Chương 2
ĐÊM HAI MƯƠI MỐT. Đêm nay đám hội làng Thượng mới thực là đông. Bởi là đêm nghỉ ngơi của tất cả những làng theo về công nghệ làm lĩnh, làm lụa trong vùng Bưởi như làng Thượng, làng Nha, làng Sài, làng Bái.
Từ buổi chiều, đi chợ lĩnh về qua làng Thượng, nghe trống đánh thòm thòm trong sân đình, Ngây đã thấy lòng hớn hở khấp khởi mừng. Không biết nàng mừng gì. Được gặp người yêu hay được đi xem hát chèo? Nàng chẳng rõ.
Là con nhà làm ăn chân chỉ, Ngây không hề đàng điếm đi xem hội ban ngày. Vả lại, đám làng Thượng ban ngày chỉ có cúng suông, không rước xách gì, nên chẳng đợi để bố phải cấm, tự ý Ngây cũng không đi xem. Phần ấy để cho trẻ con. Như thằng Toản thì phải biết. Nó chạy nhông suốt ngày trong đám. Xem leo cột mỡ, đi cầu noi, xem hát xẩm, đánh súc sắc và xem tất cả mọi người ta. Nó sướng mê lên, không tưởng đến sự về nhà, ông Nhiêu cũng không đánh mắng gì nó. Cả năm, nhiều lắm được vài ngày vui ồn, cho trẻ nó thả cửa vui chơi.
Cơm nước xong trời vừa chập choạng tối. Ngây bắt đầu trang điểm. Thấy chị thắp đèn để soi gương, Toản hỏi:
- Chị Ngây đi xem chèo đấy chứ?
- Ai bảo mày thế?
- Em biết. Cho em đi với.
Ngây mắng:
- Ranh con! Đi mà đi với chúng nó. Lẵng nhẵng không ai chịu được.
Nói thế rồi, Ngây móc túi lấy cho Toản hai xu. Thằng bé cầm tiền, nhe răng cười, chạy biến ra ngõ. Hẳn nó sang rủ thằng Bò, thằng Ếch, thằng Tâm bên hàng xóm cùng đi xem cho khỏi sợ trẻ làng Thượng cậy gần nhà mà bắt nạt.
Ngây mặc áo the thâm. Nàng không thắt quả găng hai vạt áo nâu non đằng trước như những khi đi chợ mà nàng buông thõng xuống cho hai vạt bao lõa tỏa. Lấy một mảnh giấy đỏ bao hương, Ngây nhấm nước bọt rồi bôi nhẹ lên hai má, đôi vành môi. Cái thói bôi môi bằng giấy hương, Ngây học lỏm được của một chị bán thông phong, bấc đèn trong chợ Đơ. Nàng thấy thế là đẹp mà lại không tốn tiền kem phấn thì nàng vội bắt chước ngay. Nàng bắt chước mà dạy cho Mơ, cho Bướm, cho Lụa cũng biết cách làm đẹp má, đẹp môi như mình. Chẳng bao lâu, cả xóm Giếng, các cô gái đều theo lối làm đỏm của Ngây. Ngây cũng lấy sự đó làm hãnh diện đôi chút.
Mặc áo, bôi môi xong, Ngây cúi xuống gậm phản lấy đôi guốc. Nhưng Ngây nghĩ: “Lịch kịch đôi guốc, đám hội đông người ta chen, dễ mất như chơi. Chân đất mà lại thảnh mãnh hơn”. Ngây cất đôi guốc vào gậm.
Bỗng có tiếng gọi nheo nhéo ngoài cổng. Ngây nhận ra tiếng Bướm. Nàng nói một mình: “Gớm, con bé chăm đi xem tệ”. Ngây chạy ra ngõ:
- Chị đợi em lấy mấy miếng giầu cái đã.
- Nhanh lên bà. Còn phải rủ mấy cô nữa đấy.
Ông Nhiêu Thục đã đi ngủ. Chiều nào uống rượu xong ông cũng đi ngủ khềnh. Ông ngáy khò khò như người kéo gỗ, rầm cả nhà. Ngây xin phép bà Ba:
- Cô đóng ngõ, cho cháu sang làng Thượng xem chèo. Cô cứ tra chốt cẩn thận, lúc nào về cháu gọi.
