← Quay lại trang sách

Chương 2

Cha tôi mặc bộ vét bằng vải alpaga màu xanh Nil, sơ mi kẻ sọc xanh lá cây, thắt cà vạt đỏ, đi giầy da cừu non. Tôi vừa làm quen với ông trong phòng tiếp khách kiểu Thổ Nhĩ Kì của khách sạn Continental. Sau khi ký rất nhiều giấy tờ để chuyển quyền sở hữu một phần tài sản của tôi cho ông, tôi nói:

- Vậy là việc làm ăn của cha bên New York đang sa sút? Cha có ý định làm Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty hữu hạn Kính Vạn Hoa[48]> phải không? Chắc hẳn cha đã nhìn thấy là thị trường kính vạn hoa mỗi ngày một kém rồi chứ? Trẻ con bây giờ thích tên lửa, đồ điện tử, số học kia! Ngày nay không ai bỏ tiền ra để mơ mộng nữa. Với lại con thấy cần nói thẳng với cha: cha là người Do Thái, có nghĩa cha không có năng khiếu về buôn bán cũng như kinh doanh. Cha hãy nhường ưu thế đó cho người Pháp. Nếu cha biết đọc, con sẽ cho cha thấy cách con dựng lên mối so sánh song hành giữa hai ông chủ Peugeot với Citroen: một bên là tay nhà quê ở Montbéliard, dè sẻn từng xu, kín đáo và giàu lên dần. Còn bên kia, André Citroen, một người Do Thái liều lĩnh và bi thảm, cháy túi trong các sòng bạc. Vậy đấy, cha không có chất của một nhà chỉ huy kinh doanh. Cha chỉ là một người diễn trò leo dây! Thôi, con xin cha đừng ra vẻ này nọ nữa. Đừng vây vo gọi điện tới tấp hết đến Madagascar, lại đến Liechtenstein, đến Đất Lửa! Số kính vạn hoa tồn kho kia không bao giờ cha giải tỏa được hết đâu.

Cha tôi muốn trở lại Paris, nơi ông đã sống thời trai trẻ. Hai cha con đi uống vài ly gin fizz, ở Relais Plaza, ở nhà hàng Maurice, ở khách sạn Saint James và Albany, khách sạn Elisée Park, Grorge V, Lancaster. Trong con mắt của ông, đấy là những nhà hàng tỉnh lẻ. Trong lúc nhìn ông hút điếu xì gà Partagas, tôi nghĩ đến vùng Touraine và rừng Brocéliande. Tôi sẽ chọn nơi nào để ẩn dật đây? Tours? Nevera? Poitiers? Aurillac? Pezenas? Vùng Souterraine? Tôi biết rõ miền thôn quê nước Pháp qua cuốn sách hướng dẫn du lịch của Michelin và qua một số tác giả như Francois Muriac. Một cuốn của nhà văn vùng Landes này khiến tôi xúc động thật sự: cuốn Bordeaux hay tuổi thiếu niên. Tôi nhớ nỗi ngạc nhiên của ông khi tôi sôi nỗi đọc thuộc lòng đoạn văn xuôi tuyệt đẹp của ông: “Thành phố đó, nơi chúng tôi chào đời, nới chúng tôi đã từng là đứa trẻ thơ, một cậu thiếu niên, là thành phố duy nhất chúng tôi kiên quyết tránh không bình phẩm. Thành phố đó hòa vào con người tôi, nó chính là tôi. Lịch sử Bordeaux là lịch sử của thể xác và tâm hồn tôi”. Người bạn già của tôi liệu có hiểu rằng tôi ghen với tuổi niên thiếu của ông, học việc Sainte-Marie, quảng trường Quin-conces với mùi hương của cỏ thạch thảo nóng hổi, của cát ấm và của nhựa thông? Tôi làm gì có tuổi niên thiếu nào để có thể nói tới, tôi, Schlemilovitch, nếu không là cái tuổi niên thiếu của một thằng bé Do Thái cùng khổ, tha hương? Tôi sẽ không thể là Gerard de Nerval, cũng không thể là Francois Muriac, thậm chí không thể là Marcel Proust. Không có đất Valois để sưởi ấm trái tim tôi, cũng không có vùng Guyenne, đất Combray. Tôi làm gì có bà cô Léonie nào. Số phận buộc tôi phải lang thang ở quán hàng Fouquet, ở Relais Plaza, ở Elysée Park uống những thứ rượu mùi thảm hại của dân Anglo Saxon cũng với một ông già cao lớn người New York nhưng gốc Do Thái: cha tôi. Chất men đẩy ông đến chỗ thổ lộ niềm tâm sự, giống như Maurice Sachs, ngay ngày đầu tiên hai cha con chúng tôi gặp nhau, chỉ khác nhau một chút: Sachs đọc trước tác của Saint-Simon, cha tôi thì đọc sách của Maurice Dekobra. Sinh tại Caracas trong một gia đình Do Thái lưu lạc sang ven biển Địa Trung Hải, cha tôi vội vã rời khỏi châu Mỹ để trốn bọn cảnh sát của tên độc tài ở các hòn đảo Galapagos, bởi ông đã quyến rũ được con gái của hắn. Tại Pháp ông đã trở thành thư ký của Stavisky. Vào thời đó cha tôi ăn mặc rất sang: theo kiểu giữa Valentino và Novaro, kèm theo chút xíu của Douglas Fairbanks, do đấy ông đã làm xao xuyến trái tim bao cô gái Aryen. Mười năm sau, bức ảnh ông được bầy trong cuộc triển lãm chống Do Thái ở cung Berlitz, có kèm chú thích như sau: “Tên Do Thái nham hiểm. Hắn có thể giả làm người Nam Mĩ.”

Cha tôi không thiếu cảm giác hài hước: một buổi chiếu ông đến cung Berlitz, đề nghị vài nhân viên cảnh sát dẫn đường cho ông. Khi ông và chúng xem đến chỗ treo bức ảnh ông, ông kêu lên với chúng: “Ôi con khỉ, chính là tôi đây mà”. Loại chuyện giai thoại về người Do Thái, “Anh có nhìn thấy tôi bao giờ chưa?” thì kể mãi không bao giờ hết. Phải nói thêm rằng cha tôi cũng có đôi chút cảm tình với người Đức, bởi họ đã chọn những nơi ăn uống thật sự có giá trị: các khách sạn Continental, Majestic, Maurice. Cha tôi không bỏ lỡ một cơ hội nào để cùng ngồi bên họ trong các nhà hàng Maxim’s, Phillippe, Gaffner, Lola Tosch và trong tất cả các hộp đêm, nhờ giấy tờ giả mang tên Jean Cassis de Coudray-Macouard.

Cha tôi bấy giờ sống trong một phòng dành cho đầy tớ, phố Saussaies, trước mặt Sở Gestapo. Ông đọc đến tận khuya cuốn Những chuyện vặt vãnh cho một cuộc tàn sát và thấy sách rất nực cười. Tôi rất ngạc nhiên thấy ông thuộc lòng nhiều trang liền trong cuốn sách đó và đọc cho tôi nghe. Ông mua nó vì nhìn tên sách, ông tưởng đó là một cuốn truyện hình sự.

Tháng Bảy 1944, cha tôi bán được khu rừng Foutainebleau cho bọn Đức nhờ một Bá tước vùng biển Baltique làm môi giới. Vụ bán tế nhị đó đem lại cho ông một khoản tiền, ông bèn di cư sang Hoa Kỳ, thành lập một công ty vô danh: công ty hữu hạn Kính Vạn Hoa.

- Còn anh? – Cha tôi hỏi tôi và phà một làn khói thuốc Partagas vào mặt tôi, - anh kể cho tôi nghe xem anh sống ra sao?

- Cha không đọc báo ạ? – Tôi đáp, giọng mệt mỏi. – Con nhớ hình như báo Confidential ở New York có dành một số đặc biệt nói về con. Nói tóm tắt thì thế này, con đã quyết định bỏ kiểu sống giao du rộng rãi, giả tạo, lúc nào cũng phải đóng kịch này. Con định về sống ẩn dật ở địa phương. Vùng tỉnh lẻ nước Pháp giống như thôn quê. Con đã chọn Bordeaux, Guyenne để ổn định lại thần kinh. Và đó cũng là một cách để tỏ lòng cảm mến người bạn già Francois Mauriac. Cha chưa nghe nói đến ông này bao giờ, đúng vậy không?

Chúng tôi lấy thêm một li cuối cùng trong quầy rượu của khách sạn Ritz.

- Tôi muốn đi cùng anh đến cái thành phố anh vừa nói, được không? – đột nhiên cha tôi hỏi. – Anh là con tôi, ít ra chúng ta cũng đi cùng một chuyến với nhau! Thêm nữa, nhờ anh tôi đã thành người giàu thứ tư Hoa Kỳ!

