NGƯỜI ĐẸP NĂM XƯA
Vừa xuống xe tôi đã để ý đến một người đàn bà đội nón lá, mặc áo bà ba đen ngồi cạnh hàng rào đang cặm cụi viết một mảnh giấy, gần bên có mấy người đàn bà khác ngồi vây quanh, chờ đợi.
Cái nón lá đã làm tôi không thấy mặt bà ta, nhưng đôi bàn tay, với những ngón trắng dịu dàng làm tôi nghĩ ngay rằng đây là một người đàn bà không những đẹp mà còn có vẻ trí thức là đàng khác.
Viết được một lúc, bà ta lại nhìn quanh, cũng nhờ lúc ngửng lên nhớn nhác nhìn các nơi, tôi mới kịp nhận ra người ấy là Hậu, một bạn học xưa của tôi.
Bao nhiêu năm trôi qua, nhưng Hậu vẫn đẹp. Một vẻ mặn mà, rất dễ thương. Cái lam lũ của cuộc sống tạm bợ ngày hôm nay, càng làm tăng thêm những nét duyên dáng ưa nhìn nơi người bạn cũ của tôi.
Không chờ lâu, tôi đến gần ngồi xuống trước mặt Hậu, lên tiếng:
– Hậu ơi, còn nhớ mình không?
Hậu ngửng lên, thoáng một chút và vui mừng reo lên:
– Kim! Kim đây mà!
Tôi bắt chước giọng một bà khách:
– Dạ… Bà làm ơn dịch dùm lá đơn.
Hậu cười, một bên má lúm đồng tiền:
– Cũng biết được nghề của nàng, giỏi đấy!
Và Hậu loay hoay thu xếp khoảng đất nơi đang ngồi, mời tôi:
– Ngồi đây, ngồi tạm đây rồi mình nói chuyện cho nghe. Lâu quá bây giờ mới lại thấy nhau.
Tôi ngắm Hậu:
– Hay thật! Bao nhiêu năm mà không thấy khác lắm.
Hậu cũng nói:
– Thì…đằng ấy cũng thế. Rất may bọn mình ít thay đổi.
Nhưng Hậu lại chép miệng:
– Mới ngày nào, bây giờ mái tóc đã mất màu xanh!
Tôi cười xòa:
– Tưởng gì chớ có vậy, lo chi. Mua một chai thuốc nhuộm, tóc lại trở về với tuổi hai mươi.
Hậu bật cười:
– Cũng vẫn y như trước…hồi còn mê cái món ô mai ở phố Hàng Bạc. Có còn nhớ món quà «16» ấy không, hả Kim?
Vừa nói, tay Hậu vừa viết nhanh trên trang giấy rồi đưa trả bà khách hàng:
– Xong cả rồi. Bà đem về nói với người nhà điền ngày sinh tháng đẻ vào rồi đem đi mướn người ta đánh máy.
Bà khách ngần ngại:
– Dạ… tôi không biết chỗ đánh máy ở đâu?
Hậu vỗ vào cái giỏ xách để bên:
– Ở đây. Nhưng hôm nay tôi bận, bà thử tìm chỗ nào khác, xem sao.
Tôi hiểu ý nói với Hậu:
– Cứ làm cho bà ấy xong đi. Mình đợi được mà.
Hậu cười, xách cái giỏ đứng lên, hẹn với bà khách:
– Bà tới đầu kia uống nước mía, đợi tôi chừng nửa giờ.
Và Hậu cặp tay tôi, ríu rít hỏi tất cả những chuyện liên quan đến cuộc đời tôi. Tôi kể qua loa, còn Hậu vừa nghe vừ chỉ ra đường:
– Mình đi lại đằng này.
Chúng tôi băng qua con đường lớn ngay trước mặt, tới một đầu hẻm, là những cửa sau của một dãy phố nào đó. Hậu đi trước dẫn đường cho tôi đến một cánh cửa bếp khép hờ, thản nhiên đẩy cửa đi vào.