Đương quay tơ, bà Ba ngẩng đầu:
- Thằng Toản đâu?
- Thằng ranh đã bước đi từ nãy rồi đấy.
Ra đóng cửa, bà Ba bảo cháu:
- Lúc về rủ thằng Toản về một thể. À mày nhớ mang cái gậy đi đánh chó; vào trong ngõ này tối lắm, phải có gậy mới đi được.
Bà lão tưởng như cháu mình còn là trẻ con. Mà nó chẳng trẻ con thì đã người lớn với ai. Bà nhớ như, mới ở một năm rất gần đây, hồi còn mồ ma mẹ nó, thỉnh thoảng ẵm nó, bà vẫn vạch yếm ra để nó tưởng vú mẹ, cứ ngoặp lấy ngoặp để. Bà tặc lưỡi: “Ê tẽn tẽn phải lừa...” Phải, chỉ mới như hôm qua thôi. Bà lại hỏi: “Mang gậy đi chưa?” Ngây cười khúc khích: “Con gái đi xem hội, ai lại cầm gậy bao giờ. Người ta cười”.
Bà lão lẩm bẩm:
- Cha con đẻ mẹ mày, giữ giá giữ nộm vừa vừa chứ.
Bà vừa nói thế vừa cười.
Đứng ngoài ngõ, Bướm nói:
- Bà Ba đi xem với chúng cháu nha?
- Chịu thôi. Các bạc tôi cũng chả đi. Đứng mỏi gẫy cả lưng. Ở nhà ngủ cho béo mắt.
- Ai cũng như bà thì hội chả có ai xem.
Hai cô bé dắt nhau đi và chuyện ríu rít như chim hót. Bà Ba vừa cài then ngõ vừa nghĩ bụng: “Con gái bây giờ chúng lém lỉnh tợn. Chả bù với ngày xưa”. Bà lừ đừ quay vào. Dưới ánh ngọn đèn Hoa Kỳ, bà lại ngồi gật gù quay tơ. Tiếng cái vầy tơ kêu lóc cóc giòn giã.
Ngây, Bướm đi rủ Mơ và Lụa. Bốn cô họp làm một bọn.
Con đường sang làng Thượng dọc theo bờ sông, qua trước cổng xóm dưới, qua tam quan, qua cầu Phượng bắc ngang sông Lịch.
—★—Khỏi cầu Phượng đã nghe tiếng trống văng vẳng phía trước mặt. Lụa bảo:
- Trống giáo đầu đấy.
Bướm cãi:
- Bây giờ còn sớm, làm gì đã giáo đầu. Có họa tiếng trống dạo trò.
Mơ đoán:
- Có nhẽ bây giờ phường còn đang ăn cơm.
- Chị này rõ lẩn thẩn. Bây giờ ăn cơm thì bao giờ mới phấn sáp.
Cả bọn cười rúc rích. Bốn cô cùng đi khoác cánh tay nhau.
Chưa vào tới đám mà đường cái cũng đã khá đông. Người ta từ các xóm ở làng Nha đổ sang, từ bên làng Sài, làng Bái kéo xuống, ồn ào như vỡ chợ. Trong bóng tối, tiếng cười, tiếng nói vang vang.
Ngây nhìn lên trời:
- Chưa có trăng, các chị nhỉ?
- Hai mươi giấc tốt, hăm mốt nửa đêm. Đã làm gì có trăng. Họa lúc chúng mình về thì trăng mới tới ngọn tre.
Bướm hát ti tỉ:
- Này chứ chị em ơi! Sáng giăng suông sáng cả đêm hôm rằm; nửa đêm về sáng, giăng bằng ngọn tre.
- Hát hay thế sao không đem cái chậu đi đựng tiền thướng.
- Nói bậy. Thích thì hát chơi.
- Thích thì hát chơi. Con này hôm nay động cỡn hay làm sao.
Các cô phát vào lưng nhau đồm độp.
- Không có giăng, trời tối gớm nhỉ?
