Chương 3
BUỔI SÁNG, có mấy đứa trẻ trong xóm Giếng đi học chữ nho ở nhà thầy đồ Miên về. Chúng đi từ lúc tờ mờ sáng, sớm bằng những người thợ đi dệt cửi. Học nhốn nháo một lúc đứa nào thuộc bài thì thầy đồ cho về trước. Nên chỉ lúc mặt trời tới lưng bụi tre, chúng đã chạy ùa cả ra đường.
Sớm hôm ấy, lũ trẻ về qua cửa đình trông thấy một mảnh giấy dán ở một cột trụ bên phải. Tò mò, chúng rủ nhau đứng lại xem. Trong mảnh giấy có chữ quốc ngữ viết bằng bút chì. Nhưng vì dán hơi cao, nên chúng phải côông kêêng nhau lên mới đánh vần được những chữ ấy. Lúc một đứa đã đọc xong, chúng cười và reo ầm ĩ, rồi chạy tất cả vào trong làng. Đứa nào về nhà đứa ấy và mỗi đứa lại bảo cho nhiều người trong làng biết rằng có cái giấy gì hay lắm, dán ở ngoài cửa đình.
Bấy giờ là sau bữa cơm sáng. Mọi người chưa phải vào khung cửi, đều đứng ở các cửa ngõ, cái tăm ngậm trên miệng. Nghe lũ trẻ nói bi bô, họ kéo ra cửa đình xem, đi lũ lượt như đi xem hội. Những người đàn bà thập thò trong các cổng tán. Ở bờ rào này hỏi qua bờ rào khác. Nhưng chưa ai biết gì cả.
Trên cột trụ có dán một tờ giấy thực.
Một anh trai nhanh nhảu chen vào tận nơi, nói: “Xem giấy má gì nào...” Rồi anh cất giọng y a đọc to và thong thả cho mọi người xung quanh nghe:
Cáo bạch
Làng ta lắm chuyện nực cười
Có ông Nhiêu Thục mặt thời đỏ gay
Được cô con gái, gớm thay
Mười chín tuổi rày, tính đã trăng hoa.
Làng Thượng cho chí làng Nha
...
Tấm thân bán rẻ đồng tiền,
Huýt còi một tiếng thời liền ra ngay.
Con đi mua rượu bố say,
Con hỡi, tiền này con lấy ở đâu.
Ai ơi, đứng lại đầu cầu
...
Đứa nào mà bóc của ông cái giấy này thì chết một đời cha ba đời con đấy.
Người ta cười rầm lên. Ra đấy là một tờ giấy kể vè nói xấu. Rồi họ lại hò anh con trai giỏi giang chữ nghĩa kia đọc lại một lượt thực rành rọt thực ngân nga. Lần này họ cười, vỗ tay đôm đốp. Ai cũng lấy làm khoái chí. Cái gì chứ cái điều được nghe bới xấu nhau thì ai cũng có tính ấy.
Câu chuyện lan trong đám đông.
- Nhiêu Thục xóm Giếng phỏng?
- Cái đĩ Ngây ư?
- Con bé thế mà đốn. Hừm, thời buổi này, ai biết đâu được. Mới nứt mắt ra.
- Con gái không có mẹ là chúa đoảng.
Nhưng có người nghĩ kỹ hơn, nói:
- Thôi, ắt lại chuyện bôi xấu nhau, con gái nhớn mang tiếng thế khó mà lấy được chồng. Đời thâm thực...
Người ta còn lào xào dò đoán và phẩm bình nhiều câu nữa rồi mới giải tán. Nhưng không ai sờ tay vào tờ giấy. Có bận chi đến họ mà họ phải bóc! Thế là cái tin “có giấy nói lão Nhiêu Thục” bay khắp bốn xóm làng Nha. Những người đàn bà ở trong nhà cũng đều biết.
