KẺ ĐẠI THẮNG
Chiếc xe hơi đen bóng loáng chạy vào ngõ hẻm, từ từ đậu lại trước biệt thự sang trọng của bà Tư. Những người bán hàng quà ngồi quanh ở đầu hẻm, không ai bảo ai đều chăm chú nhìn theo.
Đã mấy tháng nay, kể từ sau ngày những cái loa lớn loa nhỏ của thành phố ong ỏng kêu gọi “ngụy quân, ngụy quyền và viên chức xã ấp đi trình diện, đăng ký” thì khoảng vài tuần, dân trong ngõ hẻm này lại thấy một chiếx xe hơi xịch đến trước biệt thự của bà Tư. Những người biết chuyện kháo nhau rằng «Ông chồng bà Tư đi tập kết về, bây giờ ông ta là thượng tá».
Có người ngây thơ hỏi «Thế ra chồng bà Tư là Việt Cộng?»
Cũng có người kết luận: «Té ra mình ở chung với Việt Cộng mà không biết, như thế làm gì chẳng mất nước».
Từ đó mọi người quanh đây thường để mắt đến tòa biệt thự của bà Tư…Việt Cộng.
Một buổi sáng khi thấy chiếc xe hơi quen thuộc, lừng lững tiến vào ngõ hẻm, Cụ Cả, một bà cụ già ngoài bảy mươi tuổi đã nói với mấy bà ngồi bán cháo, bán khoai trước cửa nhà:
– Đúng là cháy nhà ra mặt chuột. Ai ngờ bà Tư trông mặt mũi như thế mà để chồng theo V.C.!
Một bà đang ngồi ăn cháo, tủm tỉm cười:
– Lão ta là thượng tá đấy, không phải chức nhỏ đâu, Cụ ạ.
Bà bán khoai dài môi ra:
– Không phải chỉ một mình lão thượng tá này đến nhà bà Tư mà tôi còn thấy hai ba lão V.C. đội nón cối, mặt khó đăm đăm cũng vào nhà bà này cùng với chồng bà ta mấy lần.
Bà hàng khoai tò mò:
– Lão thượng tá là chồng bà ta, sao không ở luôn nhà vợ mà lại cứ nay đến mai đến, lạ thật!
Cụ Cả chép miệng:
– Ai biết được chuyện nhà người ta. Tôi nghe nhiều người kể chuyện rằng V.C. không giống người mình, vợ chồng chưa chắc đã tin nhau. Có lẽ lão này gần hai mươi năm mới gặp lại vợ, nên cũng phải rình mò chán rồi mới dám khăn gói trở về cũng nên.
Bà hàng cháo kể lể:
– Từ mấy tháng nay bà Tư nầy tốn đến bạc triệu chứ không ít. Tôi ngồi bán ở đây tôi thấy mấy lần, khi thì khuân ti-vi, máy cát-sét, khi thì máy may, tủ lạnh, chắng thiếu thứ gì. Cứ khuân lên xe là xe chạy biến, hôm sau trở lại, khuân nữa. Chẳng biết lão ta khuân của cải của vợ đi đâu.
Bà hàng khoai:
– Lại còn thết cơm nữa. Tôi thấy hôm nào lão ta đến, bà này cũng hộc tốc ra chợ, xách một lúc mấy giỏ đồ ăn về. Tính ra chỉ tiền đãi tiệc cũng mấy trăm ngàn.
Cụ Cả chậm rãi:
– Ai ngờ cũng dân di cư như mình mà bà Tư này gớm thế.
Cụ nói tiếp:
– Vợ chồng bà này năm 54 vào đây cùng chuyến tàu với gia đình tôi. Lúc bấy giờ bà ta cũng có hai đứa con rồi, con Lý với thằng Di. Hai vợ chồng lúc đầu cũng chịu khó làm ăn, vậy mà chẳng biết người chồng nghe đứa nào nó xúi khôn xúi dại, bỏ vợ bỏ con đi với V.C.
Bà khách đang húp cháo ngưng lại, hỏi đột ngột:
– Hình như năm kia hay năm ngoai, bà Tư này có gả chồng cho đứa con gái, phải không Cụ?
Bà hàng cháo nhanh nhẩu cướp lời:
– Phải đó. Hồi đám cưới con Lý, tôi cũng có đến làm giúp cho nhà gái nữa mà.
