VỢ NGƯỜI TÙ CẢI TẠO
Buổi chiều hôm ấy không mưa nhưng trời tối sớm, mây xám tỏa khắp không gian, hoàng hôn ảm đạm. Tôi vừa định ra đóng cánh cửa trước nhà thì cùng lúc bỗng nhận thấy một thiếu phụ lạ mặt rụt rè nhìn vào như có điều gì muốn nói với tôi.
Thiếu phụ có dáng dấp của một người khá giả, nhưng nét mặt nặng chĩu u buồn và quần áo thì tầm thường nếu không muốn nói là quá nghèo nàn. Không cần suy nghĩ, tôi vội mở cánh cửa, ân cần mời chị vào nhà và vụng về hỏi:
– Chị đến tôi có việc gì?
Vừa hỏi tôi vừa chú ý đến nước da tái xanh của chị, tất cả con người của chị mang rõ hình ảnh của sự sa cơ, của người thất thế. Chị bám tay vào thành ghế, mắt đầy ngấn lệ, nghẹn ngào nói nhỏ với tôi:
– Em … lỡ độ đường, xin chị giúp em …
Tôi nhìn chăm chú và tò mò:
– Chị ở đâu? …nếu giờ này chị còn phải tìm xe thì xem chừng rất khó đấy.
Nét mặt đầy đau khổ, chị ngập ngừng:
– Dạ, …em ở khu 3.
Tôi vẫn nhìn chị nhưng giọng tôi ngạc nhiên hơn:
– Khu 3 à? Nhưng giờ này còn xe nào chạy ra ngoài đó nữa.
– Dạ còn…còn xe than, em đi nhờ xe chở than…
– À!
Và tôi hỏi thêm:
– Nhà chị ngoài đó?
Chị thở dài:
– Dạ.
Tôi bỗng sợ tiếng thở dài của chị và tôi không hỏi thêm, đi nhanh vào nhà lục các túi vải đựng tiền chợ, chẳng hiểu trong đó còn bao nhiêu nhưng tôi tin chắc chẳng được là mấy. Nắm tiền vụn khiến tôi ngần ngại, nhưng phiền nổi cả nhà tôi lúc bấy giờ cũng chỉ còn có bấy nhiêu. Trở ra, tôi dúi chỗ tiền nát nhàu vào tay chị, nói nhanh:
– Chị cầm tạm.
Giọng chị run run:
– Em xin cám ơn chị…em về chị ạ.
Rồi chị đội cái nón lá cũ rách lên đầu, lặng lẽ ra khỏi nhà tôi.
Tự nhiên tôi thẫn thờ nhìn theo. Trời bắt đầu lất phất, những giọt mưa nhỏ chiều nay mang thêm tiết lạnh.
Ngõ hẻm nhà tôi lác đác người qua lại.
Cũng từ phút giây đó hình ảnh người đàn bà lạ mặt với dáng dấp đau thương, in hẳn vào tâm khảm tôi.
Trời Sàigòn sau những ngày mất nước, trông lúc nào cũng thê lương. Ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, thế rồi khoảng bốn năm sau, vào một buổi trưa oi bức, người thiếu phụ năm xưa bỗng lại xuất hiện trước cửa nhà tôi.
Vừa trông thấy chị, tôi nhận ra ngay. Có lẽ chị cũng nhận thấy vẻ niềm nở của tôi nên chị mạnh dạn nói ngay, vẫn cái giọng buồn buồn đượm nước mắt:
– Thưa chị, em đây chị…
Tôi cầm tay chị, thân mật:
– Mời chị vào, chị ngồi đây.
Rồi tôi bắt đầu quan sát chị. Mấy năm trời nay bây giờ gặp lại, chị có vẻ mệt mỏi và xác xơ hơn. Sắc mặt bơ phờ, bộ bà ba nhiều chỗ vá, quần đen bạc thếch. Trông chị thiểu não quá.