Một lúc sau ông Nhiêu Thục cũng biết. Đầu tiên ông nghe mang máng như có một chuyện gì ở ngoài cửa đình mà con trai họ kéo nhông nhốc ra xem. Rồi họ về trong xóm, vừa đi vừa cười hô hố. Ông Ba Cấn tạt vào nhà ông chơi. Ông Ba Cấn với ông Nhiêu Thục là hai anh em con nhà cậu về đằng ngoại. Ông Ba hốt hoảng ghé tai ông Nhiêu, nói nho nhỏ. Vậy là mặt ông Nhiêu cũng hốt hoảng chẳng khác gì ông Ba. Hai ông chạy đùng đùng ra ngõ. Ngây đương ngồi quay tơ, chẳng hiểu việc gì, ngẩn ngơ nhìn theo. Hai ông nối nhau chạy ra ngoài cửa đình trông lên tờ giấy dán ở cột trụ, rồi lại vội vàng chạy về trong xóm. Hai ông chạy về tìm thằng Tuế, con ông Ba Cấn. Bởi vì nó biết đọc chữ quốc ngữ.
Thằng Tuế lóc cóc theo bố và ông Nhiêu ra cửa đình. Người xem không còn ai nữa. Ông Nhiêu xốc nách nâng Tuế lên cho nó đọc. Nó mới đọc đến câu “có ông Nhiêu Thục...” thì ông buông nó xuống. Trán ông mồ hôi đọng thành từng giọt. Ông bóc tờ giấy ở tường ra, rồi nói: “Mời ông với cháu về nhà tôi”.
Cả ba người tất tưởi về nhà ông Nhiêu. Ông sai thằng Toản ra đóng ngõ lại.
Rồi ông cùng với ông Ba Cấn, thằng Tuế vào tận trong buồng. Tuế cầm tờ giấy mà đọc. Bà Ba và Ngây đứng nghe ngoài cửa. Thằng Tuế đọc xong giấy “cáo bạch” đó thì bà Ba xô vào buồng. Ngây chạy ra đằng sau nhà đứng khóc rưng rức. Ông Nhiêu buông hai tay xuống, đờ đẫn đôi con mắt và thở dài một tiếng não nuột. Bà Ba mím môi, phát một câu chửi rít trong hai hàm răng:
- Đứa nào ăn dáy ngứa miệng! Nó lại muốn bà bới cha đào ông nhà nó lên đấy.
Ông Ba Cấn bàn:
- Ta đem giấy này lên tường phủ. Nên làm cho ra nhẽ.
Ông Nhiêu mơ màng xua tay:
- Thôi ông ạ.
—★—Nhưng chỉ thôi cái việc lên tường phủ, bởi vì vốn nhà lành hiền, chẳng ai thông thạo việc quan tư kiện cáo. Nhưng cái việc của bà Ba thì bà làm ngay. Tuy ông Nhiêu Thục, ông Ba Cấn chẳng tỏ ý hoan nghênh, nhưng cũng không ra vẻ phản đối.
Buổi trưa hôm ấy, văng vẳng có tiếng mõ cốc cốc. Người ta thấy bà Ba đi giữa đường, một tay cầm cái ống tre, một tay cầm cái dùi. Đằng sau, một đứa trẻ đi theo. Áo bà thắt lưng bó que. Hai bên thành váy xắn cao, gọn gàng. Mỗi khi đi đến một ngã ba, bà đứng dừng lại. Bà gõ một hồi mõ, rồi chắp hai tay ra sau lưng, bà cất cao tiếng réo một bài vừa chửi vừa rủa:
- Ới thằng liền ông! Ới con liền bà! Ới đứa già! Ới đứa trẻ! Ới đứa nào đêm hôm qua xỏ xiên gì nhà tao thì nó dỏng mái tai, gài mái tóc, gọi ông bà ông vải cụ kỵ nhà nó lên để nghe bà chửi, để nghe bà ỉa vào đầu lâu hoa cái nhà nó...ó...ó. Nó đi đằng xuôi, chết đằng xuôi; nó đi đằng ngược, chết đằng ngược; đi tầu, đắm tầu, đi ô-tô, chẹt ô-tô. Nhà nó đương đông đàn dài lũ thì chết lăn đùng thổ tả cả ra...