Trời mờ mờ. Hai bên đường, cây cối và nhà cửa đứng lù lù. Trên không, vô vàn những sao. Ngôi sao Hôm mọc chếch về phía trước mặt như một giọt ánh sáng, trong vắt và lấp láy. Trước cửa đình làng Thượng, ánh sáng của nhiều những đèn dầu, đèn đất, những cái đuốc hồng rực lên, từ tam quan trở vào. Tiếng trống, tiếng mõ, tiếng thanh la não bạt, tiếng người xôn xao, ồn ồn, không thể phân biệt được tiếng gì với tiếng gì. Rõ ra đám hội đương lúc cực đông.
Ngây nhớn nhác nhìn ngược, nhìn xuôi. Nàng nghĩ thầm: “Quái, sao không thấy Hời đâu?” Dọc đường, nàng cũng chú ý. Nhưng tuyệt nhiên không bóng. Chả nhẽ cu cậu lại không đi?
- Đông quá.
- Chúng mình xem gì trước bây giờ đây?
- Vào lễ thánh. Đến đây mà không lễ, phải tội chết.
Bốn cô vào tới cửa tam quan. Ánh đèn ở hai bên hàng nước chiếu lên, soi bốn cái bóng thướt tha. Những anh trai ngồi uống nước chè tươi bấm, véo, nháy nhau. Có anh xuýt xoa khen ngầm rằng bốn cô cùng đẹp. Có anh bạo dạn nói bô bô: “Chào bốn chị sang xem chèo ạ! Mời bốn chị xơi nước”, khiến cho các cô đỏ mặt, đi ríu lấy nhau và nghếch mắt nhìn tít mãi vào tận trong đình, không dám trông ngang. Bọn trai cười hê hê. Tuy các cô tỏ ý thẹn nhưng trong bụng cũng thinh thích. Đương chen để lấy lối đi vào cửa đình, bỗng nhao nhao những tiếng “chào các chị”, Ngây ngẩng đầu: Hời, Thoại, Lục, Thìn và mấy anh nữa đều là người làng, đã đứng trước mặt. Họ ở trong đình, vừa ra đến đấy. Tính nghịch, Thoại to tiếng đếm từng cô một:
- Chị Bướm này... chị Mơ này... chị Lụa này... chị Ngây này... Ái chà chà! Con gái chạ Nha cả đấy, anh em ơi!
Lụa không chịu kém:
- Phải gió cái anh nỡm! Anh đọc sổ việc làng đấy hả?
- Liền bà con gái, đâu có được việc làng việc liếc gì!
- Anh vô ý vô tứ quá, đi xem hội thiên hạ mà cứ đọc vanh vách tên người làng ra.
Thoại toan cãi thì trong bọn con trai có anh nói: “Chị Lụa nói phải đấy. Thối cái thằng Thoại”. Mọi người quay lại xem ai, thì ra Lục, cái anh chàng có tiếng là lù đù xưa nay. Cả hai bọn cùng cười ầm. Rồi cánh con gái đi vào, cánh con trai lần ra. Từ đấy, thỉnh thoảng họ vẫn gặp nhau. Tuy không dám đi họp làm một bọn, nhưng Hời vẫn cố ý kéo bạn đi lảng vảng gần gần.
Trước cửa đình, trên một khoảng sân gạch, bầy các thứ đồ mã. Một con voi lớn, đen và to lù lù như con voi thật. Nó có cái vòi cử động được. Lũ trẻ tinh nghịch thỉnh thoảng đến đưa lắc lư cái vòi chơi. Một con ngựa, đầy mình dán các thứ giấy trang kim óng ánh đứng giơ khuỳnh khuỳnh chiếc cẳng chân. Có hai anh lính bồng súng, mặt gõ trắng bóng và trơ khấc.