- Ôi, xin mời cha cùng đi. Sau đấy cha sẽ trở về New York.

Cha tôi hôn lên trán tôi và tôi cảm thấy mắt tôi rưng rưng. Người đàn ông cao lớn kia, trong bộ y phục lố lăng, đúng là đáng thương.

Hai cha con khoác tay nhau đi ngang qua quảng trường Vendôme. Cha tôi ngâm những đoạn trong bản trường ca “Những chuyện vặt vãnh cho một một cuộc tàn sát” bằng một giọng nam trầm rất ấm. Tôi nhớ lại những thứ tồi tệ tôi đã đọc thời nhỏ. Đặc biệt là bộ sách “Làm cách nào để giết cha” của André Breton và của Jean-Paul Sartre (Trong tủ sách “Hãy đọc sách xanh này”). Breton khuyên thanh thiếu niên nắm chắc khẩu súng ngắn, nấp dưới của sổ nhà họ, đại lộ Foch, bắn người bộ hành đầu tiên nào xuất hiện. Người đó tất yếu phải là cha mình, một cảnh sát trưởng hoặc một chủ xưởng dệt. Sartre đã tạm rời khỏi những khu phố sang trọng một thời gian để sang sống tại vùng ngoại ô đỏ[49]>: ông ta la cà gặp gỡ những người thợ bắp thịt cuồn cuộn, nhận lỗi mình đã được cha mẹ chiều chuộng, rồi dẫn họ quay về đại lộ Foch để họ đập vỡ những đồ bằng men xứ Sèvré và giết cha họ. Sau đó chàng trai Sartre lễ phép đề nghị họ hiếp ông. Phương pháp thứ hai này tỏ ra là một hành động đồi bại còn lớn hơn nữa, hiếp sau khi giết, nhưng lại vĩ đại hơn: người ta kêu gọi vô sản tất cả các nước hãy chấm dứt mối xung đột gia đình. Các độc giả trẻ tuổi được người ta khuyên trước khi giết cha, hãy chửi rủa cha thâm tệ đã. Một số nổi tiếng trong văn đàn đã sử dụng những câu văn rất đẹp. Chẳng hạn: “Hỡi các gia đình, ta căm hờn bọn mi” (lời con trai một mục sư Pháp). “Đến cuộc chiến tranh sau, ta sẽ chiến đấu trong bộ quân phục Đức. Tôi ỉa vào quân đội Pháp” (lời của con một cảnh sát trưởng Pháp). “Ông là một thằng ĐỂU” (lời của con trai một sĩ quan hải quân Pháp). Tôi kẹp mạnh vào cánh tay cha tôi. Vậy là hai cha con không khác nhau gì hết, đúng vậy không, ông bố cao lớn của con? Làm sao con có thể giết chết cha được? Tôi yêu ông vô cùng.

Chúng tôi đáp chuyến tàu hỏa Paris – Bordeaux. Bên ngoài cửa sổ lắp kính của toa tầu, nước Pháp đẹp tuyệt. Orleans, Beaugency, Vendome, Tours, Poitiers, Angoulême. Cha tôi không mặc bộ âu phục xanh lá cây nhạt, cà vạt bằng da hoẵng màu hồng, sơ mi xứ Êcốt, đeo nhẫn bạch kim và cả giầy có ghệt bằng da cừu non nữa. Tôi cũng không còn tên là Raphael Schlemilovitch. Bây giờ tôi là con trai trưởng của một ông chưởng khế ở Libourne và chúng tôi đang trên đường trở về quê hương ở tỉnh. Trong khi thằng cha Robert nào đó đang phung phí tuổi trẻ và sức khỏe ở Cap Frerrat ở Monte Cario và Paris, thì cái gáy bướng bỉnh của tôi nghiêng xuống những bài tập dịch tiếng La-tinh. Tôi luôn miệng nhắc lại: “Phố Ulm! Phố Ulm!” và mặt tôi nóng lên.

Phố Ulm. Tôi sống chung phòng trọ với một sinh viên trẻ tuổi cũng từ tỉnh lẻ lên. Tình bạn sẽ nẩy nở giữa hai chúng tôi như keo sơn. Chúng tôi như cặp Jalllec và Jerphanion. Một buổi tối, hai chúng tôi leo lên những bậc thang của đồi Montmartre. Chúng tôi sẽ nói giọng quyết tâm: “Sắp tới Paris là nơi của hai chúng ta!”. Chúng tôi viết những lá thư văn hoa gửi về nhà: “Mẹ ơi, con hôn mẹ. Ký tên: Con vĩ đại của mẹ”.

Ban đêm, trong không khí lặng lẽ của phòng trọ, hai đứa chúng tôi trò chuyện về những người tình tương lai của chúng tôi: những Bá tước tiểu thư Do Thái, những con gái các doanh nhân cỡ lớn, những nữ nghệ sĩ sân khấu, những kỹ nữ cao cấp. Họ sẽ phải khâm phục tài ba và học vấn uyên bác của chúng tôi. Một buổi chiều, hai chúng tôi tim đập thình thịch sẽ gõ cửa ông chủ xuất bản Gaston Gallimard: Thưa ngài, hai chúng tôi muốn là sinh viên Cao đẳng Sư phạm và chúng tôi muốn gửi ngài những tác đầu tay của chúng tôi. Sau đó đến trường Cao đẳng Pháp, đến chính trị, đến các danh hiệu này nọ. Chúng tôi sẽ thuộc về tầng lớp ưu tú của đất nước chúng tôi. Bộ óc chúng tôi sẽ hoạt động cho Paris, nhưng trái tim chúng tôi vẫn ở tỉnh lẻ. Giữa cơn lốc của thủ đô, chúng tôi sẽ trìu mến nghĩ đến vùng đất Cantal của chúng tôi, vùng đất Gironde của chúng tôi. Năm nào chúng tôi cũng về gột sạch hai lá phổi ở nhà cha mẹ chúng tôi gần Saint-Flour và gần Libourne. Rồi chúng tôi trở lại Paris, hai tay ôm đầy pho mát và rượu vang đỏ, đặc sản của vùng Saint-Emilion. Mẹ chúng tôi sẽ đan cho chúng tôi những tấm áo len dài: mùa Đông ở Paris lạnh. Các chị và em gái chúng tôi sẽ lấy các chủ tiệm thuốc tây ở Aurillac hay những chủ hãng bảo hiểm ở Bordeaux. Chúng tôi sẽ nêu gương cho con cháu chúng tôi sau này.

Nhà ga Saint-Jean. Trời đêm đang đợi hai cha con chúng tôi. Chúng tôi không nhìn thấy gì của thành phố Bordeaux. Trong tắc xi chở chúng tôi đến khách sạn Splendid, tôi nói thấm vào tai cha tôi:

- Chắc chắn thằng cha tài xế làm cho Gestapo Pháp, cha ạ. Và cái đầu đẹp trai vùng Cận Đông của cha làm hắn chú ý.

- Anh nghĩ như thế à? – Cha tôi hỏi, ông đã chấp nhận bước vào cuộc chơi. – Nếu vậy thì rắc rối quá nhỉ! Cha lại để quên giấy tờ giả mang họ Coudray Mcouard.

- Con có cảm giác hắn đưa chúng ta đến phố Lausiston, đến đồng sự của hắn là Bonny và Laffont.

- Cha cho rằng anh lầm đấy: hình như đến đại lộ Foch, nơi đóng trụ sở của cơ quan Gestapo.

- Cũng có thể đến phố Saussaies để kiểm tra căn cước.

- Khi nào gặp đèn đỏ, xe đỗ lại, chúng ta sẽ chuồn.

- Không được, vì lúc đó các nhà đều sẽ khóa cửa.

- Vậy ta làm thế nào?

- Đành đợi thôi. Nhưng không được mất tinh thần.

- Mọi sự đều rất hoàn hảo, thưa Hấu tước.

- Chúng ta vẫn có thể làm như chúng ta là người Do Thái cộng tác với chính quyền chiếm đóng. Hãy bán khu rừng Foutainebleau cho họ bằng giá rẻ. Con sẽ thú nhận với họ rằng hồi trước chiến tranh con đã làm việc cho báo Je suis partout. Một cú điện thoại cho Brasillach, cho Laubreaux hoặc Rebatet, thế là hai cha con sẽ thoát khỏi cái tổ ông vè vẽ này…

- Anh có tin rằng họ cho mình gọi điện thoại không?

- Không cho cũng không sao. Chúng ta sẽ ký giấy xin làm việc cho L.V.F hay cho cơ quan cảnh sát, để họ thấy chúng ta có thiện chí. Bộ đồng phục xanh lá cây và chiếc mũ nồi vùng núi Alpes sẽ cho phép chúng ta dễ dàng đến được biên giới Tây Bạn Nha. Rồi sau đó…

- Chúng ta sẽ được tự do…

- Suỵt! Hắn đang nghe trộm chúng ta…

- Cha không thấy trông hắn giống Darnand hay sao?...