Và còn nhiều nữa, dài nữa. Mỗi một lần gõ mõ để dọn một câu, bà lại có thể đổi ra đủ các thứ bài chửi khác nhau. Mặt bà bình thản, tự nhiên y như khi bà ngồi quay tơ ở trong nhà. Bởi đó cũng là một việc quen thuộc vậy.
Về sự lắm điều, ở làng Nha, bà Ba đã nổi tiếng. Ngày trước, đến năm hai mươi tám bà mới có chồng. Chỉ vì, tuy là con gái, mà bà đã chua ngoa quá lắm. Cả làng, không ông bà nào dám rước cái của “đứt dây trên trời rơi xuống” về cho con cái nhà mình. Ở với bà Nhiêu Thục - hồi ấy còn mồ ma bà Nhiêu - một tháng có ba mươi ngày thì đôi chị dâu em chồng cãi nhau đủ hăm chín ngày rưỡi. Về sau, có một người đàn ông góa ở bên Phú Gia nhờ người sang mai mối, lấy bà. Tất nhiên là cái tiếng lắm điều của bà, người ta không hay biết chi. Cứ đàn ông góa mà dòm được gái tân, đã là may mắn lắm rồi. Cái báo chướng được rước đi... Bà Nhiêu mừng. Chắc hôm cưới bà cũng có ném gạo muối theo. Nhưng cái sở trường cả tiếng của bà Ba, sang bên Phú Gia, chẳng may lại không hợp đất. Chồng bà là một anh có tính hay cục. Mỗi khi bà quang quác mồm, anh ra rút ngay rõi cửa phang liền. Lắm điều nhưng nhát đòn, bà phải câm miệng hến ngay. Lâu dần, sự sợ hãi biến thành thói quen, bà cũng bớt mồm bớt miệng đi được nhiều. Cái tiếng ấy bay về bên làng Nha, người ta nói rằng thế là ông bốn tai gặp bà hai đầu. Bà ở với chồng ngoài mười năm, cũng không đẻ đái gì. Một hôm, chồng bà cãi nhau với một người làng. Đôi bên cùng tức khí, liền nện nhau. Người kia cầm cái giáo quạt đại choảng vu vơ thế nào lại trúng vào tinh mũi ông ta. Ông ngã bổ chửng và nằm nhuôi ra... chết. Việc lên đến quan, người kia bị kêu án năm năm tù. Người ta không có một chút của nả nào mà bồi thường. Thế là bà Ba mất chồng rất tự nhiên. Bà đến ở chung với gia đình nhà em chồng, nhưng không có ai kiềm chế, cái thói xưa lăng loàn của bà lại bùng dậy. Tuy ở nhà người ta mà không mấy ngày bà không cãi nhau với em dâu. Bác với thím chửi nhau ơi ới. Song về bên cánh của họ đông quá: chồng, vợ, bốn đứa con và cả tứ bề hàng xóm nữa. Bà Ba có mỗi một mồm đành chịu thua. Chẳng bao lâu, bà dọn về ở bên Nha. Khi ấy bà Nhiêu ốm bệnh tê, đã qua đời từ mấy năm trước. Bà Ba ở với anh, ăn giúp làm đỡ vào đấy. Đầu đã ngả hai thứ tóc - đã năm mươi dư rồi! - Bà Ba không còn quang quác mồm miệng như xưa. Vả, bây giờ ăn nhờ ở đậu, anh là đàn ông, các cháu thì bé, xung quanh không thể có người đàn bà tương đương nào để bà cãi nhau. Ông Nhiêu Thục lại nghiện rượu. Mỗi khi ông say mà nghe tiếng bà Ba cãi nhau léo xéo thì dù có chân bà là sắt, chắc ông cũng phang cho đến gẫy.