Suốt năm gian đình, đèn nến sáng trưng. Mũ mã, cờ quạt bầy thành đàn tràng, một đầu cao, một đầu thấp, ngang từ hồi đình nọ sang hồi đình kia. Từ trên xuống đồ cúng Ngọc hoàng Thượng đế và các chư Phật; cấp thứ hai cúng Thần linh: quan ôn, quan tướng mùa hè; cấp thứ ba cúng chúng sinh: những bà cô, ông mãnh, ma đói, ma khát. Vì đêm nay cúng chúng sinh nên ở cấp thứ ba bầy la liệt mọi thứ quà và hoa quả như bánh đa, bỏng trắng, khoai sọ, chuối tây, kẹo bột. Và một nồi ba mươi đầy cháo hoa, khói bốc nghi ngút. Sư ông chùa Vạn, cái đầu trọc trắng hếu, khoác áo cà sa mảnh đỏ, mảnh vàng, ngồi cao ngất nghểu ở giữa cấp thứ hai, chỗ cúng quan ôn, vừa ê a đọc kinh vừa cầm dùi gõ vào một cái mõ lớn, to cũng đúng bằng đầu nhà sư. Dưới chiếu, một lũ sư trẻ con các chú tiểu cũng gõ mõ, đánh trống và ê a đọc theo. Một đàn họa vần với nhau, trông đến hay. Giọng tụng niệm chập chờn qua những ánh đèn nến lung linh sáng. Một toán trẻ con đông nghịt đứng vòng trong, vòng ngoài vây chặt mấy nong quà bánh và nồi cháo. Có vài đứa, mắt nhớn nhác, ôm khư khư một cái liễn mầu da lươn. Chúng đứng rình để lúc sư ông cúng xong là xô tới cướp quà và múc cháo. Coi bộ đứa nào cũng lăm le. Chúng hích vai nhau, đưa dần chân vào. Thỉnh thoảng có một bà già len lỏi qua đám trẻ, đến đứng trước đàn, chắp tay vái lia vái lịa và xuýt xoa khấn ầm ĩ. Nhìn đám trẻ mà cái không khí so sánh, tranh cướp đã hiện lên tận trán bởi có nong quà cúng cháo để trước mặt, Ngây nói đùa với các bạn:
- Hình như có cả thằng Toản nhà mình trong đám kia.
Mỗi cô đến trước đàn vái mấy vái. Lũ con trai làng Thượng đứng ngấp nghé ngoài bậc cửa, cười ồm ồm, làm cho các cô ngượng cuống quít, chỉ dám chắp tay vái lễ gật vội mấy cái rồi chạy rúm lại với nhau. Bướm bảo:
- Đi ra, các chị. Đứng ở đây chết ngạt được vì nóng.
- Ra xem chèo đò.
Khắp nơi từ sân gạch tới bãi cỏ, đầy ứ những người và ngốt những mùi mồ hôi với mùi hôi nách nồng nặc. Nhưng rồi mũi các cô cũng ngửi quen. Hoặc là mê mải xem, các cô quên khuấy đi.
Ở đám chèo đò, một lũ các bà vãi đứng xúm quanh một cái nia, trên để vài trăm vàng và mươi nén hương đen đương cuồn cuộn tuôn khói. Trước mặt các vãi có một chiếc thuyền giấy: cái hình nhân mang bộ râu bạc phếch, vai vắt mảnh khăn mặt, tay cầm bơi chèo là ông sãi. Ông sãi thì chở đò qua suối Vàng, đưa các vong hồn xuống âm ti. Một bà vãi đứng xế một bên, tay cầm gậy, giả làm ông sãi đương chèo đò. Mỗi khi bà này kể kệ đoạn một câu thì cả bọn những bà vãi đứng phía kia, tay lần tràng hạt, miệng niệm nam mô dẻo quèo quẹo. Bà lão đóng vai ông sãi rún rẩy đẩy cái sào trên cạn, vênh mặt lên ra dáng hãnh diện rằng ta đây thuộc nhiều câu kệ hơn các bạn. Bà quai dài mồm lấy giọng:
- A a... Sãi tôi chở khách đêm ngày...
Ba bốn bữa rày, sãi chửa được ăn.
Khoan lới hồ khoan...
Bà rún một cái:
- Khoan lới hồ khoan...
Các bà khác đồng thanh:
- Nam mô a chi là à...
Cứ thế thay đổi câu kệ, các bà run rẩy mãi. Vô khối những đàn bà nạ dòng đứng ngẩn mặt ra xem. Cũng vô khối đồng xu đồng chinh ném vào trong nia, y như thướng xẩm. Bướm bảo Ngây:
- Già không trót đời, rún với rẩy, trông dơ cả mắt!