Và bà ta hỏi ngay:
– Mà cũng lạ, con Lý lúc nầy nó ít về đây. Tôi thấy có hôm nó đã vào đến đầu ngõ, rồi lại bỏ đi.
Cụ Cả ra điều biết nhiều:
– Nó đã ra ở riêng thì nó còn phải lo cho gia đình của nó chứ. Lão thượng tá kia về thì đã có vợ hầu, con gái đã đi lấy chồng rồi, có ăn nhằm gì nữa.
Ngưng một lúc, cụ lại nói thêm:
– Mà cái lão này xem chừng con cái chẳng đứa nào ưa. Nhất là con Lý này. Có một hôm tôi hỏi thăm về bố nó, thì nó trả lời toàn gọi là “ông ấy” với “ông ta”. Nghe lạnh nhạt lắm.
Bà hàng khoai cười hình hịch:
– Cụ biết lão ta rõ đến thế à?
– Thì đã bảo họ vào Nam cùng lượt với gia đình tôi mà. Năm ấy chính bà Tư này theo tôi đến đây mua nhà, thời ấy ngõ này chỉ là bãi sình, đầy rác với cỏ hoang chứ đâu có nhà cửa sầm uất như bây giờ. Mãi khi có mấy gia đình di cư chúng tôi đến ở, những bà con khác mới đến theo.
Nhổ xong bãi cốt trầu, cụ Cả nói tiếp:
– Những người đến đây năm ấy ai mà chẳng biết gia đình bà Tư này, bà ta nhanh nhẩu bao nhiêu thì cái lão này hồi đó lầm lì bấy nhiêu. Lúc bấy giờ lão ta còn trẻ nhưng khó tính khó nết, miệng thì kín như bưng, không có giao dịch với một ai trong hẻm này cả. Hai đứa con đang chơi mà thấy bóng bố về là cả hai đứa cùng lủi mất.
Bà hàng khoai vẫn cười:
– Cụ nói thế không chừng cụ biết cả lúc lão ta đi theo V.C. cũng nên.
Cụ Cả nghiêm ngay nét mặt:
– Chuyện ấy thì không. Thứ ma đưa lối quỷ dẫn đường ấy là chuyện riêng của họ, gia đình tôi là người làm ăn không ai biết những chuyện lôi thôi đó.
Và cụ dịu giọng, nói nhỏ hơn:
– Có điều từ khi bà ấy sinh xong thường con út thì bỗng dưng lão ta biến mất. Gần hai mươi năm nay, ai cũng tưởng lão chết rồi, đâu có ngờ bây giờ vừa mất nước xong thì thấy lão mò về.
Đang nói chuyện bỗng mấy người đàn bà cùng nhìn về đầu ngõ hẻm. Bà Tư với hai cái giỏ nặng chĩu thức ăn, chậm chạp đi về. Thấy mọi người chú ý đến mình, bà Tư miễn cưỡng gượng cười đáp lại, bà đã nhận thấy ánh mắt kém thiện cảm trong cái nhìn của hàng xóm láng giềng.
Từ ngày ông chồng tập kết trở về, đối với những người chung quanh bà Tư có cảm tưởng mình là kẻ tội phạm đang bị mọi người xa lánh và ghê sợ.
Gần hai mươi năm trời xa cách, bây giờ gặp lại, ngay trong buổi đầu, bà đã nhận thấy cái gì ngăn cách và xa lạ giữa hai người. Người chồng mà bà vẫn âm thầm mong đợi, ngày nay trở về không còn là người thân yêu của bà nữa.
Ông ta có những khác lạ, từ con người cho đến ngôn ngữ, thái độ, tất cả đều đổi thay.
Điều mà bà ta khó chịu nhất là luôn luôn khi về thăm nhà, ông ta đều không đi một mình, ngay cả lần đầu tiên ta về đến nhà bà, ít nhất cũng có một hai người khác đi theo. Họ ăn uống thỏa thích cả một ngày trời nhưng tối đến thì chồng bà cũng theo những người kia ra đi, như tất cả đều là khách.
Vì thế bà có rất nhiều chuyện riêng tư muốn nói với chồng nhưng vẫn chưa có dịp thố lộ.
