấy mọi thứ xung quanh lấy lại được những màu sắc mà tôi hằng yêu mến. Những ngọn đèn pha rọi ánh sáng sục sạo khắp quảng trường giữa làng. Tiếng ủng lính nện trên vỉa hè. Người ta đánh thức Đại tá Aravis, chưởng khế Forclaz Manigot, chủ lò bánh mì Gruffaz, chủ hiệu thuốc tây Petit Saravin, linh mục Parrache, giáo sĩ Saint Gervais, cậu học trò Cran Gervier yêu quý nhất của tôi, cô Loitia - vị hôn thê của tôi. Người ta dò hỏi họ về tôi. Một tên Do Thái ẩn náu giữa vùng Savoie. Một tên Do Thái nguy hiểm. Kẻ thù số một của dân chúng. Cái đầu của tôi được đặt thành thánh giá. Người ta nhìn thấy tôi lần cuối cùng là bao giờ? Tất nhiên bạn bè tôi tố cáo tôi. Thế là cảnh sát mò đến khách sạn Trois Glaciers. Chúng đẩy cửa vào phòng tôi. Còn tôi thì vẫn nằm trên giường chờ đợi, đúng thế, vừa chờ đợi vừa huýt sáo một điệu nhạc menuet.

Tôi uống li rượu mận vùng sông Meuse cuối cùng trong tiệm giặt Municipal. Đại tá Aravis, viên chưởng khế Forclaz Manigot, ông chủ hiệu thuốc tây Petit Saravin và bác chủ lò bánh mì Gruffaz chúc tôi lên đường may mắn.

- Chiều mai tôi sẽ về kịp để đánh bài, - tôi bảo họ. – Tôi sẽ mua sôcôla Thụy Sĩ về thết các ông.

Tôi báo với linh mục Parrache là cha tôi đang nghỉ tại một khách sạn ở Genève và muốn gặp tôi trò chuyện một đêm. Linh mục chuẩn bị cho tôi một gói lương khô ăn đường và dặn tôi trên đường về đừng la cà.

Xe ca chạy đến Veyrier du Lac thì tôi xuống trước cửa nhà thờ Notre Dame des Fleurs. Lát sau Loitia chui qua cánh cổng bằng gang. Thế là mọi thứ diễn ra đúng như tôi bố trí. Cặp mắt nàng sáng lên khi tôi nói với nàng về tình yêu, về làn nước trong vắt, kể nàng nghe chuyện những vụ bắt cóc, những cuộc phiêu lưu mạo hiểm của các hiệp sĩ đời xưa. Tôi dẫn nàng ra ga xe ca. Sau đó chúng tôi lên xe đi Genève. Hành trình sẽ là Cruseilles, Annemasse, Saint Julien, Genève và cuối cùng là Rio de Janeiro.

Các nhân vật thiếu nữ của Giraudoux đều thích ngao du, nhưng Loitia lại tỏ vẻ hơi lo ngại. Nàng bảo tôi rằng nàng đã không đem theo va li. Không có gì hệ trọng.

- Đến nơi chúng ta sẽ mua sắm. Anh sẽ giới thiệu em với cha anh, Nam tước Lévy-Vendôme và ông sẽ tặng em vô số quà quý. Rồi em sẽ thấy cha anh rất đáng yêu. Đầu hói. Đeo kính một mắt và hút một cái tẩu rất dài bằng ngọc. Em đừng sợ. Cha anh sẽ chỉ mong em được sung sướng.

Chúng tôi vượt qua biên giới. Rất nhanh. Chúng tôi uống một cốc nước ép hoa quả trong quầy rượu của khách sạn Bergues trong lúc chờ ông Nam tước. Ông bước về phía hai chúng tôi, theo sau ông là hai tên khỉ đột Mouloud và Mustapha. Rất nhanh. Ông ta hít cái tẩu thuốc theo cách như người đang bị kích động mạnh. Ông ta sửa lại chiếc kính một mắt rồi đưa tôi một phong bì tiền dầy cộm.

- Tiền công của cậu đấy, Schlemilovitch! Còn cô bé kia tôi sẽ lo! Cậu phải gấp gáp lên, không lần chần gì nữa! Vụ Savoie đã xong, bây giờ cậu phải đi Normandie. Khi nào đến nơi cậu gọi điện ngay về Bordeaux cho tôi.

Loitia hoảng hốt nhìn tôi. Tôi hứa với nàng là tôi sẽ quay lại sớm.

Suốt đêm đó tôi lang thang dọc bờ sông Rhône, nghĩ đến Jean Giraudoux, đến Colette, Marivaux, Verlaine, Charles D’Orléans, Maurice Scève, Rémy- Belleau và Corneille. Bên cạnh những nhà văn thơ đó, tôi thật đáng xấu xa. Tôi hoàn toàn không xứng đáng với họ. Tôi thầm xin họ thứ tội là đã ra chào đời trên đảo Ile-de-France[74]>, chứ không phải ở Wilna Lutianie[75]>.