- Sang đám hát chèo, các chị ạ.
Họ dạo qua vài đám xẩm. Những anh xẩm ngồi ngây, bởi có đám chèo ầm ĩ, ai còn thiết gì đến họ. Có anh vắng khách quá, cuốn chiếu lại rồi cũng đi nghe chèo cùng với mọi người.
Khắp các xó, chỗ nào cũng lập lòe ánh đèn của những đám súc sắc, đám cua cá với mấy anh cò mồi và một lũ con bạc trẻ ranh, cãi nhau chí chóe. Năm nay có thêm một trò mới. Trò đi đáo chai. Người ta để chụm mấy chai bia và nước chanh vào một đám. Cách chừng hơn một sải chân vẽ một cái vạch, như vạch đánh đáo. Họ bán một xu một cái vòng nan. Hễ đứng ở dưới vạch, cứ thả chiếc vòng nan vào lọt cổ chai bia hoặc chai nước chanh thì được lấy chai ấy. Mọi người xúm đen, xúm đỏ vào đám chơi.
Ở một góc sân dựa vào bức tường hoa, bên ngọn đèn Hoa Kỳ tù mù, một ông lão bó gối ngồi nhìn bàn cờ thế rải trước mặt. Lão ngồi đợi khách đến chơi cờ. Chốc chốc lão lại đưa tay lên vuốt râu và gật gù nhìn mọi người đi qua, đi lại trước mặt. Nhưng chỉ có người đi không có người đứng. Và chẳng có ai vào chơi cờ thế ăn tiền với lão. Dường buổi hội đông người ta còn ồn ào đi xem các trò vui khác. Chốc nữa, khuya lắm, họa chăng mới có một anh thợ cửi nào lân la tới đánh. Bây giờ lão chỉ ngáp vặt. Ngáp đến sái cả quai hàm, nhưng không hề buồn ngủ. Lão thức đêm đã quen mắt rồi.
Từ lúc vào qua cửa tam quan, vẫn có một bọn con trai làng Thượng đi theo bốn cô gái thôn Nha. Bọn đó đã nói pha với các cô từ lúc họ ngồi ngoài hàng nước. Các cô vào, họ theo chân luôn. Và lúc đi xa, lúc sát lại gần, họ không rời các cô. Gớm, cậy là trai làng vào đám có khác, họ đùa nghịch, họ trêu chọc, họ táy máy như quỷ sứ. Họ nói pha đủ giọng:
- Các chị lễ Phật dẻo quá.
- Các chị niệm nam mô đi nào!
- Mời các chị đi đáo vòng. Ăn chai bia ngon ơ.
- À có chị nào vào chơi cờ thế?
Các cô ngơ đi, tảng như không ai nghe tiếng. Họ càng trêu già. Ngây lo nhất. Chẳng biết Hời có để ý đến bọn con trai nghịch ngợm ấy không. Xung quanh, người chen đi, kẻ đẩy lại, đông quá khiến nàng không thể ngó được Hời đứng ở chỗ nào.
Có một lúc, ở đám chèo đò ra, Ngây thoáng trông thấy Hời đứng ở bên kia cột trụ. Tay chàng cầm lăm lăm chiếc gậy tre lớn. Đôi mắt chàng quắc rất dữ tợn. Và thoáng trên môi nở một nụ cười thoảng, hơi gằn, Ngây rùng mình. Nàng băn khoăn nghĩ đến những điều rắc rối không đâu.
Chị em đi vòng ra đám chèo. Bọn trai vẫn lẵng nhẵng theo. Sao mà Ngây ghét chúng thế! Những đứa đâu dơ dáng mặt trơ ra như mặt gõ. Chúng ăn mặc lối đá tỉnh đá quê. Quần trắng dài. Áo tấc trắng, bẻ vành hai cái cổ mốt tây như hai cái tai chó. Có thằng, tối mà cũng đeo kính rợp như thầy bói. Có thằng cầm vung vẩy cái đèn bin. Đầu đứa nào cũng bóng nhẫy và sặc mùi bờ-li-ăng-tin. Tinh nghịch, mỗi đứa ghép nhau với một cô. Nó làm như của nhà nó vậy. Một thằng đi sát vào Ngây. Ngây phải lẩn và giữa đám chị em. Nó nhe răng ra cười và nói: “Mợ ghét tôi đấy hả?” Ngây vừa tức lại vừa sợ. Hời đứng ở đâu? Hời mà nghe tiếng thì ra sao bây giờ. Ngây hỏi Bướm?