Nhưng hôm nay, khi đi chợ về, bà ngạc nhiên thấy ông chồng đã đến và chỉ có một mình.
Ông ta đang ngồi hút thuốc ở phòng khách, cả hai chân đều cho lên chiếc ghế xa-lông dầy nệm “mút”. Bà vồn vã:
– Ông vừa đến chơi đấy à?
Ông ta nhìn hai cái giỏ chợ, nhếch môi:
– Phải, tôi cũng mới đến độ chục phút thôi.
Bà nhìn quanh giọng vui vẻ:
– Hôm nay ông về nhà một mình?
– A, các đồng chí cũng bận đi tham quan thành phố, nên tôi tranh thủ về thăm nhà một buổi.
Bà thở ra và được dịp nói luôn:
– Ông về thăm vợ con mà cứ đèo thêm mấy ông kia khiến tôi khó ăn khó nói qua. Đi một mình như thế này có phải tiện hơn không?
Ông ta vội chặn ngay:
– Ấy! bà chớ có phát biểu như thế. Nói như bà là rất sai lầm đường lối. Đây là các đồng chí ruột thịt, tình nghĩa của tôi. Họ đến đây thấy nhà cửa của bà như thế này, họ phấn khởi lắm.
Bà buông hai cái giỏ, ngồi đối diện với chồng:
– Thật may mà tôi đoán được hôm nay thế nào ông cũng về nên tôi đi chợ sớm, mua đầy đủ các thức để làm mấy món ăn thật ngon mà ngày xưa ông vẫn thích.
Đôi mắt ông ta lại nhìn xuống hai cái giỏ chợ, và nói không kịp cân nhắc:
– Trong Nam này sướng thât! thịt ăn bừa phứa. Hôm qua ở cơ quan, các đồng chí cũng chung nhau tiền mua mấy cân thịt quay, ăn một bữa sướng quá.
Bà Tư cười:
– Tưởng gì chớ món thịt quay là món xoàng nhất đối với người Sàigòn. Chỉ hôm nào lười vào bếp, tôi mới mua thịt quay, ăn cho nó gọn. Mà trong này người ta gọi là «ký» chứ không nói là «cân» đâu. Ông phải tập nói như chúng tôi cho quen.
Sắc mặt của ông bỗng đanh lại:
– Ký? ký là cái gì? Phải nói «cân». Một cân, một lạng! «ký» là từ của Mỹ ngụy, phản động lắm!
Bà vẫn cười:
– Từ hôm gặp ông đến giờ, cái gì ông cũng kêu là phản động, mà cái gì rồi ông cũng thích!
Nói xong bà hơi hối hận, bà vội đến bên tủ mở khóa, lấp liếm nói với ông:
– Tôi có cái này hay lắm… Mấy lần ông về chơi vì vướng khách khứa nên tôi quên mất. Tôi có để dành cho ông mấy thước «sẹc len», may quần tây mặc đẹp lắm.
Ông ta vội sấn đến gần, tới tấp hỏi:
– Đâu? đâu? hay nhỉ, «sẹc» là cái gì? Hàng «ngoại» hả? ừ! đẹp đấy. Thứ này dễ mặc cả đời cũng không rách. Thứ này may quần Âu nữ cũng đẹp.
Nhưng bà lại nói sang chuyện khác:
– Hôm nọ tôi có kể qua loa với ông rằng chồng con Lý đi học tập, ông có nhớ không?
– Đã! rồi sao?
Bà Tư đặt xấp vải vào tay ông ta:
– Tôi chỉ muốn xui ông làm đơn bảo lãnh cho thằng Chính nó được về. Nói là đi học tập mười ngày mà đã mấy tháng nay gia đình chẳng có tin tức gì. Vợ nó với tôi lo quá. Lúc đi nó đem theo vỏn vẹn có hai bộ quần áo, bây giờ vừa đổi tiền xong. Chẳng biết nó lấy tiền đâu mà ăn sáng với uống cà-phê.
Ông ta vẫn không rời xấp hàng, ngồi xuống ghế:
– Học tập chính sách nhà nước cũng tốt thôi. Nhà nước ta khoan hồng, cứ phấn đấu tốt, học tập tốt, lao động tốt. Chứ còn cứ nói cho đúng thì tội của bọn ngụy này nặng lắm.