Tôi viết tiếng Pháp mà thấy ngượng tay: một thứ tiếng tinh tế đến như vậy mà khi cầm bút, thứ tiếng ấy như bốc mùi… Tôi ngoáy thêm năm chục trang nữa. Cuối cùng tôi đã bỏ. Tôi đã phản bội tiếng Pháp!

Tôi tính đến miền nam Normandie để hoàn tất việc giáo dục tình cảm của tôi. Fourgeire-Jusquiames, một thị trấn nhỏ thuộc vùng Calvados, có một lâu đài cổ thế kỷ XVII. Tôi thuê một phòng khách sạn như ở T. Lần này tôi đóng vai đại diện một hãng buôn bán sản phẩm miền nhiệt đới. Tôi biếu bà chủ khách sạn vài hộp hoa quả nhiệt đới và hỏi bà về nữ chủ nhân tòa lâu đài cổ, Veronique de Frogeire-Jusquiames. Bà chủ khách sạn tuôn ra tất cả những gì bà ta biết: vị tiểu thư Quận chúa này sống một thân một mình, dân làng chỉ nhìn thấy nàng ngày Chủ nhật trong buổi lễ lớn ở nhà thờ. Năm nào Quận chúa cũng tổ chức một cuộc săn bắn theo kiểu dượt đuổi, dùng ngựa và chó săn. Chiều thứ Bẩy, du khách có thể vào tham quan tòa lâu đài, mỗi người trả ba trăm frăng. Hervé, lái xe cho Quận chúa làm chân hướng dẫn du lịch.

Ngay tối hôm đó, tôi gọi điện cho Nam tước Lévy-Vendôme báo tin tôi đã đến Normandie. Ông yêu cầu tôi hoàn thành công việc cho thật nhanh: Khách hàng của chúng tôi, vị chức sắc Samandal, ngày nào cũng đánh điện cho ông, giọng sốt ruột và đe sẽ hủy hợp đồng nếu “hàng” không được giao sau đây tám ngày. Rõ ràng Nam tước Lévy-Vendôme không hình dung được những khó khăn của tôi ở đây. Làm sao tôi, Raphael Schlemilovitch, có thể tiếp xúc được với Quận chúa trong một hai ngày? Nhất là tôi không phải đang ở Paris mà ở lãnh địa Frogeire-Jusquiames, nằm giữa vùng thôn quê nước Pháp. Ở đây người ta không để cho một người Do Thái, dù anh ta rất đẹp trai đi nữa, bước vào lâu đài, trừ các chiều thứ Bảy, khi y đi cùng với những khách tham quan nông dân khác.

Suốt đêm tôi nghiên cứu hồ sơ lai lịch của Quận chúa mà Nam tước Lévy-Vendôme thảo ra sau khi tổng hợp rất nhiều tư liệu. Các tư liệu ông sử dụng rất quý.

Cuốn Biên niên sử tầng lớp quý tộc Pháp soạn năm 1843 do Bá tước Samuel Bloch-Morel khẳng định:

“FOUGEIRE-JUSQUIAMES

Nơi cư trú: Normandie-Poitou.

Chi: Jourdain de Jusquiames, con ngoài giá thú của Quận chúa Aliénor d’Aquitaine.

Châm ngôn của dòng họ: “Jusquiames hãy cứu linh hồn, Fougeires sẽ không bỏ ngươi”. Dòng họ Jusquiames đến năm 1385 thì nhường chỗ cho dòng họ của các Công tước Fougeire đầu tiên.

Tước hiệu: Quận công Jusquiames (lãnh địa cha truyền con nối). Giấy công nhận chính thức đề ngày 20 tháng Chín 1603. Thành viên thế tập của Văn phòng Nguyên lão. Sắc lệnh ban hành ngày 3 tháng Sáu 1814. Quận công kiêm Huân tước thế tập (Quận công Jusquiames), sắc lệnh ban hành ngày 30 tháng Tám 1817. Dòng thứ: Bá tước La Mã, bản tóm tắt thảo ngày 19 tháng Sáu 1819, chuẩn y theo sắc lệnh ban ngày 7 tháng Chín 1822. Hoàng thân, do Vua xứ Bavière cấp bản chứng nhận ngày 6 tháng Ba 1846, được quyền tập tước cho con cháu đời đời. Công tước kiêm Huân tước thế tập, sắc lệnh ngày 10 tháng Sáu 1817.

Hình huy hiệu dòng họ: hai đầu sư tử trên nền xanh da trời với ba bông hoa bách hợp và những ngôi sao lơ lửng bên trên.