Chị biết tôi muốn tìm hiểu chị nên chị cúi đầu nói nhỏ:
– May mà chị còn nhớ em, em tin tưởng như thế nên hôm nay em mới dám trở lại đây với chị.
Tôi ân cần và thú thật:
– Tuy đã mấy năm qua nhưng kể từ ngày đó, tôi vẫn nhớ đến chị. Chị vẫn ở chỗ cũ đấy chứ?
Chị ngẩng đầu lên, đôi mắt đau khổ:
– Dạ, nhưng bây giờ họ đuổi bọn em vào sâu hơn nữa, tới tận mé rừng.
Tôi ngạc nhiên:
– Sao thế?
Chị lắc đầu:
– Không phải một mình gia đình em mà gần hết những gia đình “ngụy” ở đó đều cùng hoàn cảnh như em.
Tôi ngắt lời chị:
– Nhưng mà, theo tôi nhận thấy chị đâu phải là người ngoài đó.
Giọng chị buồn hơn:
– Dạ, đúng vậy. Gia đình em trước ngày ba mươi tháng tư, ngụ ở Sàigòn. Chẳng dấu gì chị, chồng em là sĩ quan, chúng em có nhà trong trại gia cư dành cho sĩ quan. Ngày chồng em đi học tập thì cũng là ngày họ đuổi mẹ con em ra khỏi nhà. Năm đó cháu nhỏ nhất của em mới chập chững biết đi; cháu lớn nhất mười lăm tuổi. Một mẹ năm con chẳng hiểu gì khi Cộng sản đuổi ra, mẹ con em gần như mất hết.
Tôi bất bình:
– Thì mình đừng ra, cứ ở lì trong nhà, họ làm gì được.
Chị thở dài:
– Dạ đâu có được. Trong trại cũng nhiều nhà gan lì nhất định cố thủ thì bị tụi nó cầm súng lùa ra, chúng nó còn dọa nếu chần chừ sẽ bắn bỏ mạng. Mẹ con em thấy chúng nó cầm súng chỉ sợ nó bắn chết nên đành phải nghe theo.
– Vậy còn đồ đạc, của cải mình trong đó thì sao?
Chị chép miệng:
– Mất hết chị ạ. Chúng nó đuổi mình ra, mình van xin cho lấy quần áo và khiêng đồ đạc ra thì chúng nó nói đã ra rồi thì là đi luôn, chứ không được trở vào nữa. Ai cãi lời tụi nó bắn chết. Nghe tụi nó nói thế em và các cháu sợ quá. Nhất là các cháu nhỏ, chúng nó khóc om lên. Em cũng quýnh quá nên chỉ kịp vơ vội ít quần áo, quên cả mấy trăm ngàn trong tủ.
Chị nói tiếp:
– Thật em không ngờ, vả lại chúng nó làm bất thần quá nên không ai trở tay kịp. Đến nổi em còn mấy lạng vàng dấu dưới đáy tủ cũng không lấy ra kịp.
Tôi chen vào:
– Sao không cố gắng lấy cho hết của cải của mình rồi hãy ra?
Chị ngao ngán lắc đầu:
– Bây giờ ngồi đây nói chuyện thì như thế chứ còn khi đó, chị biết không? Chúng nó vào đầy nhà, đứa nào cũng lăm lăm cây súng, quát tháo, nạt nộ, làm mình mất hồn. Em run quá chẳng còn nhớ tiền của cất ở những nơi nào nữa.
– Thế rồi làm sao mà chị phải tới ngoài đó? Đi chi mà xa lắc xa lơ vậy?
Vẫn thở dài, chị phân bua:
– Nào em có muốn thế đâu. Chúng nó lùa bọn em lên xe nói là đi vùng kinh tế mới để sinh sống cho dễ, lên đó có đất sản xuất mà ăn. Lúc đó không đi cũng không được. Ở lại thì nhà đâu mà ở, cho nên tất cả bọn chúng em chỉ đành mà thôi.