- Nếu vậy thì sẽ rất phiền đấy. Chúng ta sẽ phải vất vả với bọn cảnh sát.

- Ôi, cha ạ, thì ra chúng ta đi đúng đường… Đây là xa lộ Tây… đồn Cảnh sát Versaille kia… vậy là chúng ta đi đúng hướng!

Đến khách sạn, hai chúng tôi vào quầy rượu uống tách cà phê Ailen, nghĩa là pha thêm rượu Whisky. Cha tôi hút điếu xì gà Upman quen thuộc của ông. Khách sạn Splendid này có gì khác với Claridge, George V, với tất cả các quán trọ của Paris và châu Âu? Các khách sạn quốc tế và các toa tầu Pullman liệu có che chở tôi được lâu dài để khỏi phải trở về nước Pháp không? Cuối cùng tất cả các bể cá ấy đều làm tôi buồn nôn. Tuy nhiên những điều tôi đã quyết định giúp tôi giữ lại được đôi chút hi vọng. Tôi sẽ ghi tên theo học khoa Văn ở trường trung học Bordeaux. Sau khi đậu vào, tôi sẽ không bắt chước Rastignac đứng trên đỉnh đồi Montmartre nhìn xuống. Tôi không có chút gì giống với chàng trai can đảm người Pháp kia. “Sắp tới, Paris sẽ thuộc về hai chúng ta!” Chỉ những chủ kho bạc ở Saint-Flour hoặc ở Libourne mới ấp ủ kiểu lãng mạn chủ nghĩa ấy thôi. Không đâu, Paris quá giống tôi. Một bông hoa giả nằm giữa nước Pháp. Tôi hy vọng đến sống ở Bordeaux tôi sẽ dùng thời gian chỉ ở hai nơi: lớp học đầy bụi và quán giải khát Commerce. Tôi sẽ đánh bài với các vị Đại tá. Các chiều chủ nhật tôi sẽ nghe những bản nhạc nhẩy Mazurka ở lầu bát giác trong công viên. Tôi sẽ bắt nhân tình với vợ ông Thị trưởng, hai chúng tôi sẽ gặp nhau vào các Thứ năm trong một khách sạn nhỏ gần cận, ngay trong thành phố. Điều này còn tùy thuộc chỗ tôi dạy học ở tổng nào. Tôi sẽ phục vụ nước Pháp bằng cách dạy dỗ trẻ con Pháp. Tôi sẽ thuộc về tiểu đoàn đen của những chiến sẽ đấu tranh cho chân lý, nói theo cách của Péguy, bạn đồng môn tương lai của tôi. Tôi sẽ quên dần đi nguồn gốc đáng hổ thẹn của tôi, quên đi cái tên xấu xa Schlemilovitch, quên đi Torquemada, Himmler và bao nhiêu điều khác nữa.

Phố Saint-Catherine. Người trong các nhà đều ngó ra đường nhìn hai cha con tôi. Chắc hẳn do bộ y phục màu hung của cha tôi, chiếc sơ mi xanh lá cây nhãn Kentucky và đôi ghệt muôn thuở bằng da cừu non của ông. Tôi thầm mong có một viên cảnh sát nào đó gọi chúng tôi, để tôi có dịp nói to lên với tất cả những người Pháp: tôi sẽ nhắc đi nhắc lại không mệt mỏi rằng đã hai chục năm nay chúng tôi bị bôi nhọ bởi một người Pháp, quê vùng Alsace. Y quả quyết rằng người Do Thái không thèm chú ý đến họ. Chính vì thế mà chúng tôi phải thu hút sự chú ý của mọi người bằng những thứ quần áo lòe loẹt. Đối với người Do Thái chúng tôi, đấy là chuyện sống hay chết.

Hiệu trưởng trường trung học tiếp chúng tôi trong phòng giấy của ông. Ông ta lộ vẻ nghi ngờ một thanh niên con gia đình kiểu dân sao lại muốn ghi tên theo học khoa Văn Dự bị Cao đẳng. Ngay con trai ông – Ông Hiệu trưởng rất tự hào về con trai mình – cũng phải ngày đêm vật vã với cuốn Văn phạm La-tinh của Macquet et Robert suốt mấy vụ nghỉ hè. Tôi rất muốn trả lời vị Hiệu trưởng kia rằng, không may tôi lại là người Do Thái và như thế có nghĩa bao giờ tôi cũng xếp thứ nhất trong mọi lớp học.

Ông Hiệu trưởng tròn xoe mắt. Vậy ra ông không biết óc thông minh và bầu nhiệt huyết của người Do Thái? Hay ông quên rằng dân tộc Do Thái đã cung cấp cho nước Pháp bao nhiêu văn hào: Montaigne, Racine, Saint-Simon, Sartre, Henry Bordeaux, René Bazin, Proust, Louis Ferdinand Céline… Ông lập tức ghi tên tôi vào lớp Văn Dự bị Cao đẳng để chuẩn bị theo học trường Cao đẳng Sư phạm Pháp.

- Thầy khen ngợi em, Schlemilovitch – ông nói, giọng đầy xúc động.

Lúc hai cha con tôi ra khỏi trường, tôi trách thái độ cha tôi quá tự ti, đã tạo ra vẻ mặt quá nhũn nhặn trước ông Hiệu trưởng.

- Ai lại dám có thái độ của cô vũ nữ nhập hồn thần thánh[50]> trong phòng giấy của một quan chức Pháp? Cha sẵn sàng tha thứ cho anh nếu anh có cặp mắt ngoan ngoãn và thái độ cung kính trước một tên đồ tể S.S. là kẻ anh đang cần phải lấy lòng. Nhưng cha làm sao có thể để mặc cho anh múa bụng[51]> ưỡn ẹo trước một con người đáng kính làm vậy? Chỉ vì ông ấy không định ăn tươi nuốt sống anh chứ gì? Anh nên biết rằng cha sẽ còn dằn vặt anh nhiều đấy!

Đột nhiên tôi co chân chạy. Cha tôi đuổi theo tôi đến tận Tourny, thậm chí ông không hề gọi tôi đứng lại. Khi cha tôi thở không ra hơi nữa – chắc ông tưởng tôi lợi dụng lúc ông không còn sức để chạy, sẽ trốn biệt để không bao giờ gặp lại ông, - ông nói:

- Một cuộc chạy thể dục, tốt thôi… Bữa ăn sắp tới sẽ ngon miệng đấy…

Vậy là cha tôi không hề cưỡng lại thứ gì. Ông biết nhẫn nhục trước mọi nỗi bất hạnh, ông chỉ tìm cách thích ứng dần. Chắc hẳn đó là do ông tập được hồi ông sống trong những khu phố Do Thái nghèo khổ. Cha tôi kéo chiếc cà vạt bằng da hoẵng lau mồ hôi trán. Tôi bèn lựa lời an ủi con người to xác, ngộ nghĩnh và đáng yêu ấy. Làm sao ông có thể nghĩ rằng tôi muốn bỏ ông, để mặc ông trơ trụi một thân một mình, bất lực, trong cái thành phố đầy truyền thống tốt đẹp, trong cái đêm tuyệt vời thoang thoảng mùi rượu vang lâu năm và thuốc lá Ăng-lê ngày? Tôi khoác tay cha tôi. Ông là một con chó tôi nghiệp.

Nửa đêm. Tôi hé mở cửa sổ phòng. Không khí mùa hè năm đó, bản nhạc Stranger on the Shore[52]> bay đến tận chỗ chúng tôi. Cha tôi nói:

- Chắc quanh đây phải có một hộp đêm nào đó.

- Con đến Bordeaux không phải để chơi bời. Dù sao thì cha cũng có thể kiếm những kẻ rác rưởi: vài ba thằng cha hư hỏng của giới thị dân Bordeaux, vài khách du lịch Anh…

Cha tôi mặc bộ lễ phục Smoking màu xanh da trời. Tôi thắt trước gương chiếc cà vạt hiệu Sulka. Chúng tôi đang lao đầu xuống một làn nước êm dịu. Một dàn nhạc Nam Mỹ chơi những điệu rumba. Hai chúng tôi ngồi vào một bàn. Cha tôi gọi một chai Pomery rồi châm điếu xì gà Upman.Tôi mời cô gái Anh tóc đen mắt xanh nhẩy. Khuôn mặt cô gợi tôi nhớ đến một thứ gì đó. Hơi thở cô thoang thoảng mùi rượu cognac thơm. Tôi ôm chặt cô. Lập tức một loạt cái tên nhơ nhớp chui từ miệng cô ta: “Eden Rock, Rampoldi, Balmoral, Khách sạn Paris”: thì ra hai chúng tôi đã từng gặp nhau ở Monte-Carlo. Tôi ngoái lại quan sát cha tôi qua bờ vai của cô gái Anh. Ông cười, làm cử chỉ đồng lõa với tôi. Cha tôi thật đáng cảm động, chắc hẳn ông vẫn muốn tôi cưới con gái được thừa kế của một gia đình giầu có Achentina gốc Slave, nhưng từ khi tôi đến Bordeaux, tôi lại mê Đức Mẹ Đồng Trinh, mê Jeanne d’ Arc và Quận chúa Aliénor d’ Aquitaine[53]>. Tôi cố giải thích cho ông nghe mãi đến ba giờ sáng nhưng ông hút hết điếu xì gà này sang điếu khác, không nghe tôi nói. Hai cha con đã nốc quá nhiều rượu.