Đã lâu lắm bây giờ mới được nghe bà Ba chửi rủa con cà con kê, có ngành có ngọn. Bởi vì bà tức quá. Đứa nào vô phúc đã dán cái giấy kia. Nó quên tài chửi của bà rồi hay sao? Bà có thể trồng cây chuối ngược lên mà chửi suốt tháng. Bà có thể chửi cho đứa nào đứa ấy và cơm vào miệng rồi mà phải miệng nôn trôn tháo cả ra. Bà đi chửi từ đầu làng đến cuối làng, từ xóm Giếng sang xóm Đình, ra xóm Mới, vào xóm Lẻ, khắp các ngã ba ngã tư. Lũ trẻ đi theo rều rễu, họp thành một cái đuôi dài đáo để. Có đứa bỏ cả đánh suốt để đi theo, xem bà Ba chửi. Bố nó phải chạy ra đánh đuổi nó về, thành thử khắp làng cứ nhộn lên thôi.
Đến tận chiều sẩm, khan cả tiếng, bà mới chịu vác ống tre và cái dùi trở về nhà. Bà đe rằng ngày mai bà còn chửi nữa. Bà còn chửi mãi tới khi động đến mồ mả nhà đứa nào ấy, làm cho nó ăn uống, ngồi đứng không yên, phải đến tận cửa nhà bà mà lạy, bà mới chịu thôi.
Kể bà chửi cũng hay thực. Hôm nay, chắc có nhiều bà và nhiều cô con gái cố lắng nghe học lỏm lấy những câu hóc hiểm để nhỡ ra có bận nào chửi nhau với ai chăng.
—★—Bà Ba về nhà, trời vừa chạng vạng tối. Ông Nhiêu đã bảo thợ nghỉ dệt. Ông ngồi uống rượu ở bên cái chõng tre, kê ngoài đầu hiên. Một cút rượu trắng để bên một đĩa đậu nướng với một chút muối. Ông nhắm có vậy. Mà thế còn có hơi đồ nhắm, nhiều khi, ông chỉ uống rượu suông với rau muống.
Ông Nhiêu vào hạng cừ rượu trong làng. Trước ông cũng được tiếng là uống rượu đứng đắn, không nát lắm như nhiều người khác. Lúc thường, chọc mồm ông cũng chẳng nói một câu, lúc rượu vào ông cũng chỉ ba hoa ít nhiều, rồi ông đi ngủ khì. Nhưng bây giờ ông không còn giữ hẳn được nết ít nói như xưa nữa. Bởi ông uống rượu đã thành lệ mà hóa ra nghiện. Cũng chỉ vì ông buồn về chuyện gia đình. Thằng trưởng Khiếu là con trai lớn của ông. Nó đã có vợ con rồi. Trước nó vẫn làm ăn với ông, về sau, không biết nó đã nghe ai xui xiểm cứ một mực nằng nặc đòi cho vợ chồng nó ra ở riêng. Bấy giờ bà Nhiêu cũng đã về với ông vải rồi. Ông thì nghĩ rằng nhà neo người, có mỗi mình nó là nhớn, mấy bố con hãy dùm dúm lại với nhau, đợi bao giờ chúng nó nhớn nhao cả, ông sẽ liệu lo cho đứa nào có phần nấy. Nhưng phải thằng trưởng Khiếu là đứa mất dạy. Nó cứ nói với mọi người rằng ông tham, cái gì cũng chỉ muốn vơ vào mình, không muốn cho con cái khá. Nó lại mượn giọng rượu để nói láo. Tức mình ông Nhiêu đánh nó. Ông già rồi, đánh vào lưng nó như giũ bụi, không thấm thía. Nó lại càng nói bậy hơn. Nó giả say, say trong lúc tỉnh, để nói hỗn với bố. Rồi một hôm, hai bố con cãi nhau. Trưởng Khiếu đang cơn cáu, thấy bố chửi và sỉ mắng thì tức lắm, cũng chửi và sỉ lại bố đủ điều. Ông Nhiêu hầm hầm vác cái đòn ống đuổi đánh nó. Khiếu lại tức mình, giằng lấy đòn ống, phết ông Nhiêu một trận ngã bổ chửng. Phải có hàng xóm đổ sang lôi nó ra, nó mới chịu thôi. Hôm sau, nó lẻn về ăn cắp của ông ba cái mâm đồng, một cái nồi đồng, một cái chậu thau, mười con tơ mái đem bán, rồi nó ra làm nhà ở một miếng đất công phía đầu xóm, không ở với bố nữa. Bố con gặp nhau cũng chẳng chào hỏi. Ngày rằm tháng ấy, ông Nhiêu mang một cơi trầu, một chai rượu ra đình, tường với hội đồng làng rằng ông từ thằng trưởng Khiếu, chẳng bố con gì với nó từ giờ. Nghe tin ấy, trưởng Khiếu cười mà nói với mọi người: “Ông ấy từ tôi để khỏi phải chia của cho tôi đấy. Nhưng hương hỏa mả dài nhà ông ấy thì có đếch gì. Đời cái thằng tôi, tôi có cần đâu!” Ông Nhiêu căm lắm, và càng chán mà uống rượu tợn. Bắt nghiện từ đấy.