Tôi hỏi nhỏ:
– Bồ ở đây?…
Hậu lắc đầu:
– Sức mấy! Cứ yên trí, lát nữa sẽ biết “ổ” tường tận và còn nhiều chuyện khác nữa.
Tôi thấy mình gần với Hậu hơn ở cái tính rất trẻ, như thời đi học, mặc dầu khi bỏ chiếc nón lá ra, mái tóc bạn tôi đã có những sợi bạc màu. Một xót thương nhuốm trọn lòng tôi. Tuổi mười sáu của chúng tôi ngày xưa, nay đã đâu rồi?
Trong gian bếp vắng, ngổn ngang những chiếc bàn, chiếc ghế, hình ảnh của một quán nhỏ cà-phê bên đường khi trời sập tối. Một bà cụ già lưng còng, âm thâm ngồi, lần tràng hạt trên chiếc ghế xa- lông rách nát. Chúng tôi chào, bà cụ chỉ nhìn với đôi mắt mệt mỏi, chán chường.
Hậu lôi trong giỏ xách ra một chiếc máy đánh chữ nhỏ, đặt trên chiếc bàn tròn đầy bụi và bắt đầu quay giấy, đánh lá đơn cho bà khách.
Hậu đánh thoăn thoắt, vừa nói với tôi:
– Xong tờ này, cho «dẹp tiệm». Vào «Tao Đàn» nói chuyện một bữa cho đã. Bao nhiêu năm xa cách, bây giờ chỉ có lúc này là quý.
Nhìn những ngón tay đang mổ chữ khá nhanh, tôi trêu Hậu:
– Tốp, tốp bớt lại đi. Sai một chữ là lỗ tờ giấy đó.
– Yên trí. Tuy «cô ký» gốc me nhưng cũng có hạng lắm. Một ngày gần chục lá đơn nên cũng thuộc nằm lòng rồi.
Nửa giờ sau trở lại xe nước mía, trao giấy và lấy tiền của khách xong, Hậu khoác vai tôi, theo một cổng nhỏ đi vào vườn cây. Cây lá ở đây một màu xanh mát, đã nhắc tôi nhớ đến quãng đời đi học ngày xưa. Con đường chúng tôi đến trường năm xưa ở giữa phố phường Hà Nội, có những cây sấu, lá xanh suốt cả mùa Hè, và đến quãng gần chợ Hàng Da thì có những cây bàng, tàng lá xòe ra như những cái tán xanh um. Ngày xưa tôi yêu những cây ấy.
Cái thời hai đứa còn cặp tóc, chia nhau từng mẩu ô mai chua chua, ngọt ngọt, bỗng sống trong tôi. Tim tôi bồi hồi hơn bao giờ hết.
Bây giờ cả hai chúng tôi, tuổi đời chồng chất…
Tôi hỏi Hậu về gia cảnh mới biết Hậu vẫn sống một mình. Đột nhiên tôi nhớ đến một người đàn ông mà năm xưa, mới mười sáu tuổi Hậu đã say mê, đến nổi gần như cả lớp đều biết chuyện:
– Không hiểu thầy Vĩnh bây giờ ở đâu? Hậu có biết tin không?
Hậu ngồi xuống chiếc băng đá, đôi mắt đen thoáng bối rối:
– Anh Vĩnh, à… thầy Vĩnh. Mình có gặp lại, cũng mới đây thôi.
Tôi bỡ ngỡ:
– Ông ta ở đây từ trước 75 hay bây giờ mới vào?
Hậu bối rối hơn:
– Không, Vĩnh không vào Nam… năm xưa chúng mình lầm. Mới đây, mình về ngoài ấy thăm. Mình mới đi Bắc về…
Lúc ấy tôi mới chợt nhớ, tôi buột miệng:
– Thảo nào, mình gặp chị An. An kể rằng ngày sở làm danh sách cho nhân viên di tản, chỉ một mình Hậu xin ở lại. Hậu về ngoài ấy thăm các cụ?