Trời rạng sáng chúng tôi mới ngủ. Bordeaux bị cầy xới bởi những chiếc xe gắn loa điện: “Chiến dịch diệt chuột, chiến dịch diệt chuột. Phát không thuốc chuột, phát không thuốc chuột. Mời mọi người đến nhận thuốc ở xe, Hỡi dân chúng Bordeaux, chiến dịch diệt chuột… chiến dịch diệt chuột…”

Hai chúng tôi đi bộ trên các đường phố, cha tôi và tôi. Những chiếc xe từ các ngả chạy đến, lao về phía chúng tôi, đồng thời kéo còi inh ỏi. Hai cha con chui vào nấp duới những cổng vòm. Chúng tôi là những con chuột lớn của châu Mĩ.

Đã đến lúc hai cha con tôi phải chia tay nhau. Trước ngày khai trường, tôi quăng bừa bãi tất cả áo quần ra giữa phòng: những cà vạt hiệu Sulka và của phố Condotti, áo cổ lọ bằng dạ cashmere, khăn quàng hiệu Doucet, bộ âu phục cắt ở các hiệu Creed, Canette, Bruce O’ Iofson, O’ Rosen, pigiama hiệu Lanvin, khăn tay từ hiệu Henri đến hiệu Pensée, thắt lưng hiệu Gucci, giầy hiệu Dowie và Marshall…

- Cha ạ! Tôi nói, cha hãy mang tất cả những thứ này sang New York coi như kỉ niệm của con trai cha. Từ nay trở đi con sẽ dùng mũ nồi và áo đồng phục màu ghi của trường trung học để tự che chở con khỏi chính con. Con sẽ bỏ thuốc lá Caraven và Képe. Con sẽ hút thuốc lá sợi đen. Con sẽ nhập quốc tịch Pháp. Và thế là con hoàn toàn đồng hóa. Con sau này con có quyết định trở thành loại quân phiệt Do Thái kiểu như Dreyfus và Stroheim không thì để còn xem. Trước mắt, con sẽ theo học Cao đẳng Sư phạm Pháp và tốt nghiệp giống như Blum, Fleg và Henri Franck. Lúc này mà nghĩ đến Học viện sĩ quan cao cấp Saint-Cyr[54]> ngay thì chưa nên.

Hai cha con chúng tôi dùng một li gin – fizz lần cuối cùng trong quầy rượu của khách sạn Splendid. Cha tôi mặc bộ y phục đi đường: mũ lưỡi trai bằng nhung kẻ, măng tô bằng da cừu non và giầy mềm bằng da cá sấu màu xanh nước biển. Trên môi, điếu xì gà Partagas. Đôi kính đen che khuất cặp mắt. Cha tôi khóc và tôi chỉ biết điều đó qua giọng ông nói. Do bị quá xúc động, cha tôi quên bẵng thứ tiếng của đất nước này mà lắp bắp mấy câu tiếng Anh:

- Con sẽ đến thăm cha bên New York chứ - Ông hỏi.

- Con e là không, cha ạ. Con sắp chết. Con chỉ còn sống vừa đủ để thi đỗ vào trường Cao đẳng Sư phạm, bước đi thứ nhất trong quá trình hòa đồng. Con hứa rằng cháu nội cha sẽ là thống chế nước Pháp. Vâng, con sẽ cố sinh con.

Lúc đứng ngoài sân ga xe lửa, tôi nói:

- Cha đừng quên gửi cho con một tấm bưu ảnh từ New York hoặc từ Acapulco đấy.

Cha tôi quàng tay ôm chặt tôi vào lòng. Lúc đoàn tàu chuyển bánh, các dự định của tôi hồi ở Guyenne bỗng trở thành nực cười. Tại sao tôi không tiến hành âm mưu không dám ngờ tới kia? Có hai cha con, chúng tôi thừa sức đè bẹp gánh hề Marx Brothers. Chúng tôi sẽ nghĩ ra những nhân vật hài hước và rơi nước mắt trình diễn trước công chúng. Schlemilovitch-Cha là một người to lớn, oai vệ, mặc đủ thứ áo quần sặc sỡ, Schlemilovitch-Con khoèo chân, làm Schlemilovitch-Cha ngã, đâm đầu vào một thùng nhựa đường. Hoặc khi Schlemilovitch-Con kéo cái chân thang và làm Schlemilovitch-Cha ngã từ trên cao xuống. Hoặc nữa, khi Schlemilovitch-Con nham hiểm lén châm lửa vào quần áo Schlemilovitch-Cha vân vân.

Schlemilovitch-Cha và Schlemilovitch-Con không giống nhau: người thứ nhất tựa như ông “phồng” lùn và to ngang, người thứ hai thì mặc bộ đồng phục S.S là thẳng nếp, oai vệ. Anh ta luôn mặc bộ ấy, trong khi Schlemilovitch-Cha thì cải trang thành giáo sĩ Do Thái. Hai nghệ sĩ hề đó sẽ diễn cảnh hỏi cung, tiết mục yêu thích nhất của họ. Hiện giờ họ đang diễn ở Médrano, sau chuyến biểu diễn lưu động vòng quanh nước Đức. Schlemilovitch-Cha và Schlemilovitch-Con đều là những diễn viên rất Paris, nhưng họ lại không thích khán giả thượng lưu bằng khán giả quen xem chiếu bóng ở các khu phố ngoại ô và khác giả quen xem xiếc ở tỉnh lẻ.

Tôi cay đắng tiếc về cuộc ra đi của cha tôi. Đối với tôi, đó là lúc bắt đầu tuổi người lớn. Trên võ đài, chỉ còn mỗi một võ sĩ quyền Anh. Hắn sẽ giáng những cú thoi trực tiếp váo chính bản thân hắn. Chẳng mấy lúc nữa hắn sẽ ngã lăn chiêng. Trong khi chờ đợi, liệu tôi có chớp được sự chú ý của công chúng khán giả hay không, dù chỉ trong một phút?

Trời mưa tầm tã giống như mọi chủ nhật trong dịp khai trương, các quán giải khát đều sáng rực hơn bình thường. Trên đường đến trường, tôi tự thấy mình ôm quá nhiều tham vọng: một thanh niên Do Thái nông nổi không thể đột nhiên mơ ước có được sự kiên trì của các sinh viên hưởng học bổng quốc gia, sự kiên trì thừa hưởng của tổ tiên họ vốn đã sống trên mảnh đất này. Tôi nhớ lại đoạn ông già Seingalt của tôi đã viết trong chương 11 tập II của bộ “Hồi Ký” của ông: “Một sự nghiệp mới mẻ sắp mở ra trước mắt tôi. Nữ thần May mắn vẫn còn trợ giúp cho tôi. Tôi có mọi phương tiện cần thiết để chiêu đãi bà ta, nhưng tôi thiếu một phẩm chất quan trọng nhất – lòng kiên trì.” Liệu tôi có khả năng để trở thành sinh viên Cao đẳng Sư phạm không?

Fleg, Blum và Henri Franck chắc hẳn phải có một giọt máu của đất Bretagne.

Tôi leo thang gác lên phòng ngủ sinh viên. Chưa bao giờ tôi theo học một trường phi tôn giáo kể từ khóa học Hattermer (các trường trung học Thụy Sĩ mà mẹ tôi ghi tên cho con trai theo học đều nằm dưới sự chỉ đạo của các giáo sĩ dòng Tên). Cho nên tôi ngạc nhiên thấy ở đây không có Lễ Cầu kinh buổi tối. Tôi trao đổi điều lo lắng này với các sinh viên nội trú có mặt ở đó. Họ phá lên cười, chế giễu Nữ Thánh Đồng trinh và nhạo báng tôi bằng một thứ tiếng lóng khủng khiếp, ngang như tiếng lóng Do Thái. (Sau này tôi mới biết đó là thứ tiếng lóng sinh viên khoa này thường dùng). Sau đó họ khuyên tôi lập tức đánh xi đôi giày, viện cớ họ sống ở nội trú trước tôi.