Chị ngừng một giây rồi lại kể:
– Khi đến nơi, ớn quá chị ạ. Một vùng hoang vu, đất đai cằn cỗi, trơ vơ dưới đất trên trời mà chúng nó bảo tụi em dựng nhà lên mà ở, sản xuất mà ăn. Chị nghĩ coi bọn chúng em toàn đàn bà trẻ con, có nhà lại có cả các cụ già, quẳng ra một nơi như vậy làm sao sống nổi. Nhiều nhà bỏ trốn trở về thành phố chị ạ.
– Thế còn gia đình chị?
– May em còn ít nữ trang đeo trên người nên em lột ra bán hết lấy tiền thuê những người nghèo khó hơn mình, họ vào rừng đốn cây dựng nhà và dọn đất. Mẹ con em phụ với họ, vất vả lắm mới dựng xong căn nhà trống trước trống sau!
Chị quét mồ hôi bằng tay áo, chép miệng:
– Trên đó đâu phải như ở thành phố mình đây, nó trống trải, ban đêm lạnh lẽo, người già và trẻ con đau ốm lu bù.
– Thế còn đất đai thì sao? Mình có trồng trọt được gì không?
Giọng chị đầy ngao ngán:
– Có phải như đất vườn đất ruộng đâu, đất rừng mà chị.. Mình phải thuê người ta bứng hết những gốc già gốc chết, phải dọn gai phát bụi rồi mới đánh luống trồng mì. Nhưng mà…
Chị bỗng ngừng lại mỉm cười chua chát:
– Đến nay những thứ đó cũng hết còn là của em rồi.
– Sao vậy?
– Khi mà mì bắt đầu lên rồi thì họ xua tụi em vô sâu nữa.
Tôi kêu lên:
– Thế còn nhà cửa thì sao?
– Muốn giở theo thì giở, bằng không thì bỏ lại. Nhà nào con cái lớn lớn một chút thì phụ với mẹ, xúm nhau lại giở được cái gì mang đi cái nấy. Mà chị nghĩ xem, miếng đất mới là quan trọng, tốn bao công của mình mới có được miêng đất bằng thẳng cất nhà làm vườn. Cứ tưởng rằng tới đó là yên nên còn bao nhiêu tiền của, mình dốc hết lo cho miếng đất, cái nhà. Đùng một cái, một lần nữa lại bỏ hết ra đi!
Và giọng chị trở nên mệt mỏi:
– Càng vào sâu đất càng cằn cỗi vì là đất rừng, phải nói rằng tụi em phá rừng để lấy chỗ ở mới đúng chị ạ. Và chị cũng biết đó, với thứ đất gồ ghề của một khu rừng hoang, dễ gì đôi ba năm đã trồng trọt được. Cho nên các cháu nhà em thiếu thốn lắm. Những gì em đem theo được thì trong mấy tháng đầu cũng đã bán hết cả rồi. Đến nay, tiền, gạo, quần áo mẹ con đều không có.
Giọng chị trầm hẳn xuống:
– Không phải một mình em trong cảnh ấy mà tất cả những gia đình “ngụy” phải đi kinh tế mới đều sống dở chết dở như thế cả. Có mấy nhà không kham nổi thì trở về vất vưởng quanh ở vỉa hè.
Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi thấp giọng hỏi chị:
– Thế còn anh ấy? Bây giờ anh học tập ở đâu chị có biết không?
Chị cúi đầu, nét nhăn hai bên mép hằn sâu xuống:
– Họ đưa nhà em ra Bắc, tận Quảng Yên, sau nghe nói chuyển trại vào Thanh Hóa. Mẹ con đói rách quá nên chẳng làm sao có tiền để gửi quà cho anh ấy được. Em thật khổ quá chị ơi! Chồng em đã khổ như vậy, thân phận con trai lớn của em còn khốn cùng hơn, từ năm ngoái tới giờ chẳng rõ cháu ở đâu, sống chết ra sao!
Tôi ngạc nhiên nhìn chị, vì tôi nghĩ rằng muốn đi chui, không phải ít tiền, nhất là đối với hoàn cảnh cơ cực của gia đình chị. Tôi đột ngột hỏi chị:
– Thế nào? Chị cho cháu đi rồi à?