Hậu cúi đầu:
– Không. Ba me mình mất lâu rồi. Mình cần ở lại để gặp Vĩnh và … con gái mình.
Tôi ngạc nhiên kinh khủng! Hậu đã có chồng, con từ ngày di cư kia à?…Hồi đó, khi vượt sông Bến Hải với gia đình tôi, cả hai chúng tôi chưa đầy hai mươi tuổi…Những năm trước đấy, hai đứa cùng học một trường. Hình ảnh Hậu ngày xưa, rực rỡ trong trí nhớ tôi… Có một năm nào cả lớp thường viết chữ “H” lồng vào chữ “V” vào những giờ tan học.
Thầy Vĩnh dạy Lý Hoá, nhưng thầy cũng là tay violon nổi tiếng của Hà Nội lúc bấy giờ. Thầy Vĩnh có một mái tóc bồng bềnh, một gương mặt trắng xanh với đôi mắt buồn dưới vầng trán thông minh. Thầy thật hiền nhưng ít nói và rất nghiêm.
Điều đặc biệt là thầy Vĩnh không có gia đình, thầy sống một mình và cũng chẳng giao dịch với giáo sư nào.
Căn gác nhỏ thầy thuê, phải đi qua một cái sân gạch đỏ lúc nào cũng lênh láng nước giặt quần áo, nước rửa bát của một tư gia, và lên đến tận tầng lầu thứ ba. Nhưng mà thật là tĩnh mịch và nhìn vào, giống như một trai phòng. Khác chăng là sách vở bừa bộn cùng với cái giá nhạc và những bản nhạc la liệt trên bàn. Điều đặc biệt của thầy Vĩnh là những đóa pensée lúc nào cũng có trong một cái ly thủy tinh trong suốt.
Tôi đến căn gác đó vào dịp Hậu xin học nhạc với thầy.
Thuở mười sáu Hậu đẹp lắm. Mùa đông, đôi má hây hây. Hậu mặc áo nhung đen, hai dải khăn “san” như cánh bướm càng làm tăng gương mặt anh đào khả ái, cùng mái tóc dài như suối nước đêm.
Thời gian Hậu học nhạc riêng với thầy Vĩnh là lúc tôi qua trường nữ học, nên từ đấy hai chúng tôi ít có dịp gặp nhau. Sau đó hai năm là ngày vào Nam. Từ đấy đến nay chúng tôi chỉ gặp nhau khoảng những năm đầu khi còn ở miền Trung.
Dưới tàng cây phượng vĩ, kể lại chuyện xưa, chưa bao giờ tôi thấy Hậu buồn như thế.
Hậu nắm tay tôi, những ngón tay lạnh như cánh chim đơn côi và đôi môi vắng màu son, Hậu mở lại những trang hận tình đáng lẽ đã chôn sâu:
«Kim còn nhớ một dạo mình bỏ trường theo học nhạc riêng với thầy Vĩnh không? Thật là lạ, mình đến xin học mà thầy Vĩnh nhất định từ chối. Mà cũng phải thú thật răng mình xin học chỉ cốt để có dịp được trông thấy mặt người đàn ông ấy mà thôi. Vì thế mình đã nài nỉ và cuối cùng, mình toại nguyện.
Những giờ học nhạc đối với mình thật là hạnh phúc, vì thầy Vĩnh hết sức dạy minh.. Sự vô tư ấy, lạ thay, lại càng thôi thúc cho mình luôn luôn tơ tưởng, mong muốn chiếm trọn quả tim của Vĩnh.
Kim có thể tưởng tượng rằng mình mà lại có khiếu học nhạc có lạ hay không? Chẳng bao lâu mình đã trở thành đứa học trò mà Vĩnh bằng lòng nhất. Càng gần Vĩnh mình càng thấy rõ nỗi thất vọng. Hình như Vĩnh đã có một bóng dáng nào, còn mình Vĩnh chỉ coi mình như đứa con gái nhỏ, chưa biết gì. Vĩnh coi mình mình như cô em út, thế thôi.