Tôi phản đối, viện ra ba điểm:

1) Tôi không thấy lí do gì để không kính trọng Thánh nữ Đồng trinh.

2) Tôi biết họ đến đây “trước tôi”, bởi người Do Thái di cư đến vùng Bordeaux này chỉ từ thế kỷ XV. Tôi gốc Do Thái. Họ gốc người Gaulois[55]>. Họ thường hành hạ tôi.

3) Tôi không hiểu thứ tiếng lóng của họ. Gặp trường hợp họ tiếp tục dùng thứ tiếng lóng đó trước mặt tôi, tôi sẽ coi đó là thái độ bất lịch sự và buộc tôi phải nói chuyện với họ bằng thứ “Esperanto” của tất cả mọi người: quả đấm.

Hai cậu sinh viên bước lên để thương lượng. Một là người thuộc đảng Dân chủ Cơ-đốc và một là người Bordeaux gốc Do Thái. Cậu thứ nhất thì thầm vào tai tôi rằng ở đây không nên nói quá nhiều đến Thánh nữ Đồng trinh, bởi cậu ta muốn gây thiện cảm với các sinh viên thuộc phái cực tả. Cậu thứ hai lên án tôi là “tên khiêu khích”. Cái từ “tên Do Thái” là do đám nói Aryen bịa ra chứ làm gì có thật. Vân vân.

Tôi cắt nghĩa cho câu thứ nhất hiểu rằng Thánh nữ Đồng trinh là bậc đáng để tôi cùng mọi người đều phẫn nộ. Tôi nói thêm cho cậu ta biết rằng tôi hoàn toàn bác bỏ hai cậu Saint-Jean de la Croiz và Pascal cũng như kiểu cách ca tụng đạo Cơ-đốc của hai cậu ấy. Tôi cũng nói thêm rằng, dù sao thì tôi là người Do Thái và không phải việc của tôi là dạy cho các cậu hiểu nghĩa lý của kinh bổn.

Những câu nói của cậu thứ hai làm tôi buồn rầu vô cùng tận: các goye quả đã tiến hành tuyệt vời việc tẩy não.

Tất cả mọi người cho rằng chuyện như thế là xong và họ tiến hành cách li tôi.

Adrien Debigorre, Giáo sư dạy môn Văn của chúng tôi, để một chòm râu oai vệ, mặc áo rơđanhgốt đen, và cái chân khoèo của ông đã làm học trò đem ông ra chế giễu. Con người lạ kỳ đó đã từng kết bạn với Maurras, Paul Chack và với Giám mục Mayol de Lupé. Thính giả Pháp chắc hẳn con nhớ bài “Trò chuyện bên lò sưởi” do Debigorre viết ra và đọc trên làn sóng Đài phát thanh Vichy thời phát xít chiếm đóng.

Năm 1942, ông ta là một trong những người thân cận của Abel Bonheur, Bộ trưởng Giáo dục. Ông ta tức giận khi thấy Bonheur mặc y phục Quận chúa Anne de Bretagne[56]>, đã tuyên bố với ông ta bằng giọng nửa đùa nửa thật: “Nếu như có một Quận chúa ở Pháp thì cần phải đẩy nàng vào vòng tay của Hitler”, hoặc khi vị Bộ trưởng ca ngợi với ông ta “Chất đàn ông hấp dẫn” của đám S.S… Cuối cùng Debigorre xích mích với Bonheur và gọi vị Bộ trưởng kia là “nữ đội viên Gestapo”, câu nói làm Thống chế Pétain cười rũ rượi.

Rút về ở ẩn trong các đảo Minquiers, Debigorre mưu đồ tổ chức đội xung kích tuyển trong dân chài để chống lại quân đội Anh. Tính ghét dân Anh của ông ta ngang với của Henri Béraud. Thuở nhỏ, Debigorre đã long trọng hứa với cha, một Trung úy thuộc hạm đội Saint-Malo, là không bao giờ quên “Vụ” Trafalgar[57]>. Người ta bảo câu nói vắn tắt trong thời gian Mers el-Kébir: “Chúng sẽ phải trả giá vụ này” là của ông. Trong thời gian phát xít Đức chiếm đóng, ông đã trao đổi rất nhiều thư từ với Paul Chack, và bây giờ ông đọc lại rất nhiều đoạn trong đó cho học sinh chúng tôi nghe. Đám bạn học của tôi không bỏ lỡ cơ hội nào để làm nhục ông. Ngay mới giờ đầu, họ đã đứng dậy, đồng thanh hét từng chữ: “Thống chế, chúng tôi xin có mặt”[58]>. Trên bảng đen đầy chật những huy hiệu của chính phủ thân Đức và ảnh Pétain, Debigorre nói nhưng chẳng ai thèm nghe. Nhiều lúc ông đưa hai tay ôm đầu, khóc rưng rức. Một sinh viên khoa Dự bị cùng với tôi tên là Gerbier, bố là Đại tá và Chủ tịch U.N.E.H.(Liên đoàn Quốc gia Sinh viên Nhân văn) thấy vậy gào lên: “Adrien khóc kìa!” Thế là cả lớp ồ lên như sấm. Trừ tôi, tất nhiên. Tôi quyết định làm chân hộ vệ cho con người tội nghiệp kia. Bất chấp bệnh lao mới mắc gần đây, tôi vẫn cân nặng chín mươi ký, cao một mét chính mươi tám, và sự ngẫu nhiên đã khiến tôi sinh ra trong một miền đất toàn bọn liều lĩnh.

Tôi bắt đầu bằng việc xẻ đôi đường nối hai lông mày của Gerbier. Mối quan tâm tế nhị đó của tôi làm cho kẻ nhân văn kia giảm hẳn đi thói hung hăn. Một cậu khác tên là Val Suzon, đoàn viên thanh niên Cộng sản và có bố làm chưởng khế, gọi tôi là “quốc xã”. Tôi liền bẻ luôn ba chiếc xương sườn của cậu ta để cậu tạ nhớ đến tên S.S Schlemilovitch đã chết trên mặt trận Nga, hoặc trong cuộc tấn công của Thống chế Đức Von Rundstedt. Tôi còn phải trị thêm vài cậu nòi Gaulois nữa: Chatel Gérard, Saint-Thibault, La Rochepot, dứt khoát là trốtkít. Từ lúc đó, tôi chứ cũng không phải Debigorre nữa, đầu mỗi buổi học, đọc tác phẩm của Maurras, Chack, Béraud. Người ta ngại kiểu phản ứng dữ dằn của tôi cho nên trong lớp học chỉ nghe thấy tiếng ruồi bay. Nạn khủng bố Do Thái ngự trị và ông thầy của chúng tôi đã lấy lại được nụ cười trên môi.

Nói cho cùng thì tại sao các bạn cùng lớp của tôi lại giở thái độ khó tính như thế? Maurras, Chack và Béraud đâu có khác tổ tiên họ? Tôi đã hết sức lịch sự phát hiện ra cho họ những ai lành mạnh nhất, trong trắng nhất trong số đồng bào họ, vậy mà những kẻ vô ơn ấy bảo tôi là “quốc xã”…

- Ta hãy làm cho họ nghiên cứu các tiểu thuyết gia của đất nước, tôi đề nghị Debigorre. Tất cả đám mất gốc kia phải nghiên cứu các phẩm chất của cha ông họ. Những nhà văn đó sẽ thay cho Trotsky, Kafka, và những kẻ di-gan khác. Vả lại họ có hiểu gì về những người đó đâu? Cần phải chịu hai ngàn năm bị tàn sát, thầy Debigorre thân mến, mới có thể tìm hiểu các tác giả ấy được, Nếu như tôi ở địa vị thằng cha Val Suzon, tôi không tỏ ra ngạo mạn đến như vậy! Tôi sẽ khiêm tốn tìm hiểu vùng đất tỉnh lẻ, sẽ uống những dòng nước nguồn của nước Pháp! Thầy thử nghĩ xem: trong tam cá nguyệt đầu tiên, chúng ta đã nói với họ về ông bạn Béraud của thấy. Con người đất Lyon ấy hình như hoàn toàn thích hợp với tôi. Vài lời giảng giải về những đoạn văn trong tác phẩm “Những người vui tính đất Sabolas”. Chúng ta sẽ làm tiếp với Eugène Le Roy: hai tác phẩm “Jacquou kẻ Tồi tệ” và “Tiểu thư De La Ralphie” sẽ mở ra cho học sinh những vẻ đẹp của miền đất Périgord. Ta tạt ngang ngó qua đất Quercy nhờ tác phẩm của Léon Cladel. Một cuộc du lịch đất Bretagne qua tác phẩm của Charles de Goffic. Tiếp đó, Roupnel sẽ đưa chúng ta đang vùng Bourgogne.