Bà dịu dàng:
– Thằng bé này nó là giáo sư, nó dạy học rồi vào quân đội, rồi được biệt phái, nó có cầm súng bao giờ đâu. Nó ngồi văn phòng mà tội tình gì?
– Bà thì biết gì! Biệt phái rất ghê gớm. Không khéo chừng nó là xê-i-a cũng nên, chứ không thì làm gì được Mỹ Ngụy nó cho biệt phái?
Bà nhỏ nhẹ:
– Chuyện đó thì tôi không biết, chỉ xin ông thương cho con Lý nhà mình. Tội nghiệp con bé, từ ngày quá hẹn không thấy chồng được về, nó sợ cứ tái xanh, tái xám. Ông mà xin cho thì làm gì chẳng được.
Giọng ông ta bỗng trở nên quyết liệt:
– Dứt khoát là không! Tôi không quan hệ gì đến chuyện ấy hết. Tội nó nặng lắm. Rồi mai kia còn đem ra cho nhân dân người ta xét xử nữa chứ. Sau này địa phương người ta còn quản lý nữa chứ.
Bà sợ hãi:
– Trời ơi! ông nói cái gì mà ghê thế? Cái thằng con rể tôi xưa nay chỉ có đi dạy học thôi, mà bây giờ cũng nặng tội thế à?
Ông ta trả lời tỉnh bơ:
– Thì nó nhồi sọ con em của nhân dân theo đường lối Mỹ Ngụy phản động mà lỵ! Đây bà đã thấy tội nó nặng chưa?
Bà chán nản ngồi xuôhg ghế:
– Thế… ông không giúp được nó tí gì à?
Giọng ông ta khô khan:
– Dứt khoát! Triệt để dứt khoát! Bà rõ chưa?
Bà đứng lên, buồn bã xách hai cái giỏ vào nhà trong.
Ông ta bỗng đi nhanh theo, đổi giọng:
– À quên, hôm nay bà nhớ gia tăng khẩu phần gạo nhá?
Bà quay ngoắt lại, vẻ mặt bực bội:
– Lại có khách à? ai vậy?
Lần đầu tiên, kể từ ngày gặp lại, hôm nay bà Tư mới thấy ông chồng tập kết của bà nở một nụ cười tươi tắn, ông ta cố lấy giọng cầu hòa:
– Ấy,tôi cũng tập trung mấy lần, định báo cáo với bà nhưng mãi hôm nay mới có thời gian. A… tôi định kế hoạch với bà là hôm nay mình chiêu đãi một nữ đồng chí, bà ấy cũng là anh hùng đánh Mỹ đấy… chúng tôi đã… đã xây dựng với nhau từ mười năm nay…
Bà buông rơi cái giỏ đầy thức ăn:
– Ông nói thế nào? xây dựng?… nghĩa là… ông với bà ta sống chung rồi. Có phải vậy không?
– Đại khái như thế. Chuyến này bà ấy cũng có công tác đột xuất, và cũng đi «B» như tôi, nhưng vào đây sau tôi. Hôm nay mình chiêu đãi là đúng quy cách lắm.
Mặt bà nhợt nhạt:
– Nghĩa là ông đã có vợ khác rồi?…
– Đại khái như thế. Chúng tôi đã sát cánh suốt thời gian đánh Mỹ. Đồng chí này đạt nhiều thành tích chiến đấu lắm. Tích cực mà. Bây giờ tôi khẩn trương đi đón bà ấy, còn bà chuẩn bị bữa ăn là vừa.
Bà Tư không muốn nghe thêm một câu nào nữa và cũng chẳng buồn nhìn theo ông chồng tập kết mới trở về nữa.
Bà ngối xệp xuông đất. Đầu óc quay cuồng.
Thế là hết. Thế là chấm đứt những năm âm thầm chờ đợi. Bà thở dài để chợt nhớ rằng có một mùa hè mà người Sàigòn gọi là mùa hè đỏ lửa, chính thời gian đó bà đã nghĩ rằng chiến trận như thế, chắc chồng bà cũng đã chết rồi.
Bây giờ ý nghĩ ấy trở lại với bà.