Ngữ của ông là mỗi buổi chiều uống một cút năm xu. Nhưng hôm nay, ông uống hơn năm xu. Ngây đã lên đèn dệt cửi mà ông vẫn còn ngồi uống tì tì. Bà Ba đoán chắc có sự khác thường. Ngây im lặng, rầu rĩ đưa thoi. Từ sáng, nàng ủ dột âu sầu khóc thầm mấy bận. Thằng Tuế đã đọc lại cho nàng nghe cái tờ giấy gớm ghê nọ.
Chao ôi! Bao nhiêu người đã xem cái vè cái giấy này. Mọi người đều biết cả. Cả anh Hời cũng biết nữa. Nàng chẳng dám đi ra ngõ; cả đến ở trong nhà, nàng cũng cúi mặt xuống đất, không muốn ngửng lên nhìn ai. Đứa khốn nạn nào đã vu cho nàng. Chẳng biết có ai cho là nàng oan uổng không. Ở cái đời bới bèo ra bọ này, người ta chỉ đợi cho nhau có điều không phải để mà cười thôi.
Ông Nhiêu vẫn uống rượu. Ông uống cạn già nửa chai hai cút rồi. Ánh đèn ở trong khung cửi chiếu ra, hắt bóng ông và bóng chai rượu gật gù trên vách. Bỗng ông đứng dậy, chệnh choạng đi vào trong nhà.
- Ra tao bảo, Ngây!
Nghe bố gọi, Ngây cắm mũi văng xuống mặt lĩnh, rồi đi ra ngoài hiên. Bà Ba ngồi dưới nhà quay tơ. Trong nhà, về ban đêm, mỗi người có một việc, không mấy khi ai ngồi nói chuyện gì với ai. Thằng Toản chỉ có cái việc chập tối thì ra ngõ đóng cửa, vào trèo lên giường, xát hai chân vào nhau cho sạch đất rồi nằm lăn ra ngủ. Chỉ về mùa rét, hôm nào chị Ngây có nhắc, nó mới nhớ đến rửa chân. Bây giờ nó đã đương đánh một giấc ngon.
Ông thu thu sau lưng cái gậy. Ngây nhớn nhác nhìn bố. Ông Nhiêu thở ra phè phè, nói bằng một giọng rền rĩ khác hẳn cái tiếng hàng ngày ông vẫn nói:
- Con ơi! Con làm hại bố! Ới con ơi! Con làm hại bố!
Ừ, con ông nó hại ông thực. Nó là con gái. Nó làm cái trò gì mà để đến nỗi người ta đàm tiếu, người ta dán giấy ở cửa đình mà chửi cho như thế. Ối trời ơi! Bảo rằng có đứa nào thù cho nên nó mới xỏ nhà mình. Thì không chọc, không trêu tức, làm sao nó lại thù! Cho là con ông có chính chuyên lắm, đứng đắn lắm, nhưng mà để cho chúng nó nói đến cả nhà ông là cái thằng đẻ ra nó ấy cũng là đứa hư rồi.