“Miền Bourbonnais sẽ không còn là mù mịt đối với chúng ta nữa sau tác phẩm “Cuộc đời một người bình thường” của Guillaumin. Hai nhà văn Alphonse Daudet và Paul Arène sẽ giúp chúng ta thưởng thức những hương thơm của miền Provence. Chúng ta sẽ gợi lại Maurras và Mistral. Sang tam cá nguyệt thứ hai, chúng ta sẽ thưởng thức mùa thu vùng Tours cùng với René Boyleave. Thầy đã đọc “Đứa trẻ tựa lan can” chưa? Khá lắm! Tam cá nguyệt thứ ba sẽ dành cho tiểu thuyết tâm lý của Edouard Estaunié người Dijon. Tóm lại, nước Pháp đa cảm! Thầy thỏa mãn với chương trình tôi đề ra chứ? Một khóa dự bị cao đẳng phong phú và rất đẹp, tôi với thầy sẽ tạo nên!

Debigorre cười, xúc động nắm chặt hai tay tôi. Ông nói:

- Schlemilovitch, anh đúng là một nhà bảo hoàng thực thụ! Ôi, nếu mọi trẻ em Pháp gốc gác đều giống anh thì hay biết mấy!

Thầy Debigorre luôn mời tôi đến nhà. Ông sống trong một gian phòng chất đầy sách vở, báo chí. Trên tường treo những tấm ảnh đã ố vàng của một vài nhân vật bị gọi là ma ám: Bichelonne, Hérold Paquis, các Đô đốc nhà Esteve, Darlan và Platon. Bà quản gia già của ông đem trà cho chúng tôi uống. Khoảng mười một giờ tối, chúng tôi nhấp một ly khai vị trên sân trời của Quán giải khát Bordeaux. Chúng tôi nghe nhau độc thoại. Lần đầu tiên, ông rất ngạc nhiên thấy tôi kể về những thói quen của Maurras và về chòm râu của Pujo.

- Nhưng hồi ấy anh đã ra đời đâu, Raphael?

Debigorre cho rằng đây là một hiện tượng tiền kiếp, và trong kiếp trước tôi đã từng là người mê Maurras khủng khiếp, một người Pháp trăm phần trăm, một người dòng dõi Gaulois đích thực cộng với một người Do Thái cộng tác với chính quyền thân Đức.

- Tôi đã tin cậy Abetz, tôi than thở. Tôi đề xuất với ông ta lập một đội S.S. Do Thái Vũ trang!. Một binh đoàn tình nguyện của người Do Thái chống cộng, gọi là L.V.J! Ông ta và Stulpnagel đến phút cuối cùng lại co vòi. Chắc bị ảnh hưởng của Heydrich[59]>. Tên Do Thái bẩn thỉu ấy! Vâng, đúng thế, tên trùm mật vụ của phát xít Đức ấy chính là gốc Do Thái, bây giờ ta không cần phải giấu giếm cho y thêm nữa. Y không muốn chia sẻ với anh em cùng giống nòi những ưu đãi của việc cộng tác với bọn Quốc xã. Y dành riêng cho mình y quyền bắt chước bọn S.S! Y muốn ăn mảnh. Khi y biết có một thằng cha Schlemilovitch nào đó tìm cách chuyển toàn thể dân Do Thái thành công dân thực thụ của Đệ tạm Đế chế thì y bèn thi hành những biện pháp chặn lại! Heydrich đã chính thức xui Abetz đừng nghe lời tôi! Chính Heydrich đã đề nghị Stulpnagel quay lưng lại với tôi. Thấy vậy tôi bèn quay sang gặp Darnand! Ông này rất tốt nhưng…

Lúc này thấy Debigorre như được tôi làm trẻ lại hai chục năm, ông hét lên:

- Ôi, Raphael, tôi vô cùng tiếc anh đã không có mặt ở Bordeaux tháng Sáu 1940[60]>! Anh có thể tưởng tượng quang cảnh lúc đó tuyệt vời thế nào không? Anh hãy tưởng tượng xem. Đúng là một vở ba lê điên cuồng! Các ông lớn để chòm râu bệ vệ và mặc lễ phục rơđanhgốt! Toàn loại Giáo sư đại học cả. Chẳng hạn vị Giáo sư triết học Léon Brunschvicg tội nghiệp ấy! Rồi những Bộ trưởng của chính phủ Cộng hòa, Mandel, Deriot, Reynaud, Blum! Bọn chúng đang nói huênh hoang! Hoa tay múa chân! Nghe thấy rõ giọng hát của Réda Caire, Maurice Chevalier, nhưng đùng một cái! Những chàng trai tóc vàng, mình để trần, xông vào quầy giải khát Commerce tiến hành một cuộc tàn sát! Các ông lớn rậm râu bị quẳng lên trần! Tội nghiệp đám Brunschvicg! Bọn họ bị ép vào tường cùng những cái bàn chất đầy rượu khai vị! Chân họ giẫm bì bõm lên rượu Pernod, trán họ bị mảnh chai rạch toạc! Mụ chủ quán tên là Marianne[61]>, chạy tới chạy lui hết chỗ này sang chỗ kia. Miệng kêu lên the thé! Mụ ta là một con đĩ già! Một con đểu! Mụ rơi cả váy! Mụ bị một băng tiểu liên giết ngay tại chỗ! Caire và Chevalier đều im bặt! Những chàng trai chịu trách nhiệm về màn múa rối hài hước ấy đứng ngắm đống áo rơđanhgốt đẫm máu, nghiêm trang nghe nhạc Wagner[62]>! Cảnh tượng ấy chính là dành cho những bộ óc khôn ngoan như hai chúng ta! Quả là một sự báo thù xứng đáng!...

Cuối cùng tôi đâm ngán với cái vai trò làm cai ngục, bởi các bạn cùng lớp với tôi không muốn nhận rằng Maurras, Chack và Béraud là người của họ, bởi những người này khinh rẻ Charles Le Goffic và Paul Arène. Chúng tôi bèn nói với họ, tôi và thầy Debigorre, về một số mặt có tính tổng thể hơn “thiên tài Pháp”: thói tàn bạo và lối đùa sổ sàng, tục tĩu, vẻ đẹp của chủ nghĩa cổ điển, sự đúng đắn của các nhà đạo đức học, chất giễu cợt kiểu Voltaire, sự tinh tế của tiểu thuyết phân tích, truyền thống anh hùng, từ Corneille đến Georges Bernanos. Thầy Debigorre nhăn mặt khi tôi nói đến Voltaire. Tôi cũng ghét nhà văn thị dân thích công kích và bài Do Thái đó, nhưng nếu chúng ta không nhắc đến ông ta trong “Bức tranh toàn cảnh về thiên tài Pháp”, thì người ta sẽ chê trách chúng ta là thiên vị.

- Chúng ta hãy biết điều, tôi nói với Debigorre. Thầy thừa biết tôi thích Joseph de Maistre hơn. Tuy nhiên chúng ta hãy cố gắng để nhắc đôi chút đến Voltaire.

Saint-Thibault lại tỏ ra ương bướng trong một buổi giảng bài. Một nhận định xui xẻo của thầy Debigorre: “Vẻ đẹp mang chất Pháp thuần túy của bà La Fayette tuyệt diệu” đã làm cậu bạn học của tôi bật lên vì phẫn nộ.

- Đến bao giờ thầy mới thôi không lải nhải: “thiên tài Pháp”, cái này mang “chất Pháp thuần túy”, “truyền thống Pháp”, các nhà văn Pháp “của chúng ta”? Chàng trai Gaulois gầm lên. – Ông thầy Trotsky của tôi đã dạy rằng Cách mạng không có Tổ quốc…

- Bạn Saint-Thibault thân mến của tôi, - tôi đáp lại, - bạn đánh vào dây thần kinh của tôi đấy. Cặp má bạn quá xệ, máu của bạn quá đặc cho nên cái họ Trotsky trong miệng bạn biến thành một lời xúc phạm! Bạn Saint-Thibault thân mến ạ, cụ ba đời bạn là Charles Maurras đã viết rằng ai không cày ruộng đất Pháp trong một ngàn năm thì không thể hiểu được bà La Fayette cũng như hiểu được Chamfort! Còn tôi thì xin nói với bạn thế này, bạn Saint-Thibault thân mến ạ: cần phải một ngàn năm chịu cảnh bị tàn sát, bị thiêu cháy, bị nhét vào những khu phố Do Thái tăm tối mới có thể hiểu được một đoạn nhỏ nhất của Marx, hoặc của Bronstein… Bronstein, bạn Saint-Thibault thân mến ạ, chứ không phải Trotsky như bạn vừa nói bằng thái độ kính cẩn đây! Bạn hãy câm cái miệng của bạn lại, bạn Saint-Thibault thân mến, nếu không tôi sẽ…

Hội phụ huynh học sinh phản kháng quyết liệt. Ông Hiệu trưởng gọi tôi lên phòng giấy của ông:

- Trò Schlemilovitch – ông nói, - các ông Garbier, Val-Suzon và La Rochepot đã gửi đơn kiện anh về tội đánh gây thương tích con của họ, Bênh vực che chở ông thầy già của anh thì tốt nhưng từ chỗ đó đến chỗ hành động như một kẻ thô bỉ thì lại không được!... Anh có biết trò Val-Suzon đã phải vào nằm bệnh viện chưa? Còn hai trò Gerbier và La Rochepot thì đều bị tổn thương các cơ quan thính giác và thị giác. Nhưng trước tiên anh phải đem khăn gói rời khỏi trường này ngay từ chiều nay!