Thật lâu bà Tư mới đứng lên. Như một người máy bà đến bên mấy cái bếp lò, đốt bếp, nấu nước, sửa soạn bữa ăn. Dù tim bà se thắt nhưng chốc nữa đây bàn ăn cũng sẽ linh đình!
Tháng trước dân chúng đã nếm mùi một cuộc đổi tiền. Cũng như mọi người bà Tư chỉ được cầm 4 tờ giấy 50 đồng vỏn vẹn, nhưng hàng hóa của bà buôn bán lủng củng chứa đầy một nhà kho bí mật. Hàng ngày chỉ cần bán vài xấp sa-tanh tuyết nhung hiệu «con gà gù» đen bóng, mướt ơi là mướt cho mụ vợ một lão cán bộ nào đó, để may đôi ba chiếc quần đen là bà Tư cững đủ tiền mua một ngày chợ cho lão chồng tập kết ăn một bữa no nê béo miệng.
Có tíếng động sau lưng, bà Tư quay lại, Lý từ ngoài đi vào.
Vừa trông thấy con gái, bà Tư bỗng òa lên khóc, tức tưởi kể lại mọi chuyện cho Lý nghe. Lý đứng im mặc cho mẹ khóc, giây lâu Lý mới nói:
– Con đã nghi ngay. Mà thôi, má cũng nên can đảm coi như chúng con đã mất bố kể từ ngày bố ra đi. Chứ con người trở về nầy, không thể còn là bố của chúng con nữa.
Nghe con gái nói, bà Tư càng buồn khổ thêm. Bà cố giữ vẻ bình thản, điềm nhiên đón tiếp người đàn bà lạ mặt mà chồng đưa về giới thiệu.
Mụ ta phục phịch trong bộ quần áo bộ đội màu cứt ngựa, hai bên cổ áo có đính quân hàm, cấp bực. Môt đuôi sam dài lủng lẳng sau lưng, mụ mang dưới chân đôi dép có quai hậu bằng nhựa trong, gót nhọn hoắc nhưng thấp tè.
Vừa vào nhà, mụ đã cất giọng the thé sắc như dao gọi bà Tư bằng chị và anh anh, em em với lão thượng tá. Mụ cuộn người lên ghế sa-lông và đảo mắt môt lượt khắp căn phòng khách.
Mụ nói không ngừng, chửi Mỹ Ngụy thậm tệ nhưng đồ vật gì còn trưng bày trong phòng khách, mụ cũng dán mắt vào và xuýt xoa, thèm thuồng. Mụ tò mò đến bên chiếc tủ áo toàn bằng kính trong suốt của bà Tư, ngắm nghía những chiếc áo dài bằng tơ, bằng gấm đắt tiền còn lại và những bộ đồ mặc nhà thêu chỉ màu diêm dúa. Mụ xâu chân vào một loạt giày, dép đủ kiểu, gót cao, gót bằng của bà Tư để dưới chân tủ. Rồi mụ mon men đến bên bàn phấn, ngồi xuống chiếc ghế lùn êm ái, nhìn trân trối những lọ nước hoa, lọ keo xịt tóc, lọ kem, hộp phấn, ống son môi cùng nhiều thứ mỹ phẩm lỉnh kỉnh khác để bừa bãi trên mặt bàn.
Kế đấy mụ đi khắp nhà, xem từ cái máy giặt cho đến cái lò quay gà, lò nướng bánh. Đối với mụ mọi thứ ở đây đều lạ lùng và hiếm có. Phòng nào mụ cũng sục vào và luôn miệng khen ngợi và nhắc đi nhắc lại mãi một câu: «cứ theo ngoài ta thì diện tích này ở được mười hộ!» Mụ nhình mảnh vườn trống sau nhà buông một câu tiếc rẻ: «chỗ này mà nuôi lợn thì tốt biết mấy, để không phí quá.»
Cuối cùng khi vừa chấm dứt bữa cơm, mụ vội vàng vào thẳng phòng ngủ bà Tư lăn kềnh xuống chiếc giường trải đệm êm ái, đánh một giấc say sưa.
Một tháng sau, một buổi tối đến chơi nhà bà Tư, ông chồng tập kết của bà Tư tuyên bố với bà rằng, ông ta đang xin chuyển hộ khẩu của ông ta cùng với mụ vợ đồng chí vào địa chỉ bà Tư. Ông ta nói rắng «nhà này rộng lắm, cần phải có mặt vợ chồng ông ta, nếu không mai kia nhà nước cũng bắt phải chia người khác».