Robert de Clary, Villehardoui và Henry de Valenciennes, trong cuốn biên niên của Đoàn Thập tự chinh thứ tư, đã cấp bằng khen cho các lãnh chúa dòng họ Fougeire. Froissart, Commynes và Montluc không tiếc lời khen ngợi các tướng lĩnh dòng họ Jusquiames.

Trong chương X cuốn Lịch sử Saint-Louis của mình, Joinville đã nhắc đến công tích của một hiệp sĩ dòng họ Fougeire như sau: “Thế là hiệp sĩ giơ cao thanh kiếm, đâm thẳng vào mắt tên Do Thái khiến hắn ngã lăn ra đất. Đám Do Thái vội vã bỏ chạy, đem theo thủ lĩnh bị thương nặng của chúng”.

Sáng chủ nhật, y[76]>chực sẵn trước cửa vào của nhà thờ. Khoảng mười một giờ, một xe hơi limousine đen chạy đến quảng trường. Tim y đập thình thịch. Một phụ nữ tóc vàng quý phái bước đến nhưng y không dám nhìn nàng. Y đi theo nàng vào nhà thờ đồng thời cố ghìm cơn hồi hộp. Khuôn mặt y tinh khiết làm sao! Bên trên đầu nàng, là bức họa lồng trong khung kính vẽ cảnh Quận chúa Aliénor d’Aquitaine dẫn quân tiến vào thành Jerusalem. Người ta bảo họa sĩ đã lấy mẫu Quận chúa Fougeire-Jusquiames để vẽ Quận chúa Aquitaine. Nhân vật trong bức họa cũng làn tóc vàng, cũng dáng nghiêng đầu, cũng cái cổ thanh tú ấy. Y đưa mắt hết nhìn Quận chúa đang sống lại nhìn vị Quận chúa đã chết trên bức họa và y thầm nghĩ:

“Nàng quả là kiều diễm! Quả là quý phái! Trông diễm lệ biết bao, vị Quận chúa kiêu kỳ của dòng họ Jusquiames. Một con cháu của Quận chúa Aliénor d’Aquitaine nổi tiếng xưa kia lúc này đang đứng trước mặt mình!”

Hoặc nữa:

“Quang vinh trước cả Đại đế Charlemagne, các đại quý tộc dòng họ Jusquiames đã từng nắm quyền cho sống được sống, bắt chết phải chết đối với các vị vua chúa, chư hầu. Hầu tước tiểu thư Fougeire-Jusquiames này mang dòng máu của Quận chúa quang vinh ngày xưa, người sau này trở thành Hoàng hậu Aliénor d’Aquitaine. Nàng không thèm quen biết và không hạ cố quen biết bất kì một người nào ở đây”.

Nhất là quen biết một kẻ mang dòng họ Do Thái Schlemilovitch. Y quyết định bỏ, thôi không tiến hành công việc này: Nam tước Lévy-Vendôme sẽ hiểu họ ôm tham vọng quá lớn so với sức của họ. Biến Quận chúa Aliénor d’Aquitaine thành gái đĩ ở nhà chứa! Chỉ nghĩ đến triển vọng đó cũng lâm y phẫn nộ. Con người có thể mang tên họ Schlemilovitch nhưng vẫn còn chút ít lương tâm sót lại trong đáy lòng chứ! Tiếng nhạc của đàn đại phong cầm và tiếng hát đồng ca của dàn hợp xướng nhà thờ đánh thức cái thiện bẩm sinh trong lòng y. Không đời nào y nỡ trao nữ chúa kia, nàng tiên kia, vị thánh nữ kia vào tay bọn Hồi! Y muốn cố gắng làm kẻ hầu kẻ hạ Do Thái cho nàng.

Nhưng khốn nỗi phong tục đã thay đổi biết bao kể từ thế kỷ XII đến nay, khiến Quận chúa Fougeire-Jusquiames không còn hình dung ra được dòng máu cao quý trong huyết quản của nàng. Y sẽ ăn cắp căn cước của bạn y Essarts để nhanh chóng tiếp cận nàng. Y cũng sẽ kể về tổ tiên y, về tướng quân Essarts, người đã mổ bụng hai trăm tên Do Thái trước khi lên đường tiến hành cuộc Thập tự chinh. Foulques rất có lý, những tên kia đã dám hò reo vui thú đem bánh thánh ra nấu lên! Giết chết bọn chúng chỉ là một cách trừng phạt quá nhẹ. Xác hàng trăm tên Do Thái chắc chắn làm sao bằng được thân thể thiêng liêng của Đức Chúa Lòng Lành?

Ra khỏi buổi lễ, Quận chúa đưa đôi mắt thản nhiên và xa vắng nhìn các tín đồ. Phải chăng y tưởng tượng ra là như thế? Cặp mắt xanh biếc diễm lệ của nàng dừng lại chăm chú nhìn y. Hay nàng đoán được ý nghĩ sùng bái đã xuất hiện một tiếng đồng hồ trong lòng y?