Để chinh phục Vĩnh, mình chọn bản “J’attendrai” tập ráo riết. Bản nhạc ấy đối với mình là cả một niềm tâm sự, mình muốn Vĩnh phải biết nỗi lòng mình qua bản nhạc ấy. Quả nhiên, mình đã thành công. Vĩnh có vẻ chăm chú khi mình đàn bản nhạc ấy. Mình bắt gặp có lần Vĩnh đã nhìn mình trân trối trong khi mình say sưa với những nốt nhạc trữ tình.
Một ngày đầu Đông, trời trở gió bấc, tiết lạnh ngày sang Đông làm mình cảm thấy cô đơn và mình lại nghĩ đến Vĩnh. Dù ngày hôm ấy không có giờ học nhưng mình cũng nhất định phải đến căn gác nhỏ của Vĩnh. Trước khi đi, mình ghé vào hàng hoa ở phố Bờ Hồ chọn mua mấy đoá pensée thật đẹp, vì mình biết Vĩnh chỉ thích loại hoa đó.
Nhưng khi đến nơi thì Vĩnh không có ở nhà, rất may cho mình là Vĩnh ít khi khóa cửa. Đáng lẽ mình phải ngoan ngoãn chờ Vĩnh, nhưng đột nhiên mình nổi tính tò mò và kéo trộm ngăn tủ, lục lọi. Một cuốn nhật ký? Không! Chỉ là trang sổ nhỏ ghi những điều cần thiết, nhưng cũng ở những trang giấy ấy, mình bỗng được biết… thầy Vĩnh, trước kia đã từng khoác chiếc áo màu đen… nhưng thầy cũng đã hoàn tục được mấy năm nay!
Điều này làm mình nghĩ ngợi và sau đấy càng nhận thấy mối tình thầm kín trong lòng chỉ càng mãnh liệt thêm. Trong buổi chiều Đông âm u, nơi căn gác cô đơn không một bóng người, mình lấy cây violon của Vĩnh thổn thức với bản nhạc tâm tư.
J’attendrai
le jour et la nuit
j’attendrai toujours
Ton retour, j’attendrai
Car l’oiseau qui s’enfuit
Vient chercher l’oubli, dans son nid.
Le temps passe et coule tristement
en battant dans mon coeur meurtri
Et pourtant
J’attendrai ton retour…
“Vâng, em sẽ đợi…muôn đời em sẽ đợi” – Mình nghĩ thầm.
Một bản nhạc ấy, mình đàn mãi, đàn mãi, dù bóng tối đã tràn lan cả căn gác không đèn. Đột nhiên mình quay lại…Trong bóng tối, Vĩnh đã đúng đấy tự bao giờ. Không còn tự chủ, mình buông đàn, ôm lấy Vĩnh, khóc cùng lời ấp ủ từ lâu:”Em yêu thầy..em yêu thầy…”
Mình chỉ nói có thế, chan hoà cùng nước mắt…Có vòng tay ấm áp, có bàn tay dịu dàng vuốt gương mặt chan hòa nước mắt của mình! »
Kể đến đây, Hậu nghẹn ngào:
– Sau buổi ấy mình không gặp lại Vĩnh nữa. Bà chủ nhà có vẻ ngạc nhiên khi thấy mình trở lại, bà ta bảo: “Cô mà không biết ông ấy đi đâu thì ai biết bây giờ.” Nghe nói thế mình xấu hổ quá. Mình đi tìm khắp nỏi, lang thang đến những nơi mà mình nghĩ có thể có được một dấu vết gì của Vĩnh. Tuyệt nhiên không! Mình âm thầm đau khổ và cũng không hiểu tại sao Vĩnh lại bỏ đi như thế.
…Chín tháng sau… môt đứa con gái ra đời! Gia đình mình muốn tránh tiếng nên trước đó một thời gian đã gửi mình về làng Đại Từ, nơi có bà vú của mình, nhờ bà ấy trông nom cho mình và Ý Ly. Con gái mình sinh ra ở đấy, và cũng lớn lên ở đấy. Không biết mặt cha mẹ là ai! Kim xem, trong tình cảnh ấy, làm sao mình còn có thể bỏ đi xa thêm được nữa. Mình không di tản chính là vì Ý Ly và Vĩnh.