Bà Tư đón nhận cái tin bất ngờ đó với nét mặt không thay đổi, bà bình tĩnh hỏi lại:
– Bao giờ thì ông được phép chuyển vào đây?
Giọng ông ta đầy vẻ tự đắc:
– Tôi ấy à? Trên đã quy định cho tôi rồi, chỉ còn phải đợi hồ sơ của bà ấy nữa là xong.
Bà Tư vẫn gặng hỏi:
– Ông cũng phải áng chừng độ bao giờ để cho tôi còn liệu thu xếp?
Ông ta nhẩm tính và trả lời:
– Trên đang điều tôi ra Hà Nội vài tuần, sau ngày ấy tôi trở vào là dứt khoát đấy.
Bà Tư có vẻ nghĩ ngợi, giây lâu bà gật gù:
– Được, ông cứ yên trí. Rồi ông sẽ được ở cái nhà này, tôi sẽ cho ông làm chủ cái biệt thự này.
Ông ta hí hửng nhưng vẫn chắc lép:
– Thế là bà đã quy ước rồi đấy nhá, đừng có phản lời đấy.
Giọng bà mát mẻ:
– Chẳng những ông sẽ là chủ hộ mà mai kia ông cũng sẽ đứng tên luôn cả cái nhà này nữa.
Từ hôm sau, ít ai thấy mặt bà Tư ở nhà. Gần như lúc nào bà cũng có việc phải vắng nhà. Phần nhiều bà hay đi với Lý, người con gái gầy đét, trông thì ốm yếu nhưng suốt ngày chỉ làm bạn với bụi đường. Lý có môt chiếc honda hãy còn mới và gần như ngày nào Lý cũng đem xe đến chở mẹ đi công việc từ sáng sớm cho đến tối mịt hai mẹ con mới về nhà.
Hàng xóm láng giềng kháo với nhau rằng lúc này Lý về nhà nhiều hơn và cứ gặp Lý ở đâu cũng thấy có bà Tư bên cạnh.
Cũng từ hôm ấy trở đi, ông chồng tập kết của bà Tư cảm thấy yêu đời, một tương lai an nhàn cùng một đời sống no thừa đã mở ra trước bước chân ông.
Nghĩ đến tòa biệt thự đầy đủ tiện nghi thêm vào là cuộc sống sang trọng được hưởng ở những ngày sắp tới, ông ta hối hả lên đường ra Bắc sớm hơn dự định. Ra sớm để còn sớm trở về miền Nam, ông ta nói thầm một mình như thế.
Vào Nam, ông ta cảm tưởng mình là con chuột trong một vựa gạo vừa trắng vừa thơm. Sung sướng làm sao! Những bữa cơm, cá thịt ngon lành béo bổ, những cái tủ đầy ắp quần áo đắt tiền và của chìm của nổi của bà vợ cũ nữa. Mảnh đất này, đối với ông ta là xứ của ngọt ngào, quyến rủ. Làm sao ông quên được những tiếng «dạ» êm tai mà chỉ từ khi đặt chân vào miền Nam ông mới được nghe thốt ra ở những người đàn bà duyên dáng? Ra Hà Nội giữa tháng năm âm lịch, chao ôi! thời tiết chi mà cơ cực, nóng bỏng từ ngoài trời cho đến mảnh ván ở trong nhà. Dù cái quạt máy tối tân, ông ta đã lấy được ở nhà bà Tư đem ra, cho chạy suốt đêm cũng chẳng thấm gì với cái oi bức giữa mùa hè Hà Nội.
Đêm khuya, trăn trở trên cái giường gỗ nhớp nháp nóng như hun lửa ở trong, ông ta càng nhớ đến căn phòng có gắn máy điều hòa, làm không khí mát rượi ở nhà người vợ cũ ở Sàigòn. Rồi đến nước tắm mới càng khổ thêm. Những vòi nước vào mùa hè Hà Nội gần như cạn khô. Hàng trăm đôi thùng xếp quanh một vòi nước, nhưng chỉ nhỏ giọt giống như bầu vú khô của bà mẹ đói ăn, chẳng còn giọt sữa nào.