Y chạy ngang qua quảng trường nhà thờ. Khi chiếc limousine đen chỉ còn cách y hai chục mét, y ngã lăn ra mặt đất, giả vờ bị ngất. Y nghe thấy tiếng phanh rít. Một giọng dịu dàng cất lên:

- Gerald, vực chàng trai tội nghiệp kia lên xe cho ta! Chắc ông ta bị cảm! Mặt ông ta tái nhợt kia kìa! Đem ông ta về lâu đài, ta sẽ cho ông ta uống rượu rum để ông ta hồi lại.

Y cố không mở mắt. Lớp vải bọc hàng ghế sau, nơi người tài xế đặt y nằm, thoang thoảng mùi da thuộc nước Nga, nhưng chỉ cần y thầm nhắc đi nhắc lại trong óc cái tên họ dịu dàng Jusquiames là lập tức mùi hương thơm hoa viôlét và hoa đồng nội lại thoang thoảng lọt vào mũi y. Y mơ thấy làn tóc vàng mềm mại của Quận chúa Aliénnor xưa kia, mơ thấy tòa lâu đài cổ y đang đến gần. Không một lúc nào trong óc y thoáng có ý nghĩ rằng sau khi đã từng là một tên Do Thái cộng tác với phát xít chiếm đóng, một tên Do Thái mơ tốt nghiệp trường Cao đẳng Sư phạm Pháp, một tên Do Thái đã sống ở tỉnh lẻ, y lại được trở thành một người Do Thái cao sang trong cái xe limousine treo lá cờ nhỏ thêu huy hiệu dòng họ của Quận chúa (có hai đầu sư tử trên trời nền xanh biếc kèm theo những bông hoa bách hợp và những ngôi sao).

Nàng Quận chúa không hề dò hỏi y, như thể chuyện y có mặt trong lâu đài này là hoàn toàn tự nhiên. Họ cùng dạo chơi ngoài vườn. Nàng trỏ y xem các loại hoa và những dòng nước mạch trong vắt. Cuối cùng họ quay vào lâu đài. Y thán phục bức họa vẽ chân dung Hồng y giáo chủ Fougeire-Jusquiames do họa sĩ Lebrun thực hiện, bức vẽ những hiệp sĩ ở Aubusson, những bộ áo giáp sắt cùng nhiều kỷ vật khác của dòng họ, trong đó có bức thư do đích thân vua Louis XV viết cho Quận công Fougeire-Jusquiames. Nàng Quận chúa làm y như lạc vào cõi tiên. Qua giọng nói của nàng, y thấy được toàn bộ sự khắc nghiệt của vùng đất thôn dã này. Như người bị thôi miên, y tự nhủ: “Nghị lực và duyên dáng của một đứa con gái quý tộc Pháp, ngay từ nhỏ đã nhẩy lên lưng ngựa, đánh đập mèo và chọc mắt thỏ…”

Bữa ăn tối được soi sáng bằng những ngọn nến và tài xế Gerald hầu hạ. Sau bữa tối y cùng Quận chúa trò chuyện trước lò sưởi rất lớn của phòng tiếp khách. Quận chúa kể về nàng, về tổ tiên nàng, về những người trong dòng họ nàng… Chẳng bao lâu y đã thuộc lòng tất cả những gì liên quan đến dòng họ quý tộc Fougeire-Jusquiames.

Tôi ve vuốt bức họa của Claude Lorrain treo trên bức tường bên trái phòng ngủ của tôi: Quận chúa Aliénor d’Aquitaine xuống chiến thuyền để đánh sang phương Đông. Sau đấy tôi ngắm bức Chàng Arlequin sầu não của danh họa Watteau. Tôi đi vòng bên ngoài tấm thảm của hãng Savonnerie, sợ làm bẩn nó. Tôi không xứng đáng được ngủ trong căn phòng quý giá này, cũng không xứng đáng được thấy thanh đoản kiếm treo bên trên lò sưởi kia. Cũng không xứng đáng với bức họa chân dung Philippe de Champaigne treo bên trái giường ngủ của tôi, chiếc giường vua Louis XV đã ngự ở đây cùng với tiểu thư La Vallière. Quan cửa sổ tôi nhìn thấy một nữ kỵ sĩ đang phi ngựa qua khu vườn. Đúng là sáng nào cũng vậy, nữ Quận chúa ra khỏi lâu đài từ năm giờ sáng để cưỡi con ngựa Bayard mà nàng quý nhất. Nàng vừa lấp sau một chỗ đường ngoặt. Không khí vẫn tuyệt đối lặng lẽ. Thế là tôi quyết định viết một thứ tiểu sử dưới dạng tiểu thuyết.

Tôi ghi lại tất cả những chi tiết mà Quận chúa đã cho tôi biết về dòng họ của nàng. Tôi sử dụng chúng để soạn phần đầu trong tác phẩm của tôi nhan đề: “Từ phía Fougeire-Jusquiames”, hay “Hồi kí của Saint-Simon được xem lại và sửa chữa do nàng Schéhérazade[77]> và vài học giả Do Thái”.