- Cái thằng đi sau lưng em là con trai làng Thượng?
- Thằng Khói con lão lý So.
- Lý lẽo gì mà đểu thế!
Tất cả đám hội, chỉ có đám chèo là quyến rũ được nhiều người đến xem nhất.
Chèo diễn ở trong một cái cầu ngói, ngay trước cửa đình. Ngày thường cầu này vẫn dùng làm điếm tuần. Trong ngày đám, những giáo, những mác, những côn, những thùng lùng, đinh ba, những cái cờ ba góc bằng nan tre và tất cả một cái giá cắm những dụng cụ và việc tuần phòng của các ông trương phiên, khán thủ đều được người ta bê lên bày trước sân đình, cùng một dẫy với năm lá cờ giấy phấp phới, cho thêm oai. Cầu chỉ có ba gian hẹp. Gian giữa là cả một cái thềm gạch cao có giải chiếu dùng làm sân khấu. Hai bên để chỗ cho mọi người xem. Buồng trò ở ngoài sân, giữa trời.
Lúc mấy cô gái làng Nha tới thì đám chèo đã đông lắm. Đông lắm. Tưởng tượng như người ta xô nhau chui vào một cái vò. Vì có thể nói rằng những người bị ép trong cùng tường kia, đến bị mùi mồ hôi nách, mùi mồ hôi dầu, mùi người làm cho họ bị chết ngạt mất. Hàng trăm con người nêm nhau, nhét nhau vào trong một cái quán. Đã thế, lại còn thêm bao nhiêu người đứng ngoài. Tiếng beng beng, tiếng trống cơm bập bùng rối rít. Tiếng trẻ con khóc, reo và kêu to hơn cả tiếng hát. Bây giờ mà đứa nào ngã xuống đất, đành hẳn bị người ta xéo chết.
Làng Thượng thiếu gì đất rộng để cất một cái rạp chèo mà lại phải cho hát chui rúc vào đây như vậy. Nguyên bởi thế này: năm xưa, làng vẫn dựng rạp bên tường đình. Một đêm, không biết có đứa nào khoảnh hay tại tụt lạt buộc mà đương hát, đương bao nhiêu là người xem vòng trong vòng ngoài, vòng cả dưới gậm, bỗng sàn sạp bị đổ sập xuống như một cái bẫy chuột. Tai nạn ghê gớm xảy ra. Một thằng bé lên mười bị vỡ đầu, chết. Một đứa suýt gẫy cẳng. Hai đứa nữa hộc cả máu mồm, máu mũi. Từ đấy người ta không dám cất rạp giữa trời để hát chèo nữa. Họ hát trong cầu. Trời tháng Tư thì nóng. Mà người thì nhiều vô kể. Mặc! Chả ai cần. Quanh năm đầu tắt mặt tối vào cái khung cửi, cái lồng tơ, mấy khi có được trò vè mà xem.
Bốn cô gái cũng chịu khó len vào xem một mảy. Hơi người xông lên nhức cả mũi. Phường chèo đương diễn tích Tô Thị vọng phu. Nàng Tô Thị tiễn chồng đi thú lên xứ Lạng. Nàng Tô đây là một đào nạ dòng chít khăn mỏ quạ, mặc áo the thâm và thắt lưng xanh. Miệng nàng đã rộng, lại bôi son đỏ, thành thử nó loe loét ra. Đôi hàm răng đen há ra, tối ngòm như nom vào hang. Một tay cầm quạt, một tay uốn éo, nàng rún rún mấy cái mà hát lên những câu não nùng rằng: “Ối a! Ối a! Mà là tình bằng... tình bằng con chim xanh ứ hự... ứ hự con chim xanh...” Nàng hát một hơi, rồi im. Tự nhiên, một anh đương ngồi gõ trống, dọn giọng hỏi réo thực to: “Ới cô mình, cô mình đi đâââu?...” Tô Thị che quạt lên miệng trả lời: “Em nên xứ Nạng!”. Thế là cái gánh hát có được bao nhiêu người, cả ngoài sân khấu, cả trong buồng trò, từ anh quảy hòm trở lên tới ông trùm, đều thưỡn quai hàm ra mà ồn ã láy lại một nửa câu nói của nàng Tô “... em nên xứ Nạạạng...” Rồi lại bung nhoóc... bung nhoóc... tiếng mõ và tiếng beng beng, tiếng trống con với trống cơm bung bập bùng... bung bập bùng...