- Nếu mấy vị kia muốn đưa tôi ra tòa, - tôi nói với ông Hiệu trưởng, - tôi sẽ giải thích đầy đủ một lần cho dứt điểm vấn đề. Người ta sẽ đưa chuyện này rùm beng lên báo chí. Paris không phải Bordeaux, thầy đã biết. Trên Paris người ta luôn bênh một thằng Do Thái tội nghiệp chứ không bênh mấy tên Aryen thô bạo đâu. Tôi sẽ đóng xuất sắc vai một kẻ bị đàn áp. Phái tả sẽ tổ chức những cuộc mít tinh và biểu tình, và xin thầy tin lời tôi nói, sẽ được coi là một tấm lòng công bằng chính trực những ai ký tên xuống dưới bản kiến nghị bênh vực Raphael Schlemilovitch. Tóm lại vụ om sòm này sẽ có hại lớn cho con đường thăng quan tiến chức của thầy đấy. Thầy hãy cân nhắc cho kỹ, thưa thầy Hiệu trưởng, thầy sẽ bị thua phái mạnh đấy. Tôi đã quen với loại việc này. Thầy nên nhớ rằng Đại úy Dreyfus, và gần đây hơn nữa, sự việc rùm beng do Jacob X. gây ra. Anh ta là một thanh niên Do Thái đảo ngũ… Trên Paris người ta đang say mê bọn tôi. Khi nào họ cũng cho chúng tôi là có lý. Nếu chúng tôi có lỗi thật, người ta cũng tha thứ. Người ta lờ đi. Còn thầy muốn sao nữa? Các cơ cấu đạo đức đã biến mất tăm từ cuộc chiến tranh vừa rồi, tôi xin nối là từ thời kỳ Trung Thế Kỷ ấy chứ! Thầy hãy nhớ lại một tập quán đẹp ngày xưa của dân Pháp: năm nào cũng vậy, gần lễ Phục Sinh, Công tước Toulouse long trọng tát vào mặt người đứng đầu cộng đồng Do Thái, còn ông này thì van lạy: “Xin ngày Công tước tát thêm cái nữa! Cái nữa! Hãy lấy chuôi kiếm Ngài đập vào mặt con đi! Hãy bổ đôi con ra! Hãy moi ruột gan của con ra! Hãy giẫm đạp lên xác con!” Cái thời ấy mới sung sướng làm sao! Cụ Tổ của tôi người Do Thái ở Toulouse làm sao có thể tưởng tượng được rằng tôi, một con cháu của cụ, dám bẻ gẫy xương sườn của một thằng họ Val-Suzon? Đấm sưng mắt một thằng họ Gerbier và một thằng họ La Rochepot! Trả thù là một món người ta ăn nguội! Và nhất là thầy đừng nghĩ rằng tôi có thể ăn năn hối hận! Thầy hãy chuyển lời của tôi đến cha mẹ mấy cậu học sinh kia là tôi lấy làm tiếc không giết chết được con cái họ! Thầy thử nghĩ xem! Giữa phiên tòa long trọng, một gã thanh niên Do Thái mặt tái nhợt giận dữ nói rằng nó muốn trả thù ngày trước Công tước Toulouse đã mỗi năm một lần nhục mạ tổ tiên nó! Sartre sẵn sàng trẻ lại vài thế kỷ để bênh vực tôi! Người ta sẽ hò reo thán phục trong lúc tôi bị giải từ Quảng trường Ngôi Sao đến ngục Bastille! Tôi sẽ là thần tượng được giới trẻ Pháp sùng phục!

- Anh quả là đáng ghê tởm, Schlemilovitch. Ghê tởm! Tôi không muốn nghe anh nói thêm một phút nào nữa.

- Đúng thế, thưa thầy Hiệu trưởng! Tôi là kẻ đáng ghê tởm!

- Tôi sẽ báo ngay cho cảnh sát!

- Không phải cảnh sát, thưa thầy Hiệu trưởng, mà là Gestapo.

Tôi bỏ học hoàn toàn. Thầy Debigorre choáng váng thấy mất người học trò xuất sắc nhất của ông. Tôi và ông còn gặp nhau hai hoặc ba lần nữa tại quán giải khát Bordeaux. Một buổi tối Chủ nhật, ông không đến nơi hẹn. Bà quản gia của ông cho tôi biết, người ta đã giải ông đến bệnh viện Arcachon. Người ta chính thức cấm tôi không được đến thăm ông. Chỉ người trong gia đình ông mới được đến thăm và mỗi tháng chỉ một lần.

Tôi biết ông thầy già của tôi đêm nào cũng thầm gọi tôi đến cứu ông, viện cớ Léon Blum vẫn còn giữ mối thù không đội trời chung với ông. Ông nhờ bà quản gia chuyển cho tôi một mảnh giấy có mấy chữ ngoáy vội: “Raphael, hãy cứu tôi. Blum cùng đồng bọn đã quyết định tôi phải chết. Tôi biết điều đó. Ban đêm, người của chúng lẻn vào phòng tôi, chúng bò như rắn. Chúng đe tôi bằng nhưng con dao thái thịt. Blum, Mandel Zay, Salengro, Dreyfus và những đứa khác nữa. Chúng muốn băm vằm tôi. Tôi van anh, Raphael, hãy cứu tôi.”

Sau đấy tôi không nhận được tin tức gì thêm về ông nữa.

Phải công nhận rằng những ông già danh giá đó đã đóng một vai trò chủ chốt trong cuộc đời tôi.

Mười lăm ngày sau khi tôi bỏ trường trung học và đang tiêu nốt những tờ giấy bạc cuối cùng tại nhà hàng Dubern thì một người đàn ông ngồi vào chiếc bàn bên cạnh bàn tôi. Chiếc kính một mắt và cái tẩu dài bằng bạc của ông ta làm tôi chú ý. Ông ta hói nhẵn đầu khiến khuôn mặt ta có nét gì đó làm tôi lo ngại. Trong lúc ăn, ông không ngừng nhìn tôi. Ông ta gọi người trưởng bàn bằng cách làm một cử chỉ rất lạ: ngón tay trỏ của ông ta vẽ một đường ngoằn ngoèo trong không khí. Tôi thấy ông ta viết vài chữ gì đó trên một tấm danh thiếp. Ông ta trỏ tôi và rồi người trưởng bàn đem mảnh giấy trắng đó đưa tôi. Tôi đọc thấy:

NAM TƯỚC

CHARLES LÉVY – VENDÔME

- Nhà chỉ đạo nghệ thuật muốn được làm quen với ông.

Ông ta sang ngồi bên cạnh tôi.

- Xin ông tha lỗi là tôi đã đường đột thế này, nhưng tôi có thói luôn sồng sộc đi vào cuộc sống của người khác. Một khuôn mặt, một biểu hiện trên mặt là đủ chiếm lĩnh tình cảm của tôi. Việc ông giống hệt Gregory Peck làm tôi rất quan tâm. À, mà xin ông cho biết hiện trạng ông thế nào?

Ông ta có một giọng nói trầm và ấm.

- Ông sẽ kể cuộc sống của ông cho tôi nghe tại một nơi nào yên tĩnh hơn. Ông thấy ở Marocco thế nào?

Ở nhà hàng Marocco, sàn nhẩy vắng khách, mặc dù loa điện phát ra oang oang một số bản nhạc cuồng nhiệt của Noro Marales. Chắc hẳn châu Mỹ La-tinh mùa thu năm đó có phần của mình ở Bordeaux.

- Tôi vừa bị đuổi khỏi trường trung học, tôi giải thích. Đánh nhau gây thương tích. Tôi là đứa hay gây gổ, lại là Do Thái nữa. Tên tôi là Raphael Schlemilovitch.

- Raphael Schlemilovitch? Khoan đã! Khoan đã! Lại thêm một lý do những để hai chúng ta kết bạn với nhau. Bản thân tôi cũng thuộc một dòng họ Do Thái rất lâu đời, dòng họ Loiret! Dòng họ tôi cha truyền con nối đều làm hề cho các Quận công dòng họ Pithiviers. Tôi không quan tâm đến lý lịch của ông. Tôi chỉ muốn biết ông có cần việc hay không?