Tôi bàng hoàng:
– Như vậy là ngày Hậu vào Nam… bé Ý Ly vẫn ở lại?
– Ý Ly ở đấy từ khi mới chào đời cho đến ngày nay. Con bé bây giờ giống Vĩnh như hai giọt nước.
Tôi hỏi khẽ:
– Mãi đến bao giờ Hậu mới biết tin con? Vì…hai đứa mình di cư cùng với nhau từ ngày ấy kia mà?
Hậu thở dài:
– Mấy năm đầu mới vào Nam mình vẫn còn được tin con do bà cô mình ở cùng làng Đại Từ cho biết. Nhưng sau này thì bặt luôn, cho mãi sau ngày 30-04-75, mới lại được tin.
Tôi rụt rè nhưng vẫn hỏi:
– Thế còn…thầy Vĩnh? Có tin của thầy chứ?
Giọng Hậu thật buồn:
– Vĩnh ở Hà Giang. Đường đi thật là vất vả, xe đến Hà Giang còn phải đi bộ mười mấy cây số đường núi cheo leo, nếu không có người dẫn đường chắc mình không đến nơi.
Trời ơi! mình không thể ngờ ngày nay Vĩnh tàn tạ đến thế!
Khi đến nơi, người dẫn đường bảo «Đây, ông lang Vĩnh ở cái nhà này, bà cứ vào». Mình nhìn vào chỉ thấy một thân người hom hem, áo quần xơ xác. Hình ảnh một nhạc sĩ quyến rủ ngày xưa đâu rồi? Mình cố cầm lòng không òa lên khóc và gắng gượng lắm mình mới nói được tên mình…
Hậu chép miệng:
– Tội nghiệp cho Vĩnh! Vừa nghe tên mình Vĩnh nhớ ngay, nhưng Vĩnh lặng đi một lúc mới hỏi mình «Hậu vẫn còn nghĩ đến tôi nhiều thế à?». Mình nói «Cho đến ngày nay… em vẫn đợi thầy… Bản nhạc năm xưa không nói nổi tâm tình em đối vói thầy sao?»
Vĩnh bảo mình «Hậu đã chọn lầm người, còn tôi, tôi là kẻ có lỗi với Hậu, tôi đã làm hỏng đời Hậu…cũng vì tự hiểu tôi đã trốn đi. Tôi cứ tưởng Hậu đã lập gia đình và đã quên tôi.»
Nghe Vĩnh nói, mình chỉ khóc. Bao nhiêu năm rồi, dù Bắc Nam ngăn đôi, mình vẫn đợi, đợi trong vô vọng. Âm thầm chờ đợi. Vĩnh lại bảo mình «Hậu đã làm một việc điên rồ! Xinh đẹp như Hậu, không lẽ ngày nay lại sống chung với một kẻ thân tàn ma dại, đói rách như tôi?». Mình nói với Vĩnh rằng ra đây cốt để tìm cách xin cho Vĩnh vào đoàn tụ với mình thì Vĩnh đáp «Đời tôi sắp hết! hơn nữa, tôi tự nghĩ chốn sơn lâm cùng cốc này nó hợp với tôi hơn.»
Hậu chậm nước mắt:
– Có một điều thật cay đắng là mãi đến giờ phút ấy, Vĩnh mới biết mình đã có một đứa con gái với Vĩnh. Khi nghe tin ấy Vĩnh lặng người đi rất lâu, rồi Vĩnh nắm lấy tay mình run giọng xin lỗi. Mình kể hết cho Vĩnh nghe tình cảnh mình sau khi Vĩnh bỏ đi và mình cũng kể luôn cả cuộc đời Ý Ly từ khi mở mắt chào đời. Vĩnh ngồi nghe, đầu cúi xuống như ân hận, như đau thương. Giây lâu Vĩnh bảo mình, Vĩnh không xứng đáng nhận Ý Ly, vậy mình hãy thay Vĩnh săn sóc Ý Ly và Vĩnh nhắc đi nhắc lại mình cố đem Ý Ly vào Nam cho con đỡ khổ.