Người ta xem, thích mê, quên cả nóng. Bên sân khấu, dưới ánh ngọn đèn đất, một ông lão cầm dùi trống thỉnh thoảng lại điểm tom tom đôi ba tiếng chầu. Trong đám trai trẻ, có người xì xào:
- Dơ quá. Hát chèo mà cầm chầu!
- Cái thằng Khán Mè dở hơi, đương say rượu bí tỉ đấy!
- Làng này không ai biết bảo lão à? Thiên hạ đến xem người ta chửi cho.
- Ai bảo! Ai cũng rúc vào đánh bạc! Lý Cò xóc cái, chánh hội Đàm hồ ly, tuần để gác. Chức dịch đương thứ cả đấy. Còn có đứa chó nào ngồi chỗ cầm chầu mà bảo!
- Tệ thật. Dột từ nóc dột xuống, nát cha nó làng ra.
- Ông mà đi báo thì chết bỏ mẹ cả.
- Ấy, mới ai hoài hơi. Rồi lại đâm thù đâm oán. Này con bé nào mà trông kháu thế kia?
- Con Ngây nhà lão Nhiêu Thục bên Nha.
- Thằng Khói cảm tít, theo mải miết từ chập tối đấy.
- Liệu chả kẻo thằng nào bên Nha nó đánh cho ốm cơm không?
- Con trai lạ đi xem hội người lại dám đánh con trai làng người ta.
- Nó đương sợ!
- Kia kìa thằng Khói đi đến sát tận đít con Ngây.
Khói đến tận nơi thật. Đám hát đông. Khói cứ chen bừa vào. Ngây ngoảnh lại, trông thấy Khói, nàng hoảng hốt nắm chặt áo Bướm. Nàng cố đưa mắt tìm Hời, tuy nàng luống cuống không biết tìm Hời để làm gì. Cầu cứu hay sợ hãi?
Trong sân khấu diễn đoạn Tô Thị lên tới xứ Lạng, đến chỗ thấy chồng có vợ lẽ thì đánh ghen. Anh chồng, mõm bôi nhọ trắng, đứng ê mặt, mặc cho vợ túm ngực áo. Thằng Khói véo ngầm Ngây một cái, nói bâng quơ:
- Gớm liền bà ghê quá!
Ngây vội vã lôi Bướm ra khỏi đám đông. Bướm quay lại gọi Lụa và Mơ. Nhưng chèo đương đến chỗ hay, hai cô ả còn dùng dằng. Ngây gắt: “Mặc kệ các chị ấy!”.
Ra đến ngoài mới có gió mát thoang thoảng.
Ngây bảo:
- Ta về đi, chị Bướm ạ!
Hóm hỉnh, Bướm hỏi Ngây:
- Về hả? Nó làm gì chị thế?
Ngây ấp úng:
- Không. Trăng đã lên rồi, em phải về, mai còn dậy dệt cửi sớm.
- Ừ về. Mình xem cũng chán cả mắt. Không rủ Lụa, Mơ về à?
- Mặc họ. Hai đứa mê con trai làng Thượng ra phết. Những thằng mất dạy ghét cái mặt.
Hai chị em bỏ đám hội, tong tả ra về. Càng đi ra, người càng loãng dần và càng có nhiều gió. Gió hây hẩy. Gió quạt mát cho mọi người. Hai cô vừa ra khỏi tam quan nghe có tiếng ai gọi đằng sau. Tưởng ai, hóa ra lại cái thằng Khói khốn nạn vừa cấu Ngây ban nãy. Nó đi với một thằng nữa.