– Dạ, nhưng cũng không đúng hẳn như thế, em làm gì có tiền để lo nổi cho con em chuyện đó. Cháu đi đường bộ và đi theo một người bạn. Cậu kia đánh một cái xe bò giả như đi kiếm củi, rồi hai đứa đi với nhau luôn.
– Bao lâu rồi chị?
Chị âu sầu:
– Gần hai năm rồi. Chúng nó ra đi không một đồng dắt túi, gạo nước cũng chẳng có gì, hoàn toàn không có một chút gì hết. Hai đứa nó nói với em rằng đi đến đâu, xoay đến đó. Hồi đầu em không chịu nhưng nghĩ rằng có ở lại cũng chết đứa vì cả hai đứa đang tuổi nghĩa vụ. Con nhà “ngụy”, bố đi học tập, con có đi lính cho Cộng sản thì cũng chỉ để làm công việc gỡ mìn dọn đường ở biên giới mà thôi. Đàng nào cũng chết, thà liều cho nó đi chui, may ra thoát được thì nó cũng yên thân mà lo chuyện học hành. Ai ngờ hai đứa ra đi từ đó đến nay rồi bặt tin luôn, em trông ngóng hết sức mà nào có dám hỏi ai, hơn nữa biết ai mà hỏi bây giờ.
Đến lượt tôi buông tiếng thở dài.
Tôi hình dung đến hai cậu thanh niên với chiếc xe bò cọc cạch xuyên rừng, thân thể đói lạnh.
Thấy tôi có vẻ nghĩ ngợi, chị ngậm ngùi nói tiếp:
– Em cho rằng hai đứa nó bị bắt cả rồi. Thà bị bắt còn có ngày về, chứ mà…
Và chị ngưng lại không nói hết câu, lấy tay áo thấm nước mắt. Một giây sau chị ngập ngừng hỏi tôi:
– Liệu chúng nó có chết không chị?
Tôi vội vàng lên tiếng:
– Làm sao chết được, chẳng đến nỗi thế đâu.
Rồi như để che dấu sự bối rối của chính mình, tôi hấp tấp nói thêm:
– Biết đâu chừng các cậu đã sang đến đất Thái, nhưng chưa có phương tiện báo tin về. Chị nên kiên nhẫn, tôi thấy có người ra đi, bặt tin cả hai năm trời rồi đột nhiên, một buổi bất ngờ gia đình nhận được tin gửi về cho biết đã đến nơi rồi.
Nước mắt đọng trong mi, chị thật thà hỏi lại tôi:
– Có thật như vậy hả chị? – Và giọng chị đầy tin tưởng – Lạy Trời Phật, cho hai đứa nhỏ sống sót qua được xứ người. Chúng nó đi thoát được thì dù người ở lại có đói rách thêm nữa em cũng vui.
Câu nói của chị âm vang vào tận tim tôi, tôi bỗng cảm thấy mình có tội. Ánh nắng bên ngoài đã xuyên vào đến quá nửa sân, tôi xin lỗi chị và đứng dậy đi vào phòng trong. Vẫn cái túi vải thân thuộc của gia đình tôi, thôi thì xem thứ còn được bao nhiêu. Tôi trở ra ngừng lại nơi bao gạo mới mua hồi sáng. Ở xứ này bây giờ tiền và gạo đứng hàng đầu, tiền quá ít thì thay bằng gạo tặng nhau cũng được. Khi trở ra, tôi đặt cái bao bằng giấy xi-măng có những món quà khiêm nhượng vào tay người bạn gái đáng thương, nói nhỏ:
– Chị cho tôi gửi chút quà cho các cháu và một ít biếu anh.
Chị đứng Iên, rưng rưng nước mắt:
– Em cám ơn chị… thú thật với chị, đã từ hai năm nay em chưa gửi thêm cho chồng em được một lần quà nào cả! Tội thân anh ấy quá!