Cái cảnh thiếu nước làm ông ta nhớ đến cái vòi hoa sen sẵn sàng tưới những tia nước mát rượi, ào ào không ngừng như dòng suối tiên trong phòng tắm sang trọng lót toàn đá hoa xanh bóng quanh tường ở nhà bà Tư.
Những ngày thiếu thốn, sống khổ ở Hà Nội đã làm người hùng một thời ao ước mau chóng trở về Sàigòn….
Giữa đêm hè oi bức khiến ông ta mất ngủ, đã làm ông ta phải ôn lại quãng ngày vừa qua, tạm sống trong tòa nhà trưởng giả của người vợ cũ. Người đàn bà ấy dù đã bị phản bội nhưng vẫn cam chịu và mềm mỏng đối với ông. Bà ta đã cho ông tất cả những gì mà ông thiếu thốn, nhưng bây giờ nghĩ lại, ông bỗng thở dài.
Đấy là một đêm ngủ lại sau bữa cơm tối thịnh soạn với mấy ly mai-quế-lộ ngất ngây. Ông ta được đưa vào một phòng nhỏ xinh xắn với khung cửa sổ mở rộng, phảng phất mùi hoa ngọc lan mát rượi lùa vào. Nằm đây, ông ta biết rằng chỉ cách một vách tường là căn phòng riêng của người vợ cũ.
Từ ngày trở về sau gần hai mươi năm xa cách chưa lần nào ông được phép xâm nhập căn phòng riêng biệt ấy.
Nhưng đêm hôm ấy ông ta đã nhỏm dậy đi đến cửa phòng bà Tư. Cánh cửa đây rồi, nhưng bên trong khóa chặt. Tim hồi hộp ông ta đành lên tiếng gọi, nhưng tiếng gọi trơ trẻn và vô duyên đã khiến ông ta bực bội. Đêm khuya một mình đứng trước cánh cửa im lim như chế diễu, ông ta đành lủi thủi bỏ về với chiếc giường nhỏ cô đơn. Bây giờ nghĩ lại ông ta bỗng nhận thấy sự khác biệt giữa hai người đàn bà. Cô vợ trẻ mà ông ta nhặt được ở chiến trường Trường Sơn, quả thật không thể xếp hạng với người thiếu phụ dịu dàng nhưng tế nhị của thành phố miền Nam.
Người đàn bà ấy dù tuổi đời chồng chất nhưng vẻ mặn mà, duyên dáng và nhất là nữ tính rất quyến rủ vẫn còn. Từ mái tóc đến ngón chân, từ đôi mắt đến dáng người tất cả vẫn có một nét gì gợi cảm, ưa nhìn và cao qúy. Giống như một bông hồng tuy đã nở hết độ nhưng vẫn đẹp, tươi, xứng đáng được để mãi trong chiếc bình pha lê quý giá.
Người đàn bà ấy cho ông ta đủ thứ, nhưng giờ đây nghĩ lại, ông ta chỉ đúng là người khách lỡ độ đường, được bố thí no ấm, thế thôi. Ngoài ra, tất cả đều khép lại, giới hạn.
Lần đầu tiên, từ ngày chiến thắng miền Nam, đêm nay, ông thượng tá tập kết, biết thở dài.
Ý nghĩ phải mau chóng trở về miền Nam thôi thúc ông ta. Ngày trở về Sàigòn rồi cũng đến. Ông ta nôn nóng sửa soạn hành trang. Suốt từ sáng sớm chầu chực sáu tiêng đồng hồ nhễ nhại mới đặt chân lên được máy bay.
Giữa trưa vừa xuống đến phi trường Tân Sơn Nhất, ông ta hối hả thuê riêng một chiếc tắc-xi ra lịnh chạy thẳng về địa chỉ của bà Tư. Chiếc xe tiến vào ngõ hẻm. A! tòa biệt thự sang trọng đây rồi.