Hai người con gái nhìn sang hai bên đường cái vắng vẻ, chỉ có bóng cây và ánh trăng. Trăng vừa lên, khuyết vẹt một góc, lừng lững ở chân trời. Hai cô sợ, cứ cắm cúi đi. Thấy thế hai gã càng theo miết. Giữa lúc ấy cũng từ đằng sau, tiến lên hai người đàn ông. Họ đi nhanh gần như chạy. Trong nháy mắt, họ đã kịp bọn Ngây. Ngây nhận ra đó là Hời đi cùng với Thoại. Nàng giật mình giục Bướm: “Khuya lắm đấy!” Khói đã đi sát bên Ngây, nói:
- Mợ...
Nó vừa thốt được ra có thế, Hời đã xô đến trước mặt:
- Mày định làm trò gì nào?
Đấy đến đầu cầu Phượng. Là hết địa phận làng Thượng. Khói nhớn nhác xử nhũn:
- Không, tôi có...
- Không? Thế mày đi theo người ta làm gì? Bận sau thì ông dần cho...
Thoại nóng mắt, giơ gậy lên phang luôn. Khói chúi người đi, tránh được. Gã vội cùng thằng bạn cắm cổ chạy miết trở lại, vừa chạy vừa kêu rầm rĩ với nhau. Đường vắng, chẳng ai biết.
Bấy giờ Bướm và Ngây mới hoàn hồn. Nhưng hai cô vẫn bíu vào nhau. Ngây run run hỏi:
- Các anh đấy à? Chúng nó gớm quá.
Thoại đáp:
- Thằng Khói lại còn phải kể!
- Từ giờ thì em kệch đến già, không đi xem hội làng này nữa.
Thoại cười:
- Sợ gì. Có chúng tôi.
Đêm đã khuya. Trăng lên cao, mờ một góc nên có dáng buồn buồn. Đi trên cầu Phượng, thấy mặt trăng nằm rung rinh dưới đáy sông. Bướm ở ngõ ngoài, Ngây ở ngõ trong. Hai cô sắp chia tay nhau. Hời nói:
- Anh Thoại đưa chị Bướm nhé!
Bướm cười, từ chối:
- Em đi một mình cũng được. Có đây vào kia thôi mà. Chị Ngây về nhà. Chào anh.
Tuy Bướm nói ra lời thế, nhưng Thoại cũng cứ tự nhiên cùng Bướm đi vào trong ngõ tối.
Ngây bảo Hời:
- Hai cậu mợ còn vờ vịt mãi.
- Cái Bướm ra phết đấy!
- Lúc nãy sợ quá. Mà sao suốt đám không thấy anh đâu?
- Tôi nấp một chỗ. Thằng Khói làm gì đằng ấy, tôi cũng biết.
Ngây chạnh lòng, đấm vào lưng Hời một cái. Nếu ban ngày, chắc đã nhìn thấy nàng đỏ mặt. Nàng nói khẽ:
- Thằng tồi quá!
- Thế mới định giã cho nó một trận.
- Nó biết mặt anh không?
- Biết.
- Nó thù thì chết.
Hời vung gậy lên:
- Ngữ ấy làm gì nổi ai!
- Em sợ lắm.
Hời cười:
- Sợ đếch gì!
Ngây đập khẽ vào vai Hời, nói: “Giỏi nhỉ”. Anh chàng đưa được câu chuyện đến chỗ đằm thắm. Nhưng đã vừa tới đầu ngõ.
- Chúng mình đứng lại một tý.
- Không biết thằng Toản nhà em về chưa? Khuya quá.
Hời cầm tay Ngây. Do dự từ lâu, bây giờ anh chàng mới dám mó nhè nhẹ thôi.
- Hẹn đi chơi nói chuyện. Thành thử cũng chả nói được chuyện gì.
Ngây cười. Dưới ánh trăng nhạt, hai hàm răng đen lóng lánh. Đôi mắt Ngây cũng lóng lánh. Còn đôi má thì phúng phính. Bàn tay người con gái nóng hôi hổi.
Hời nghĩ bụng: “Nóng đúng như da gà”. Và ngây ngất, chàng thở phào ra đằng mũi một hơi. Thanh vắng quá.