Lúc chia tay, Vĩnh cho mình một túi vải cũ, trong đó có cây violon năm xưa của Vĩnh cùng với bản “J’attendrai”. Nhìn cây đàn và bản nhạc, mình cảm thấy ấm lòng, mình hiểu Vĩnh vẫn nhớ đến mình!
Tôi chợt ngắt lời Hậu:
– Không biết tại sao mà thầy Vĩnh lại có một thái độ lạ lùng như vậy?
– Điều đó mình đã hiểu. Chỉ vì Vĩnh quá nhiều tuổi so với mình và hơn nữa, dù hoàn tục, Vĩnh vẫn không muốn lập gia đình. Người dẫn đường kể cho mình nghe đời sống cơ cực của Vĩnh, nguyên nhân chỉ vì Vĩnh giữ đạo. Mình xót xa khi nhìn thấy những ngón tay cằn cỗi vì cầm cuốc, cầm dao cầu. Một đời nhạc sĩ thế là chấm dứt.
– Thế còn Ý Ly?
Hậu lại thở dài:
– Sau đó tuy rất mệt mỏi, mình cũng tức tốc đi tìm con. Qua bao nhiêu thay đổi, làng Đại Từ bây giờ tiêu điều quá. Cũng vẫn lũy tre, cũng vẫn đồng ruộng, nhưng mà tất cả có một vẻ nghèo nàn, buồn thảm. Mùa ấy tập đoàn đang cấy lúa, người dẫn đường đưa mình đi qua những thửa ruộng đang cấy dở dang. Những cô gái quê nhìn mình tò mò bàn tán, mình có ngờ đâu Ý Ly cũng đang cấy lúa trong đám những cô gái quê mùa ấy.
Bà Vú vẫn còn, bà đã ngoài bảy mươi, lưng còng chân chậm nhưng bao nhiêu chuyện cũ bà vẫn không quên, vì thế khi ngươi dẫn đường vừa báo tin có mình đến, bà nhớ ra ngay. Bà mừng mừng tủi tủi hỏi lại «Cô Hậu ngày bé, cụ Tham giao cho tôi cho bú đây mà» và bà ôm lấy mình vừa cười vừa khóc gọi Ý Ly kể lể «mẹ đẻ của con về thăm con đây này».
Trong khi đợi Ý Ly từ ngoài cánh đồng trở về, bà vú hỏi mình đủ chuyện. Một câu cụ làm mình nghĩ ngợi là vú bảo mình «Tôi biết mà, tôi biết thế nào mẹ con cô cũng có ngày gặp nhau vì Thượng Đế công bằng lắm. Một đứa trẻ không có cha thì thế nào cũng phải gặp mẹ».
Ý Ly gặp mẹ cũng rất bỡ ngỡ. Tội cho con gái mình quá. Nó đúng là một đứa con gái nhà quê. Người ta gọi Ý Ly về giữa lúc nó đang cấy lúa. Trông thấy con mình thương quá. Chỉ biết ôm lấy nó, mặc cho nưóc mắt đổ như mưa. Ý Ly càng lớn càng giống cha. Cũng đôi mắt buồn, cũng vầng trán thông minh và ít nói. Nó nhỏ người chớ không phốp pháp nhiều bề ngang như những cô gái quê khác..
Bà Vú của mình tuy là một bà lão nhà quê nghèo khổ nhưng bà rất đáng quý, vì đã không để cho con gái mình tiêm nhiễm cái ngôn ngữ hiện tại, mà bà bảo rằng nó cục mịch khó nghe như hòn đá. Cũng như Vĩnh, Vú bảo mình «Hay cô chạy cái hộ khẩu cho Ý Ly vào Nam, càng sớm càng hay, vì con trẻ ở cái đất này, phí người đi».