Vào thời tuổi thơ Do Thái của tôi ở phố bờ sông Conti thủ đô Paris, cô gia sư Evelyn đã đọc cho tôi nghe “Ngàn lẻ một đêm” và những “Hồi kí” của Saint-Simon. Sau đó tôi tắt đèn, để hé mở phòng ngủ của tôi cốt để trước khi ngủ tôi nghe thấy tiếng nhạc bản Schéhérazade Sol trưởng của Mozart. Trong lúc tôi thiu thiu ngủ nàng Schéhérazade và Quận công Saint-Simon đã cùng nhau quay hộp hình ảnh. Và tôi mơ màng chứng kiến nàng Công chúa xứ Ursins bước vào hang của chàng Ali Baba. Tôi tham dự đám cưới tiểu thư La Vallière lấy chàng Aladin, chứng kiến vụ vua Hồi giáo Harounal Rachild bắt cóc phu nhân Soubise. Những chuyện kể phương Đông chen lẫn những chuyện ở cung điện Versailles tạo nên một thế giới thần tiên mà bây giờ tôi cố gắng tái hiện trong các tác phẩm của mình.

Chiều xuống, Quận chúa Fougeire-Jusquiames lại phi ngựa qua bên ngoài cửa sổ phòng tôi. Lúc thì tôi thấy nàng là nàng tiên Mélusine, lúc lại là Nàng Bạch Tuyết có làn tóc vàng óng ả. Tôi mơ màng, tưởng như từ thời cô gia sư người Anh đọc truyện cho tôi nghe đến lúc này chưa có gì thay đổi. Tôi ngắm một lần nữa những bức họa treo trong phòng. Cô gia sư Evelyn thường đưa tôi đến viện bảo tàng Lourve. Chỉ cần qua cầu sang bên kia sông Seine. Tác phẩm của các danh họa Claude Lorrain, Philippe de Champaigne, Watteau, Delacroix, Corot đã đem màu sắc vào tuổi thơ của tôi. Nhạc Mozart hay Haydn đã ru tôi ngủ. Schéhérazade và Saint-Simon đã đem niềm vui đến cho tôi. Tuổi thơ đặc biệt, tuổi thơ tuyệt diệu mà tôi thấy cần phải nói đến. Tôi bắt tay vào viết “Từ phía Fougeire-Jusquiames”. Trên thứ giấy mịn in hình gia huy của Quận chúa ở góc, tôi run rẩy viết bằng thứ chữ nhỏ li ti:

“Đó là lâu đài Fougeire-Jusquiames với tính chất khung cảnh cho một cuốn tiểu thuyết, một quang cảnh tưởng tượng mà tôi cố gắng lắm mới hình dung ra nổi, nhất là niềm khao khát tách ra được trong mớ bòng bong những miền đất, những con đường đan xen của câu chuyện cao quý xa xưa…”

Viên tài xế Gerald gõ cửa phòng tôi, báo tin bữa ăn tối đã bày xong.

Tối hôm đó, họ không trò chuyện trước lò sưởi phòng khách như mọi khi. Nàng Quận chúa dẫn y vào phòng nghỉ lớn, tường bọc dạ xanh nước biển, nằm ngay bên cạnh phòng ngủ của nàng. Chiếc giá cắm ba ngọn nến hắt ra một làn ánh sáng huyền ảo. Trên sàn đặt rải rác nhiều chiếc gối màu đỏ. Trên tường treo vài bức tranh khắc gỗ tuyệt đẹp của Moreau, Girard, Binet, một bức nét vẽ khắc khổ y đoán là của Hyacinthe Rigaut, nhưng thể hiện của Quận chúa Aliénor d’Aquitaine xưa kia đúng lúc nàng đang bị lung lạc và si mê trước Saladin, thủ lĩnh quân Do Thái.

Cửa xịch mở. Quận chúa mặc tấm áo dài bằng vải rất mỏng, thấy rõ cặp vú của nàng buông thõng thoải mái.