- Có, thưa ông Nam tước.

- Vậy thì tôi hỏi đúng người rồi. Tôi là người chỉ đạo nghệ thuật, tôi dàn dựng, tôi tổ chức, tôi phối hợp, tôi bố cục… Tôi đang cần sự giúp sức của ông. Ông là người đúng như tôi đang cần. Vóc dáng cao lớn, mắt nhung, nụ cười Hoa Kỳ. À chuyện nữa: ông đừng bao giờ xét đoán người qua hình dạng bên ngoài. Bá tước Charlus không phải họ hàng gì của tôi và ngay từ bây giờ tôi xin quả quyết với ông là tôi hoàn toàn không đồng tình, thậm chí ngược lại còn dữ dội nữa kia. Ông nghĩ sao về con gái Pháp?

- Dễ thương.

- Sao nữa?

- Ta có thể biến họ thành những con đĩ rất lý thú.

- Tuyệt vời! Tôi thú cách ăn nói của ông! Bây giờ ta ngửa bài ra với nhau, Schlemilovicth! Tôi làm nghề buôn bán gái mại dâm da trắng. Hiện nay gái Pháp đang có giá trị thị trường chứng khoán. Ông hãy kiếm hàng cung cấp cho tôi. Tôi già quá rồi, không còn đủ sức trẻ để làm việc ấy nữa. Năm 1925 đứa con gái nào gặp tôi cũng mê ngay, nhưng bây giờ nếu tôi muốn chơi gái, tôi phải hút một điếu thuốc phiện trước. Ai mà ngờ được chàng trai đầy quyến rũ Lévy-Vendôme ngày nay biến thành lão già kém cỏi, trong khi mới chớm sang tuổi năm mươi! Schlemilovicth ạ, cậu còn rất nhiều thời gian phía trước, hãy tận dụng nó! Hãy sử dụng các chủ bài tạo hóa ban cho cậu mà chài những đứa con gái Aryen. Sau này cậu sẽ viết hồi ký. Và đặt tên là: “Những phụ nữ bị lôi bật gốc”: cậu chuyện về bẫy những đứa con gái Pháp không sao cưỡng lại được sức hút của chàng trai Do Thái Schlemilovicth, rồi một ngày nào đó người ta tìm thấy chúng đã thánh gái điếm chuyên nghiệp tại những nhà chứa ở phương Đông hoặc ở Nam Mỹ. Bài học luân lý của cuốn sách: đừng có bùi tai nghe thằng cha Do Thái uốn ba tấc lưỡi mà hãy ở lại trên đồng cỏ và trong vườn tược. Cậu sẽ để tặng cuốn hồi kí đó cho Maurice Berrès.

- Được đấy, thưa ông Nam tước.

- Vậy thì ta làm liền! Cậu phải tức khắc đi ngay lên vùng Haute-Savoia. Tôi vừa nhận được đơn đặt hàng ở Rio de Janeiro[63]>: “Cần một gái miền núi Pháp. Tóc đen. Thân hình nở nang”. Vụ này xong cậu lên vùng Normandie. Vì con một đơn đặt hàng nữa của Beyrouth[64]> mình mới nhận được: ”Gái Pháp quý phái, có tổ tiên đã tham gia Thập tự chinh. Loại quý tộc tỉnh lẻ”. Chắc hẳn thằng cha đưa yêu cầu này là loại trác táng kiểu tôi với cậu đây. Một thằng cha thủ lĩnh nào đó ở Trung Cận Đông đang muốn trả thù Charles Martel…

- Hoặc trả thù vụ quân Thập tự chinh thời Trung Thế Kỷ đã đánh chiếm thành Constantinople.

- Đại khái là như thế. Tóm lại, tôi đã tìm thấy đúng con bé thằng cha kia cần. Trong vùng Calvados… Một con mới lấy chồng… Chất quý phái hẳn hoi! Sống trong một lâu đài cổ từ thế kỷ XVIII. Huy hiệu dòng họ có hình cây Thập Tự và ngọn giáo trên nền xanh da trời kèm theo mấy bông hoa bách hợp. Ham săn bắn và rất giỏi săn bằng ngựa và chó. Việc ấy đúng là hợp với cậu. Cậu lên đó ngay, chài cô ta. Ngay bây giờ! Không được bỏ phí một chút! Mỡ đã ở ngay trước miệng mèo. Cậu phải chộp ngay và rủ rê nó đi, làm khéo để không gây đổ máu. Cậu đến mình, ta làm một li cuối cùng rồi mình đưa cậu ra ga.

Nhà Lévy-Vendôme kê toàn đồ gỗ thời đế chế Napoléon III. Vị Nam tước dẫn tôi đi vào phòng khách.

- Cậu nhìn những cuốn sách đóng gáy cẩn thận và tuyệt đẹp này đi, ông ta nói. Mê sách là thói xấu bí mật của mình. Đây này, mình cứ nhấc hú họa: cuốn khảo sát về các chất kịch dâm của tác giả René Descartes. Toàn thứ giả mạo, toàn giả mạo… Tôi đã tái tạo lại cho riêng mình tôi toàn bộ nền văn hóa Pháp. Đây là những lá thư tình của Pascal gửi cho tiểu thư La Vallière. Một cuốn truyện dâm tình của Bossuet. Một truyện khiêu dâm của bà La Fayette. Không chỉ hài lòng với việc hủy hoại đạo đức của phụ nữ nước này, tôi còn muốn biến toàn bộ nền văn học Pháp thành dâm dật. Biến những nhân vật nữ trong kịch của Racine và Marivaux thành đĩ. Junie thoải mái làm tình với Néron dưới cặp mắt kinh hoàng của Britannicus. Andromaque lao vào vòng tay của Pyrrhus ngay từ buổi hai đứa gặp nhau. Các nữ Công tước của Marivaux thì mặc lên người bộ váy của các con hầu và mượn người tình của chúng trong một đêm. Cậu thấy đấy, Schlemilovicth, việc buôn bán gái mại dâm da trắng không hề cản trở tôi là người có trình độ văn hóa cao. Đã bốn chục năm nay tôi soạn ra những đồ giả mạo này. Tôi muốn hạ phẩm giá các nhà văn nổi tiếng của chúng. Cậu hãy noi gương tôi, Schlemilovicth! Hãy trả thù, Schlemilovicth! Hãy trả thù!

Về sau, Nam tước Lévy-Vendôme giới thiệu với tôi Mouloud và Mustapha, hai tên tay sai của ông.

- Chúng sẽ thuộc cậu toàn quyền sai bảo, ông ta nói. Hễ lúc nào cậu yêu cầu là tôi lập tức bắt chúng đến chỗ cậu. Không thể tin được bọn nòi Aryen. Đôi khi phải tỏ ra tàn bạo với chúng. Mouloud và Mustapha là loại không đứa nào bì kịp trong việc bắt những kẻ ngổ ngáo nhất cũng phải thành ngoan ngoãn – chẳng hạn những tên trước kia đã từng tham gia binh đoàn S.S. vũ trang Bắc Phi. Tôi làm quen với chúng ở nhà hàng Bonny và Laffont, phố Lauriston, thời tôi còn làm thư ký cho Joanovici. Hai thằng đó đúng là cực kỳ. Rồi cậu sẽ thấy.

Mouloud và Mustapha giống hệt nhau như cặp anh em sinh đôi. Khuôn mặt đều đầy sẹo. Hai cái mũi đều bẹp rúm. Cả hai tên đều có kiểu nhếch mép cuời gần hệt như nhau. Ngay lập tức chúng đều tỏ ra hết sức mến mộ tôi.

Nam tước Lévy-Vendôme tiễn tôi ra ga Saint-Jean. Lúc ở ngoài sân ga, ông ta đưa tôi ba sấp giấy bạc.

- Tiền tiêu cá nhân cho cậu. Cậu thường xuyên gọi điện về báo tôi biết tình hình. Hãy trả thù, Schlemilovicth! Phải trả thù! Cậu hãy hết sức tàn nhẫn vào Schlemilovicth! Trả thù! Trả…

- Rõ, thưa ông Nam tước.

[48]> Chế giễu kiểu viết văn “Kính vạn hoa” hỗn tạp.

[49]> Ý nói cánh tả.

[50]> Người được đặc biệt tôn kính trong các nghi lễ.

[51]> Điệu múa của người vùng Trung Cận Đông.

[52]> Vị khách trên bờ biển.

[53]> Hoàng hậu vợ vua Louis VII (thế kỉ VII) nổi tiếng là một vị nữ tướng dũng mãnh trong cuộc Thập tự chinh sang cận Đông.

[54]> Chỉ dành cho người Pháp.

[55]> Tổ tiên của n