Tôi siết tay chị:
– Chị nói giùm tôi gửi lời thăm anh và chúc anh mau được trở về với gia đình.
Dưới vành chiếc nón lá cũ, rách bươm, đôi mắt còn ngấn lệ của chị lưu luyến nhìn tôi. Chúng tôi chia tay nhau trong im lặng và cảm thông.
Chị về rồi tôi đứng trong ngưỡng cửa, đầu óc quay cuồng. Câu chuyện cậu bé vượt biên bằng đường bộ trên chiếc xe bò thô sơ cứ xoáy mãi vào óc tôi.
Tôi đi tìm tấm bản đồ cũ ra xem, từ Pleiku rồi đến Kontum chỉ toàn rừng núi. Con đường tam biên chỉ thấy một màu xanh mù mịt. Đêm ấy tôi mất ngủ, mảnh trăng non trên bầu trời khuya chênh chếch soi vào giường tôi, biết bao giờ cho những chuyến ra đi đầy gian nan như thế này trên đất nước tôi.
Thời gian qua, cuối năm ấy còn khoảng bốn năm ngày nữa đến Tết thì người bạn gái không tên ấy trở lại tìm tôi. Lúc bấy giờ trời đã xế trưa, gia đình tôi dự định gói ít bánh chưng. Lá dong và giây lạt chất đầy một góc sân. Tôi đang phân vân với chồng lá bừa bộn thì có tiếng gõ cửa, và một thiếu phụ đầu mang giải khăn tang đi vào… Tôi buột miệng kêu lên:
– Kìa, chị… – Và mắt tôi trân trối nhìn lên màu vải định mệnh, bám chặt trên mái tóc còn đen của người đàn bà đứng trước mặt.
Chị òa lên khóc, hai tay vồ lấy vai tôi, nức nở:
– Chị ơi, chồng em chết mất rồi!…
Tôi bàng hoàng hỏi lại:
– Thế nào? Chị nói cái gì thế? Anh ấy?…
Chị càng khóc to:
– Chồng em, chị ơi… anh ấy chết trong tù cải tạo rồi!
Tôi choáng váng cả người, cố gắng lắm tôi mới đỡ được chị ngồi xuống ghế, rót một chút trà nóng đặt vào tay chị và cố giữ giọng bình tĩnh bảo chị:
– Chị uống chén nước cho đỡ mệt và hãy kể rõ cho tôi nghe anh mất bao giờ, ai báo tin cho chị và có chắc không?
Giọng chị tức tưởi:
– Địa phương họ đến nhà báo tin cho em… nhưng mà khốn khổ cho chồng em, anh ấy mất đã từ mười tháng nay, bây giờ em mới biết tin.
Tôi vẫn cố vớt vát:
– Có đúng là anh ấy đã mất thật không?
Chị lại khóc to hơn:
– Em đã đến tận nơi rồi chị ơi… họ chỉ cho em… nơi chôn anh ấy là giữa rừng hoang… Em khổ quá chị ơi!
Vừa khóc chị vừa run rẩy lấy trong chiếc giỏ cói ra mảnh vải cũ gói một tấm hình đưa cho tôi xem:
– Đây là tất cả di tích chồng em để lại, cả cuộc đời anh ấy bây giờ chỉ còn có thế thôi.
Tôi xem bức hình cưới của hai người mà ngậm ngùi, họ rất đẹp đôi.
Chi lại lần trong túi áo lấy ra một tấm hình nữa, trong hình là cảnh sinh hoạt tại Mỹ, người trong hình là một sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa oai vệ trong bộ quân phục đậm màu.
Chi nghẹn ngào kể lể:
– Hình thì đây mà người thì đã nằm sâu dưới lòng đất lạnh mất rồi..
Tôi thẫn thờ ngồi xuống cạnh chị không đủ can đảm để nói một lời khuyên giải. Những giọt nước mắt của chị như thấm vào tim tôi khiến tôi buồn vô tả. Đôi mắt đỏ hoe, chị rấm rứt:
– Điều làm em đau khổ nhất là chồng em khi ra đi là một người khỏe mạnh, không bịnh tật gì, thế mà ở trong tù cải tạo bỗng dưng lại chết!