- Có đúng tên họ ông là Schlemilovitch không? Nàng hỏi bằng cái giọng rẻ tiền của con gái ngoại ô khiến y không còn nhận ra. Sinh tại Boulogne Billancourt chứ gì? Tôi đã thấy trong tấm thẻ căn cước của ông. Gốc Do Thái! Tôi rất thú đấy! Ông cậu ba đời của tôi, Palamède de Jusquiames, chuyên nói điều xấu cho dân Do Thái, nhưng tôi lại thán phục Marcel Proust! Những người trong dòng họ Fougeire-Jusquiames, ít ra là phụ nữ, không hề có định kiến với người phương Đông. Tổ tiên của tôi, Quận chúa Aliénor đã lợi dụng cuộc Thập tự chinh thứ hai để tằng tịu với một người đàn ông Do Thái, trong khi chồng bà, vua Louis khốn khổ thì đang dậm chân tại chỗ trước thành Damas! Một tổ tiên khác của tôi, Nữ hầu tước Jusquiames, mê con trai sứ thần Thổ Nhĩ Kì vào khoảng năm 1720! Tôi cần nói luôn rằng tôi đã nhìn thấy ông lên cả một hồ sơ “Fougeire-Jusquiames!” Cảm ơn mối quan tâm của ông đến dòng họ của tôi! Tôi cũng đã đọc cả câu đáng yêu sau đây, chắc do những ngày sống ở tòa lâu đài cổ này tạo cảm hứng cho ông: “Đó là lâu đài Fougeire-Jusquiames với tính chất khung cảnh cho một cuốn tiểu thuyết, một quang cảnh tưởng tượng…” Ông tự thấy ông là Marcel Proust, thưa ông Schlemilovitch? Điều này rất trầm trọng! Dù sao ông cũng không nên phung phí cả tuổi thanh xuân của ông vào việc chép lại Đi tìm thời gian đã mất! Tôi muốn cảnh báo ông ngay bây giờ rằng tôi không phải nàng tiên trong thời thơ ấu của ông! Người đẹp ngủ trong rừng! Quận chúa Guermantes! Người đàn bà trong bông hoa! Ông phí công vô ích! Ông hãy đối xử với tôi như với một con đĩ trên phố Lombards còn hơn là sùi bọt mép ca tụng những danh hiệu quý tộc của tôi! Nền trời xanh biếc với những bông hoa bách hợp! Villehardoiu, Froissart, Sanit-Simon và tutti quanti[78]>! Một chàng trai huyênh hoang! Một kẻ Do Thái lên mặt! Bỏ cái trò nghiêng đầu, thưa gửi ấy đi! Bộ mặt đĩ đực của ông kích thích cơn dục tình của tôi! Hãy đè tôi đi! Hỡi gã dâm dật đáng yêu! Chàng đẹp trai! Vật quý của tôi! Có thật anh tin rằng lâu đài Fougeire-Jusquiames này là “khung cảnh cho cuốn tiểu thuyết, một quang cảnh tưởng tượng…” không? Một nhà chứa! Anh nghe rõ chứ? Xưa nay, bao giờ cái lâu đài này cũng là một nhà chứa, nhà chứa cao cấp! Rất đắt khách vào thời quân Đức chiếm đóng! Cha tôi ngày còn sống, chuyên làm chân mối lái cho đám trí thức Pháp cộng tác với chính quyền chiếm đóng. Những bức tượng của Anro Breker, những phi công trẻ của không quân Đức, những tên S.S, những đoàn viên thanh niên Hitler, tất cả đàn bà con gái ở tòa lâu đài này đều được huy động để thỏa mãn những kẻ đó! Cha tôi hiểu rằng tình dục quyết định chính trị! Bây giờ ta hãy nói về ông, Schlemilovitch! Ông đừng nên mất thời giờ vô ích! Ông là Do Thái! Tôi đoán ông thích hiếp dâm một Quận chúa Pháp chứ gì? Hỡi chàng trai Do Thái! Trong nhà kho kia em có cả một loạt phục trang! Chàng muốn em cải trang thành Hoàng hậu Anne d’Autriche không, chàng trai thiên thần của em? Hay nàng Blanche de Castille? Hay Marie Leczinzka? Hay chàng muốn hôn Quận chúa Adelaide de Savoie? Hay Margeurite de Provence? Jeanne d’Albert? Chàng chọn đi! Em sẽ cải trang thành bất kỳ nàng quý tộc mệnh phụ nào chàng muốn! Đêm nay tất cả các Nữ hoàng, Hoàng hậu nước Pháp sẽ làm đĩ cho chàng tha hồ giày vò!…

Tuần lễ sau đấy quả là thần tiên: Quận chúa Fougeire-Jusquiames liên tiếp thay đủ kiểu trang phục để kích thích lòng thèm muốn của y. Y chừa ra các Hoàng hậu nước Pháp còn thì hãm hiếp tất cả: bà Chevreuse, Quận chúa Berry, hiệp sĩ Eon, Bossuet, Saint Louis, Bayard, Du Guesclin, nữ anh hùng Jeanne d’Arc, Công tước Toulouse và cả tướng Boulanger.

Thời gian còn lại y cố tìm cách thân thiện cao độ với gã tài xế Gerard.

- Tên tài xế của em nổi tiếng trong vùng này, Veronique[79]> kể riêng với y. Đám lưu manh côn đồ đặt biệt danh cho gã là Nhà tang lễ hoặc Gerard Gestapo. Trước kia gã tham gia băng cướp ở phố Lauriston. Gã được cha em lấy vào làm thư ký cho cụ.