- Con mẹ mày chết rồi, không ai dạy mày cho nên mày mới làm cho nó chửi ông. Ối con ôi là con ôi! Ông nghĩ ông căm lắm. Tao phải cho mày một trận, nghe chưa. Nằm xuống đây... Nằm xuống đây...
Ngây vẫn đứng yên. Ông Nhiêu giơ gậy lên, vụt một gậy ngang lưng. Ngây kêu rú, chạy vào khung cửi. Ở dưới nhà, bà Ba nghe tiếng, nhào lên thì thấy hai bố con đang đuổi nhau quanh cái phản giữa. Bà xô vào.
- À con mụ này lại muốn lôi thôi cái gì?
Ông phang hụt một gậy...
- Con bà cô! Ông quật chết tươi đong đỏng bây giờ!
- Làm cái gì thế! Hàng xóm người ta nghe tiếng.
- Mặc cha bố con ông!
Rồi ông Nhiêu lại hầm hè đuổi con gái. Ngây chạy thoát ra sân. Ông lập cập theo, vấp phải bậc cửa, ngã rụi xuống. Rượu đã ngấm đến cực độ, khiến ông không thể cất nổi đầu nữa. Ông chúi xuống, bò đi kềnh càng như một con cua. Ông khua hai tay, rồi khuỵu hẳn xuống. Thế là ông kêu lên rền rền: “Gậy của tôi đâu?... Đánh bỏ mẹ nó đi!... Tôi có say đâu!...”
Tự nhiên, ông cong cổ lên, hoác miệng ra mà nôn thốc một hồi. Cơm rượu phòi từng đống.
Như cũng đã từng quen những cuộc say sưa như thế, bà Ba để yên ông Nhiêu mửa một lúc thực lâu rồi ông gục hẳn xuống, như một con gà đã cắt tiết, bị ngoẹo oặt cái cổ, bấy giờ bà mới vào lấy một chiếc chiếu, bà rải chiếu xuống cạnh chỗ ông Nhiêu nằm. Bà lấy tro dưới bếp đổ lên những đống cơm mửa. Rồi bà lăn ông Nhiêu vào giữa chiếu, kéo một nửa lên đắp. Ông nằm dang chân, dang tay. Mồm lảm nhảm nói những câu đầu Ngô mình Sở, chắp chắp nối nối chẳng ra nghĩa lý gì cả.
Bà Ba vào tắt đèn khung cửi. Ngây nằm gục trên phản. Chẳng nói gì, bà Ba lò dò xuống nhà ngang, ngủ. Một lúc sau thì những câu nói bơ vơ của ông Nhiêu đổi ra một điệu ngáy bổng trầm.
Đến sáng ông vẫn nằm tùm hum trong chiếu, hai cẳng chân đen và khô khẳng thò ra ngoài nom rờn rợn và lạnh lẽo như chân người chết.
—★—Ngây không được đi chợ bán lĩnh một mình như trước nữa. Đêm ấy, ông Nhiêu có say đánh Ngây thực, nhưng không phải là ông say đến lú lấp trí khôn. Ông cũng biết có đứa xấu bụng đã đặt điều ra vu oan cho nhà ông, cho con gái ông, nhưng ông cũng phải giữ cho nó hết nhẽ. Bởi vậy, những ngày phiên tơ ông cùng đi chợ bán lĩnh với con gái.
Ngây thì như dại đắng dại cay cả người. Cứ một cái việc bà Ba đi khắp làng xóm mà rêu rao chửi bới người ta cũng đủ ê chề cho nàng rồi.
Đêm trước Ngây đương cắm cúi dệt, thấy một đóa hoa ngọc lan ném qua cửa sổ rơi xuống khung cửi. Nhưng nàng không ngừng thoi dệt, mà cũng không dám tắt đèn để đi ra vườn.