Và chị mếu máo nói một mình:
– Anh chết oan, có phải không anh?…
Tôi cầm bàn tay giá lạnh của chị, gượng nói với cả mối chân tình trong tôi lúc bấy giờ:
– Chị mất anh…nhưng chị đừng quên chị đã có một người bạn mới…chị không đến nỗi cô đơn lắm đâu.
Chị nhìn tôi qua ngấn lệ, mấp máy đôi môi:
– Chị hãy thương em… chưa bao giờ em thấy cần có một người hiểu tâm tư mình bằng lúc này. Trước kia em cứ nghĩ anh ấy sẽ về và em vẫn đợi, nhưng bây giờ…
Tôi thở dài:
– Bây giờ chị cần phải can đảm, càng thương anh bao nhiêu chị càng phải nghĩ đến các cháu bấy nhiêu.
Và tôi đem thuyết Vô -thường của Đức Phật để kéo chị trở lại với an lành.
Khi chiều xuống chị từ giã tôi với nụ cười gượng nở trên môi.
Nửa năm sau, vào một chiều chủ nhật tôi đang đi bộ trên đường Trần Quốc Toản, bỗng nghe có tiếng gọi «chị ơi, chị ơi», một người ngồi sau chiếc xe chở than đưa tay vẫy tôi lia lịa. Nhìn lại, tôi nhận ra chị, trong khi xe than vẫn tiếp tục chạy. Trong xe chị cố nói vọng ra:
– Tuần tới em ghé thăm chị…
Tôi gật đầu, vui vẻ vẫy tay lại và đứng bên đường chăm chú nhìn theo. Chị có vẻ rắn rỏi và nhanh nhẹn hơn trước, mặc dầu vẫn lam lũ. Từ hôm ấy tôi đếm từng ngày và hôm nào nếu đi đâu vắng thì trước khi ra khỏi nhà tôi đều dặn các con tôi «Nếu ở nhà có cái bà mà ông chồng bị đi cải tạo đến thì nhớ mời bà ấy ngồi đợi một lúc mẹ sẽ về liền». Mãi cuối tuần ấy chị mới đến tôi.
Vừa gặp nhau chị đã nói ngay:
– Em có một chuyện khá quan trọng định hỏi ý kiến chị mà vì thời hạn gấp rút quá nên không kịp.
Tôi nhìn chị, dò xét:
– Chuyện gì vậy chị?
Chị lấm lét nhìn ra cửa, thì thầm:
– Em sắp đi...
Tôi ngẩn ngơ:
– Chị đi vượt biên?
– Dạ …
– Nhưng mà …
– Dạ, em đi hết cả nhà … Đầu tuần tới chúng em đi.
– Nhưng mà …
– Để em kể chị nghe, chuyện này ly kỳ lắm. Chị còn nhớ thời gian em ra Thanh Hóa thăm mộ nhà em không? Đây, câu chuyện bắt đầu từ lúc bấy giờ, nhưng chính lúc ấy, em lại không mấy tin tưởng. Em cứ nghĩ túng bấn như gia đình em thì làm sao có cơ hội ra đi. Dù cho ai có tốt bụng giúp em chuyện đó thì cũng khó thành, chỉ vì các cháu đông quá. Cứ nghĩ như vậy nên em không bao giờ dám hy vọng, thế nhưng mà chuyện đã đến, ngoài sức tưởng tượng của em.