Cha của y cũng biết Gerard Gestapo. Cha y đã kể với y trong thời gian hai cha con sống ở Bordeaux. Ngày 16 tháng Bảy 1942, Gerard đã tống cha của Raphael Schlemilovitch lên một chiếc xe màu đen: “Mi chịu đến nhận diện một tên ở phố Lauriston và đi một vòng lên thăm bãi đua xe đạp Mùa đông chứ?” rồi ngắm nghía bộ âu phục xanh màu nước sông Nil của Schlemilovitch.

- Chà, đôi găng tay bằng da hoẵng màu tím và chiếc khăn quàng len màu da cam!

Gerard nói thêm: “Đúng là một thằng công tử! Mi sẽ làm bọn tù ở Auschwitz nổi cáu lắm đây!”. Schlemilovitch - Con không nhớ điều thần kỳ nào đã làm cha thoát khỏi bàn tay của tên đồ tể này.

Một đêm cậu[80]> rời khỏi ả Quận chúa thì bắt gặp Gerard đang chống khuỷu tay lên lan can một sân trời nhỏ.

- Anh thích ánh trăng phải không? Trăng yên tĩnh, buồn và đẹp, thơ mộng nữa phải không, Gerard?

Gã chưa kịp đáp thì cậu đã bóp cổ gã. Những đốt sống ở cổ gã kêu lách cách đều đặn. Cậu vốn không có thói thích hành hạ các xác chết. Cậu chỉ thích cắt hai tai gã bằng một lưỡi dao cạo râu Gillette xanh biếc. Rồi xẻo hai mi mắt. Sau đó móc hai mắt gã ra khỏi hốc mắt. Gã chỉ còn đánh lập cập hai hàm răng. Ba cái gót giầy thế là đủ kết liễu đời lão.

Trước khi chôn Gerard, cậu đã nghĩ hay là nhồi rơm rồi gửi sang cho cha cậu, nhưng cậu không nhớ địa chỉ của Công ty hữu hạn Schlemilovitch ở New York.

Mọi mối tình đều chóng tàn. Ả Quận chúa đang cải trang thành Quận chúa Aliénnor đang phó mặc thân xác ả cho tôi, thì tiếng xe hơi cắt ngang cơn hung hãn làm tình của hai chúng tôi. Tiếng phanh rít. Tôi ngạc nhiên thấy một điệu nhạc di-gan. Cửa phòng khách bật mở thô bạo. Một người quấn tấm khăn đỏ trên đầu đi vào. Mặc dù ông ta cải trang thành một thày tu khổ hạnh Ấn Độ, tôi vẫn nhận ra đó là Nam tước Lévy- Vendôme.

Ba nhạc công viôlông theo chân ông ta đang chơi phần hai của một điệu nhạc csardas. Cuối cùng đến hai tên khỉ đột Mouloud và Mustapha.

- Có chuyện gì vậy, Schlemilovitch? Vị Nam tước hỏi tôi. Tại sao đã bao nhiêu ngày rồi ta không nhận được một tin nhỏ của cậu?

Ông ta đưa tay ra hiệu cho Mouloud và Mustapha.

- Dẫn mụ này ra xe Buick và canh chừng mụ cẩn thận. Xin bà tha lỗi tôi đến mà không báo trước, nhưng chúng ta không còn thời gian nữa! Đã một tuần nay người ta mong đợi bà ở Beyrouth!

Vài cái bạt tai dữ dằn của Mouloud chấm dứt mọi mưu đồ chống cự. Mustapha vừa ngáp vừa trói gô người bạn tình của tôi.

- Vậy là xong! Nam tước Lévy- Vendôme reo lên trong lúc hai hộ vệ của ông ta giải ả Veronique đi.

Vị Nam tước sửa lại chiếc kính một mắt:

- Công việc của cậu đã thất bại! Tôi đã tính bảo cậu trao ả Quận chúa cho tôi ở Paris, nhưng tôi lại phải đích thân đến lâu đài Fougeire-Jusquiames. Tôi tha tội cho cậu, Schlemilovitch! Bây giờ ta nói sang chuyện khác! Tối nay đã quá đủ đoạn tiểu thuyết đăng tải[81]> rồi. Tôi đề nghị cậu đến thăm tòa lâu đài này cùng với hai nhạc công của tôi. Chúng tôi là những chủ nhân mới của lâu đài Fougeire-Jusquiames. Mụ Quận chúa sẽ kí giấy hiến cho chúng ta toàn bộ của cải của mụ. Tự nguyện hoặc bị cưỡng bức.