Đêm đầu tiên hai mẹ con nằm chung trên chiếc chõng tre, Ý Ly tỏ vẻ rất quyến luyến mình. Thế nhưng khi mình bảo với con sẽ đem con vào Nam thì nó chỉ cười, không nói gì hết. Thấy con không trả lời rõ rệt, mình lại dỗ dành thì lần nào Ý Ly cũng vậy, con bé chỉ tủm tỉm cười. Qua đêm sau, đang ngủ Ý Ly bỗng thức giấc và hỏi mình «Bao giờ thì mẹ đưa con đi gặp bố con?». Mình bảo «Mẹ sẽ đưa con đến nơi đó, nhưng bố con ở xa lắm», con bé nói ngay «Xa đến đâu con cũng đi». Mình hỏi «Thế con không có ý nghĩ đi thăm mẹ hay sao?». Nó lại cười, tuy nhiên trong ánh mắt nó, mình hiểu nó rất thương mình. Mình hỏi nó «Con có biết mẹ ở nơi nào không?», thì nó cười đáp «Mẹ ở Sàigòn! Nơi đấy người ta sung sướng lắm. Người Sàigòn bao giờ cũng mặc đẹp, những vải lụa và quần áo mẹ cho con là những thứ mà người Sàigòn vẫn mặc». Mình ngạc nhiên quá, nhưng mình thấy vui vui.
Nói đến đây Hậu lấy trong giỏ xách ra một tấm ảnh nhỏ. Vừa nhìn tôi nhận ngay ra Ý Ly, với đôi mắt của thầy Vĩnh ngày xưa.
Trời đã quá trưa, tôi định về nhưng Hậu nhất định rủ tôi «Đến chơi một lần cho biết cái tổ cô đơn.» Tôi hỏi lại:
– Tại sao Hậu lại «chỉ cho tôi đến chơi một lần» là thế nào?
Hậu nhìn tôi, cười buồn:
– Bao giờ Kim đi?
Tôi giật mình:
– Sao Hậu biết?
Hậu lắc đầu thật nhẹ:
– Ngồi đây mãi, ai đi ai ở mà không biết thì còn ai biết.
Và Hậu cầm tay tôi bùi ngùi:
– Hình như số của mấy người chúng mình là phải xa nhau.
Đến lượt tôi ngơ ngác:
– Tại sao Hậu bảo «Mấy người chúng mình», ai mà lắm thế?
Hậu xòe mấy ngón tay:,
– Vĩnh, Kim và mình. Nghĩ lại xem. Ngày xưa, hai đứa mình như bóng với hình, thì mình bỗng gặp Vĩnh, vừa có Vĩnh là Kim biến mất. Bây giờ cũng lại như thế. Mình vừa gặp lại Vĩnh là Kim sắp sửa đi xa. Buồn thật!
Hai đứa chúng tôi đèo nhau trên chiếc xe đạp cũ, vừa đi Hậu và tôi cùng kể về những kỷ niệm ngày xưa khi hai đứa còn là nữ sinh Hà Nội.
Nói đến Hà Nội tôi bỗng ngậm ngùi. Hà Nội của chúng tôi không phải là Hà Nội bây giờ của những người Cộng sản. Hà Nội ngày xưa cổ kính mà thơ mộng với muôn ngàn hình ảnh mến yêu. Hà Nội ngày xưa với những thắng cảnh lịch sử, những chùa, đền tôn nghiêm, với những mái nhà đầy dân tộc tính và những con đường thật trữ tình, quyến rủ. Và người Hà Nội thời ấy mới lịch sự, đẹp đẽ làm sao.
Con người thật của Hà Nội là con người yêu tự do, yêu cái đẹp, trai cũng như gái, đàn ông cũng như đàn bà. Và, ngôn ngữ của chúng tôi là thứ ngôn ngữ văn hoa, ý nhị. Hà Nội với bốn mùa thay đổi, từ thiên nhiên cho đến con người cũng hòa hợp trong màu sắc yêu đương.