Ông ta xuống xe, hách dịch bấm chuông và chờ đợi. Nhưng ơ kìa, sao chẳng thấy ai ra mở cửa? Ông ta bấm nữa, bấm hết sức mình và bấm liên hồi. Lạ chưa? Vẫn không một bóng người. Ghé mắt nhìn qua khe cổng sắt, kìa, bao nhiêu cửa lớn cửa nhỏ trong nhà đều đóng kín…
Vài con chó hoang chạy qua, ngửi ngửi đống hành lý rồi chĩa mõm sửa om sóm, khiến những người đàn bà bán hàng quà quanh đấy tò mò quay lại nhìn theo. Một đám con trai nhỏ, áo quần xốc xếch túa đến vây quanh, chỉ chỏ cái nón cối của ông ta vừa cười nói huyên thiên.
Tức mình ông ta quay lại hầm hừ, lũ trẻ sợ cuống, xô nhau tản ra nhưng vẫn còn những tiếng cười khúc khích. Bà hàng cháo và bà hàng khoai gọi cụ Cả, và cùng đi về chỗ ông ta đang đứng. Cụ Cả chậm rãi hất hàm hỏi:
– Ông là thượng tá Việt Cộng đó, có phải không?
Không đợi ông ta đáp, bà cụ đã nói ngay:
– Ông kiếm bà Tư hả? Mấy mẹ con bà ấy đi Bắc từ nửa tháng nay rồi!
Mặt ông ta ngớ ra:
– Cụ bảo thế nào? Họ đi Bắc cả rồi à? Lạ nhỉ? Chính tôi cũng vừa ở Bắc vô vào trong Nam đây mà. Bà ấy có báo cáo gì về chuyện đi Bắc với tôi đâu?
Cụ Cả nhổ bãi cốt trầu:
– Chuyện nhà ông ai mà biết được. Thấy ông gọi cửa một cái nhà không người, thì tôi làm phúc bảo cho, chứ ai biết báo cáo với báo chồn cái gì!
Bà hàng cháo oang oang:
– Bà Tư đi rồi. Bà ấy cùng với hai thằng con trai, có cả con Lý nữa, xin giấy phép đi Bắc hết rồi.
Ông ta cau mày:
– Thế này là thế nào?
Bà hàng cháo vẫn cố nói thêm:
– Vợ thì nói đưa con đi Bắc. Chồng thì bảo vừa ở Bắc vào Nam! Bố ai hiểu được chuyện gì?
Trong đám trẻ con vây quanh, chợt có một đứa buột miệng nói to:
– Điệu này bà Tư dám vượt biên lắm à! Đầu tháng trước, anh của thằng Cu em trong hẻm đây, cũng ra phường xin giấy phép về Đà Nẵng thăm quê. Kế đấy có tin ảnh vượt biên qua tới Xanh-ga-po rồi!
Mấy đứa khác cùng reo lên:
– Rồi! thêm một đám nữa vượt biên! Vượt biên hết cả rồi ông cán bộ ơi!
Một ông cụ già lách đám đông đi tới, bà bán cháo lại mau miệng:
– A, có cụ tổ trưởng lại đây…
Ông cụ cầm xâu chìa khóa, ôn tồn nói với người đội nón cối:
– Ông đừng nóng, có đủ chìa khóa cửa đây. Bà Tư xin giấy phép đi Bắc cùng cả bầy con. Trước khi đi bà ấy nói với tôi: thế nào ông cũng từ Bắc vào Nam sớm. Bà ấy nhờ tôi đưa lại ông mấy cái chìa khóa cửa để ông vào nhà.
Ông Thượng tá Việt Cộng ngạc nhiên lắm, nhưng trông thấy xâu chìa khóa, ông ta không còn muốn hỏi gì thêm. Ông ta cầm nhanh lấy, hấp tấp mở cổng đi vào.
Đây là phòng khách. Đồ vật vẫn y nguyên. Ông ta nhanh chân đi vào phòng ngủ của bà Tư, cửa phòng không khóa, nhẹ mở toang trước nắm tay phũ phàng của ông. Căn phòng tĩnh mịch, giường đệm trắng tinh êm ái, cặp gối vẫn đặt ngay ngắn. Mùi nước hoa quen thuộc thoang thoảng đâu đây…
Ông ta lại nhìn quanh… Cả một biệt thự không một bóng người…. Hoang vắng rõ ràng.
Đột nhiên ông ta chợt hiểu. Là kẻ đại thắng, ông ta đã chiếm được tất cả, thế nhưng giờ đây tất cả đều vẫn như không.