Chị ngừng để thở và nôn nóng kể tiếp:
– Hôm đi thăm mộ chồng em, trên xe lửa, tình cờ em gặp lại bà bạn cũ, cũng có chồng học tập cùng trại với chồng em. Khi biết rõ hoàn cảnh của gia đình em, bà bạn tỏ vẻ rất thương các con em. Rồi bà hỏi em có muốn đi không, em chỉ trả lời qua loa rằng gia đình quá túng bấn nên chẳng bao giờ dám nghĩ đến chuyện đó. Thấy em nói thế bà bạn chỉ bảo em hãy ghi địa chỉ cho đúng để bà gửi cho các cháu ít quần áo cũ. Em nghĩ chỗ ở của em đâu có dễ tìm nên em nói cho bà biết, em thường theo các chuyến xe be đi đi về về. Muốn gặp em tốt hơn hết bà cứ đến góc đường gần Chợ Lớn, thế nào cũng có em ở đó. Mười ngày trước đây, vào một buổi tối, bà ấy đến tìm em thật chị ạ, và bà bảo rằng muốn giúp cho gia đình mấy mẹ con em đi hết. Em mừng quá, em tính vô đây bàn với chị nhưng ngày đi cận quá nên em đã nhận lời bà ấy rồi.
Đột nhiên đôi mắt chị đượm vẻ buồn buồn, chị bảo tôi:
-Thú thật với chị, em ước mong là nhờ chuyến vượt biên này em sẽ tìm lại được con trai em. Nếu gặp cháu ở một trại tiếp cư nào đó thì phước quá, và đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến em đã quyết định nhận lời.
Tôi chậm rãi hỏi chị:
– Bao giờ thì chị đi?
Chị đếm trên ngón tay:
– Hôm nay ba mươi âm lịch, ngày mai mùng một, ngày kia mùng hai. Chúng em lên đường ngày mùng hai.
– Họ đi tàu?
– Dạ, đi ghe. Ghe đánh cá của gia đình bà bạn em và họ cũng đã sẵn sàng cả rồi.
– Đi ở đâu chị có được cho biết không?
– Dạ không. Bà ấy chỉ nói sơ qua là bến thuộc miền Trung là nơi quê chồng bà, có tất cả ba mươi người đi chung, nhưng đặc biệt nhất trong chuyến vượt biên này có một bà cụ già ngoài bảy mươi tuổi, cụ là mẹ chồng của bà bạn em.
Rồi chị phân bua:
– Chị nghĩ coi mẹ con em ở đây cũng sống dở chết dở, thì cứ đi liều, nếu thoát được thì các cháu còn có tương lai.
Và chị nói trong xúc động:
– Hôm nay em đến để chào chị…
Đối với tôi, chuyến ra đi của chị thật là đột ngột, chị đã chọn con đường phải chọn. Tôi chỉ còn biết chúc lành cho chị. Hôm đó, tôi giữ chị ở lại ăn cơm, một bữa cơm tạm biệt thật là đạm bạc và buổi tối hôm ấy chúng tôi chia tay nhau lần cuối.
Đêm cuối tháng, không trăng nhưng vẫn có những vì sao nhỏ lấp lánh trên nền trời khuya xanh thẩm, chị đã ra đến hết ngõ hẻm rồi mà tôi vẫn còn đứng lại âm thầm nhìn theo.
Dù chẳng hẹn sẽ tin tức cho nhau, nhưng tôi vẫn đợi, vẫn chờ đợi. Có những ngày mưa gió dầm dề, vào những ngày ấy tôi thường mất ngủ về đêm, tôi nghĩ đến chiếc ghe đơn côi trên biển cả mênh mông …
Mặc cho tôi mong đợi, thời gian vẫn lặng lẽ trôi qua, chẳng mấy chốc đã hơn tháng trời.
Đột nhiên một buổi sáng có ông bạn láng giềng khá thân đi ngang cửa gặp tôi, ông ta bỗng vui giọng hỏi:
– Tối qua chị có bắt đài không?
Và không kịp đợi tôi trả lời ông ta vừa đi vừa báo tin:
– Tàu Mỹ vừa vớt được một chiếc ghe vượt biên ba chục người, trên đó có một cụ già ngoài bảy mươi, mái tóc bạc phơ. Cả ghe đều bình yên và bà cụ rất khoẻ. Đã phục các cụ già nhà ta chưa?
Đối với tôi, ngày hôm ấy là ngày đẹp nhất.
12-10-85