Lúc này đây tôi vẫn còn như nhìn thấy lão già quái đản đó đầu quấn khăn đỏ, đeo kính một mắt, tay cầm giá nến kiểm kê tài sản tòa lâu đài, trong lúc hai nhạc công vẫn tiếp tục kéo các bản nhạc di-gan. Nam tước Lévy- Vendôme ngắm nghía rất lâu bức chân dung Hồng y giáo chủ Fougeire-Jusquiames và vuốt ve bộ áo giáp cổ xưa đã từng thuộc quyền sở hữu của một trong những tổ tiên của dòng họ này, đó là ngài Jourdain, con ngoài giá thú của Quận chúa Aliénor d’Aquitaine xưa kia. Tôi chỉ cho Nam tước Lévy-Vendôme xem phòng ngủ của tôi, những bức họa của Watteau, của Claude Lorrain, của Phipippe de Champaine và chiếc giường nơi vua Louis XV đã nằm ân ái với bà La Vallière. Lão Nam tước đọc câu tôi viết trên tờ giấy mịn màng in ở góc gia huy dòng họ của Quận chúa: “Đó là lâu đài Fougeire-Jusquiames với tính chất khung cảnh cho một cuốn tiểu thuyết, một quang cảnh tưởng tượng…”. Lão giận dữ nhìn tôi. Đúng lúc đó hai nhạc công kéo bản Wiezenlied, một bài ru con Do Thái.

- Vậy là dứt khoát chuyến công du đến lâu đài Fougeire-Jusquiames của cậu đã thất bại, Schlemilovitch! Những mùi hương của nước Pháp cổ xưa đã mê hoặc đầu óc cậu. Đến bao giờ cậu mới tỉnh ra? Cậu muốn theo Pháp một trăm phần trăm hẳn? Tôi thấy cần phải chặt đứt nỗi u mê ngu xuẩn của cậu. Cậu hãy đọc kinh thánh Talmuz của Do Thái chứ không phải soạn lịch sử các cuộc Thập tự chinh. Hãy thôi cái trò nhấm nước bọt lần giở những trang của cuốn sưu tầm các huy hiệu dòng họ quý tộc ấy đi… Hãy nghe tôi đi, ngôi sao của David[82]> có giá trị hơn tất cả những cái hình vớ vẩn này, nào là sư tử há mõm, nào là nền xanh da trời với mấy bông hoa bách hợp mạ vàng. Hay cậu tưởng cậu là Charles Swann đấy? Và cậu sẽ nộp đơn xin vào làm một chân giô kề? Và đến sống ở khu phố ngoại ô Saint- Germain? Ôi tên đội lốt! Tên goye. Tên cộng tác với phát xít chiếm đóng! Tên S.S. vũ trang! Chính cậu là Charles Swann, cậu nghe thấy rồi chứ, chính cậu là tên chuyên chài mấy mụ Quận chúa, là kẻ thạo ăn chơi, là tên được đám Guermates cưng chiều, bây giờ về già nhớ cội nguồn? Xin phép cậu, Schlemilovitch?

Lão Nam tước ra hiệu cho hai nhạc công ngừng kéo đàn rồi cao giọng nói oang oang:

- Mà không biết chừng, qua hắn, trong những ngày cuối cùng này, nòi giống ta đẩy lên đến cao độ đặc điểm thân xác, đồng thời cả tinh thần đoàn kết với những người Do Thái khác, tình đoàn kết mà hình như Swann suốt đời đã quên. Và cả những sự việc chắp nối: căn bệnh chết người, vụ án Dreyfus, sự tuyên truyền bài Do Thái, tất cả đã kích động lên…

“Cuối cùng, con người ta vẫn đi đến chỗ tìm lại những người của mình, Schlemilovitch! Ngay cả sau bao nhiêu năm dài lạc hướng!”

Lão nói như cầu kinh:

- Nòi giống Do Thái là tinh túy của Chúa Trời, còn những kẻ không phải Do Thái chỉ là con cháu của loài súc vật. Những kẻ sinh ra không phải Do Thái cốt để ngày đêm hầu hạ người Do Thái. Chúng ta ra lệnh rằng bất cứ người Do Thái nào ngày nào cũng phải ba lần nguyền rủa giống người Cơ-đốc và cầu nguyện Chúa Trời tiêu diệt chúng cùng với các vua chúa của chúng. Người Do Thái nào cưỡng hiếp hay lừa dối một con đàn bà nào không phải Do Thái, thậm chí giết nó, đều phải được trắng án, bởi như vậy chỉ có nghĩa là anh ta đã hành hạ một con ngựa cái.

Lão Nam tước bỏ tấm khăn phương Đông quấn trên đầu, nắn lại cái mũi giả nặn quá cong.

- Cậu chưa bao giờ nhìn thấy tôi đóng anh chàng Do Thái Suss chứ gì! Cậu thử tượng tượng xem, Schlemilovitch! Tôi vừa mới giết ả Quận chúa của cậu, uống máu của ả như một con ma cà rồng tự trọng. Chính dòng máu của bà Quận chúa Aliénor d’ Aquitaine và những gã hiệp sĩ thời xưa! Bây giờ ta dang ?