Nàng cắm cúi đưa thoi liền liền, trong lòng nao nao, nước mắt rỏ cả xuống mặt cửi. Cho đến khi văng vẳng ở ngoài tiếng chó sủa gần gần rồi lan ra xa xa. Biết là Hời đã về rồi, Ngây mới im thoi. Nàng vào giường nằm, không thể nhắm mắt ngủ được. Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần... Nàng phải nói cho Hời biết những sự lo lắng, những nỗi khó khăn nguy hiểm, nếu hai người còn gặp nhau. Nàng nhớ đến Bướm.
Chiều hôm sau, Ngây sai thằng Toản đi vào nhà ông Hội ở đầu xóm gọi chị Bướm ra chơi. Từ bữa xảy ra sự lôi thôi. Ngây ít đi ra đến ngõ.
Bướm tới. Hai cô ngồi ngoài đầu hè rủ rỉ. Loanh quanh những chuyện làm ăn, chuyện chợ búa, Bướm muốn hỏi thăm để an ủi bạn một câu mà chưa biết nói thế nào cho tiện. Còn Ngây thì cũng chưa biết mở đầu câu chuyện mình định ngả ra sao. Tiếng là hai người chơi với nhau cũng thân, nhưng chưa bao giờ nói chung một tâm sự tỉ mỉ gì. Sau Ngây nói nhỏ:
- Em muốn nói với chị một chuyện này...
Và Ngây nắm tay Bướm, nói tiếp:
- Chắc chị đã biết câu chuyện có đứa khốn nạn nào nói xấu em?
- Vâng. Từ nãy em vẫn định hỏi chị.
Hai cô cùng nhũn, đều xưng mình là em.
- Lòng em như cái bánh, giá có thể bóc được em cũng bóc cho chị xem. Chắc chị chẳng nỡ nghi ngờ em.
- Ấy chết! Chị đừng lẩn thẩn thế! Em nào dám nghi chị. Chẳng qua là đứa xấu bụng, đặt điều cho người. Thế chị có biết được đứa nào đấy không?
- Em không biết được đứa nào. Vì em chẳng có thù hằn gì với ai bao giờ.
- Tức thật. Em cũng nghĩ mãi.
Ngây nhìn vào mặt Bướm, cúi mặt nói khe khẽ:
- Em muốn nhờ chị... một việc...
Bướm nhoẻn cười, hai mắt lóng lánh:
- Vâng, chị cứ nói.
Mặt trời đã lặn. Ngoài thành tre, có tiếng những con liếu điếu cãi nhau lao xao.
Ngây nhìn ra, nói mơ màng:
- Em nhờ chị bảo cho Hời biết rằng từ giờ em không thể gặp anh ấy được nữa. Bây giờ mà gặp nhau, đứa nào biết thì thật chết.
Bướm mủm mỉm:
- Nhưng em làm thế nào mà nói được?
- Lại còn làm thế nào? Chị đừng giấu em...
Bướm cười tít hai mắt:
- Em giấu chị cái gì mới được chứ?
- Anh Thoại với chị...
- Chị này tinh như mẹ ranh!
- Chính em là mẹ ranh đây. Mẹ ranh nên các người vụng trộm cái gì với nhau mẹ ranh này cũng biết cả.
- Còn cậu mợ thì dễ không đấy. Có muốn người ta kể xấu cho nghe không? Lạy em đi, chóng em giúp chị.
- Vâng, em lạy chị cả hai tay. Chị nói với anh Thoại bảo Hời hộ rằng đừng gặp em nữa. Những lời em đã nói với anh ấy, thì anh cứ để ý mà lo liệu việc sau này. Lúc nào em cũng đinh ninh một lòng...
Bướm đứng dậy:
- Chị đừng ngại, em sẽ bảo cho. Tới phiên tơ mồng một này, em bảo Thoại nói với anh Hời. Kìa, Toản nó đã dọn cơm. Chị vào ăn đi, rồi còn dệt đầu hôm chứ.