Tôi nhớ khi nắng Hạ vừa vươn là lúc những tà áo lụa Hà Đông được đàn bà con gái Hà Nội đem ra mặc. Thu sang là hình ảnh của những cánh bướm màu sắc nhẹ nhàng trông rất nên thơ. Kế đến, khi gió bấc đưa mùa Đông cùng với mưa phùn mỏng như tơ là lúc áo nhồi bông, áo len, áo dạ ấm màu, mà cũng là ấm mắt biết là dường bao. Cuối cùng, khi hoa xuân đua nở, con người và vạn vật như sống lại với chúa Xuân, rực rỡ muôn màu, muôn sắc.
Ngày nay, mọi sự đổi thay. Hà Nội bây giờ chẳng còn là thành phố thân yêu của chúng tôi nữa. Tất cả chỉ còn là dĩ vãng.
Nơi Hậu ở là một xóm nhỏ tận cuối đường Chi Lăng, căn nhà xinh xắn, tuy chẳng còn đồ đạc quý giá nhưng cũng là tổ ấm của kẻ cô đơn. Ở một góc tường hơi khuất, cây violon cũ đã bạc màu treo cạnh bức chân dung nữ sinh của Hậu.
Ngay đầu giường Hậu, một cánh pensée âm thầm.
Vừa nấu hai tô mì gói, Hậu vừa kể với tôi về lai lịch căn nhà nhỏ. Mãi xế chiều chúng tôi mới chia tay.
Những ngày sắp đi tôi bận tối mắt. Và đúng vào hôm tôi bận nhất thì Hậu mò đến. Hôm nay Hậu vẫn mặc chiếc áo bà ba đen, nhưng mới hơn khiến màu da anh đào của Hậu rất ưa nhìn. Vừa thấy tôi Hậu đã tươi cười báo tin:
-Ý Ly vừa vào sáng sớm hôm nay.
Tôi ngạc nhiên:
– A! chuyện lạ đây.
Hậu vẫn cười:
– Kể ra thì lạ thật, vì nó vào cùng với một người nữa…
Tôi reo lên:
– Thầy Vĩnh …chứ còn ai?
Hậu lắc đầu:
– Không, sai rồi! Không phải người yêu của mẹ nó mà là người yêu của nó.
Rồi Hậu hỏi tôi:
– Kim còn nhớ hồi mình ra Bắc tìm con. Mấy lần mình nói đến chuyện đưa nó vào đây thì nó chỉ cười không đáp có hay không. Dỗ hoài nó vẫn nín thinh, chỉ tủm tỉm cười…
– Thế bây giờ? Ai nói mà nó chịu vào?
– Thì ra là nó đợi thằng Ái ra đón. Hai đứa mới dắt nhau vào thăm mình và xin phép làm đám cưới.
Tôi tròn mắt:
– A! Thú vị thật.
Hậu cười hiền lành:
– Cũng như mẹ nó ngày xưa…
Tôi cãi:
– Khác chứ, giống sao được. Có phải vậy không?
Hậu tủm tỉm:
– Ừ, khác xa. Và mình rất hoan nghênh. Con gái mình từ nay sẽ ở gần mình cùng với chồng nó.
Tôi chợt hỏi:
– «Anh chàng» không phải bộ đội đây chứ?
Hậu có vẻ hài lòng:
– Bộ đội nào lọt vào nổi nhà bà Vú mình. Thằng Ái này là cháu họ của bà cô mình. Trước ngày di cư, gia đình nó cũng ở làng Đại Từ, nhưng chỉ vào Nam phân nửa. Sau tháng tư năm 75, ông bố nó mới dắt hai chị em nó ra tìm mẹ nó và mấy đứa con nhỏ.
Tôi cầm tay Hậu định nói một câu nhưng lại thôi, tôi không muốn bạn tôi lại phải chứng kiến thêm lần nữa hình ảnh chia ly.