PHẦN THỨ BA Chương 1
BA... BA... BA... BA...
Thằng Kê ngồi xổm trước mặt bà Vạng, hai chân doạng ra, một tay đưa lên đập đập vào miệng làm ba ba. Một chốc, nó chúm môi lại, nói lơ lớ:
- Bố... bà... bố... bà...
Bà lão cười rúm cả mặt:
- Ấy đấy! Lại chửi bố bà rồi. Con nhà ngoan nhỉ!
Tay bà Vạng cầm một bát cơm trộn ngô xay. Màu vàng lổ đổ, có hai con mắm tép cong queo. Bà đương nhá cơm cho cháu. Dùng hai ngón tay, bà lùa cơm vào trong miệng nhai cho thật nhừ nhiễn. Rồi bà cắn một chút mắm, lè cả cơm và mắm ra đầu lưỡi cho thằng cháu trông thấy. Kê biết hiệu ngay. Nó liền bò đến, mặt nghếch, vịn tay vào đầu gối bà, run run đứng dậy. Bà lão đưa bàn tay lên xì mũi cháu, để liệu chừng mà biết cái mồm nó ở chỗ nào. Thằng bé há mồm. Bà Vạng cúi xuống lè cơm tấm với nhớt dãi vào đầy mồm cháu. Nó nhai phúm phím, vừa nhai lại vừa làm ba ba. Con chó mực đứng chầu bên cạnh, mắt đăm đăm nhìn theo từng miếng cơm, từ miệng bà lão lè sang miệng thằng bé.
Kê lẩy bẩy đứng. Hai cẳng bé tí của nó, đỡ lấy cái bụng ỏng thưỡn, bước những bước chập chững. Nó chỉ bước liền được độ ba bước, lại phải ngồi xuống. Nhưng nếu cứ vịn tay mà đi xoay xung quanh bà thì nó có thể đi được mãi. Kể tuổi, thằng Kê đã lên ba. Song tính tháng thì, đẻ nó tháng một năm kia mà bây giờ là tháng Tư, nó mới được mười tám tháng.
Suốt ngày, bố mẹ nó đi làm. Sáng ra, chị Ngây cho con bú một chập thật no; đến trưa chị lại về cho bú lần nữa. Nhưng thường tới chiều, nó hơi đói.
Bởi vậy, bà Vạng vẫn phải nhá thêm cơm cho cháu, để đợi mẹ nó về cho bú buổi tối. Hai bà cháu trông nhà. Từ khi thằng Kê biết bò thì nó cũng quấy ít, ít hờn hơn trước. Mẹ nó giao cho bà nó ẵm cả ngày. Ngây đi làm hồ, quay tơ.
Cái gia đình ấy qua một thời kỳ làm lĩnh lỗ vốn lại trở về những ngày âm thầm, quạnh quẽ như xưa, như hồi anh Hời chưa lấy vợ, một mình đi làm để nuôi mẹ. Nhưng bây giờ cái không khí, cái bề trong của những ngày âm thầm quạnh quẽ ấy không còn được thực có sự êm đềm thuở trước, dù là Hời rất quý mẹ, Ngây quý mẹ chồng. Những câu chuyện rắc rối eo xèo mẹ chồng nàng dâu vẫn thường liền trong những nhà khác, ở đây không xẩy ra. Ở đây, người ta chỉ đau khổ vì tiền. Cái đau khổ ấy, xưa kia, chưa lần nào bị chịu đựng một cách nặng nề như bây giờ. Bởi vì xưa kia, nhà thì nghèo thực, lo ăn từng bữa đấy, song đơn người mà chưa nợ nần ai. Bây giờ có thêm một đứa trẻ, có thêm một người đàn bà. Tuy rằng cũng có đi làm việc thêm.
Gia đình ấy còn vướng phải một cái dấp lớn là ngoài món tiền nợ cũ của mụ lý Chi từ ngày Hời cưới vợ, anh lại vay thêm của mụ một chục bạc nữa. Phải viết giấy bán nhà rồi. Đó là cái hồi Ngây ở cữ, mụ đến gạ gẫm cho vay thêm tiền mà tiêu.
Chục bạc ấy tiêu vào cái Tết Nguyên đán, vào ăn tiêu khi vợ anh chưa đi làm gì được. Và lại phải gánh ba đồng bạc đóng sưu cho anh sếp Từ ở Nam Kỳ. Bởi không biết tại làm sao, từ sau ngày cưới Hời, Hời chỉ nhận được của anh có mỗi một lá thư gửi về vào dịp Tết để chúc mừng năm mới. Rồi bặt hẳn tin tức. Thực Hời cũng không dám mong mỏi, mà bà Vạng cũng không dám trông ngóng thư từ của anh sếp Từ. Mẹ con bà lão cho rằng chỉ khi nào có việc mới nên viết thư. Vì mỗi khi gửi cho Từ một cái thư, không phải là việc làm trong một lúc mà xong. Anh Hời phải đợi ngày phiên chợ, lên mua một tờ giấy. Giá trước kia có Thoại ở nhà thì nhờ ngay Thoại viết nhí nhoáy một lúc là xong. Nhưng Thoại đi rồi, Hời phải mặc áo dài tề chỉnh, đi guốc, cầm tờ giấy ra tận ngoài xóm Đình nhờ ông đồ Miêu viết giúp. Anh cầm cái thư đi ba bốn cây số lên trên phố phủ mua một cái phong bì, một cái tem lại thuê ông cai trạm đề hộ và luôn thể, nhờ ông ấy gởi Nhà nước đem đi cho anh sếp Từ. Công việc diệu vợi ấy kéo dài tới hai ba ngày. Cho nên, ít khi Hời gửi thư cho anh.
Nhưng đến ngày tháng Tư, Hời sốt ruột lên, vì không thấy anh Từ gửi tiền đóng sưu ra. Cho tới hôm đổ thuế, Hời phải ứng ra ba đồng bạc đóng cho anh. Sau vụ thuế rồi cũng không có thư về. Hời chẳng biết thế nào và chỗ nào mà gửi thẻ thân anh đến.
Món tiền một chục bạc, vì những việc linh tinh ấy, hết cả. Cuối năm ngoái, Hời không trả được đủ lãi, phải viết gộp lại là nợ lý Chi một món tiền ba mươi đồng. Ba mươi đồng bạc nợ! Ba mươi đồng bạc phải viết giấy cầm đoạn mại cái đất của Hời ở, cầm đoạn mại thì cũng như bán nhà. Giấy má làm theo kiểu văn tự bán đất có chữ ký, có triện của lý trưởng và chưởng bạ. Và anh Hời phải thò ngón tay cái điểm chỉ vào tờ giấy. Lúc bấy giờ, thực trạng cổ anh nghẹn ngào và anh rưng rưng hai hàng nước mắt. Đã nợ to đến thế, cái nhà đành coi như đã mất không đến nơi. Bà Vạng thở ngắn thở dài. Nhưng đối mặt con trai và con dâu, bà không để lộ ý buồn. Và nếu chẳng có thằng cháu Kê là một mối an ủi hàng ngày thì tất bà lại trở lại cái thói khóc thầm ngày xưa mất!
Thằng cháu Kê làm cho bà tạm khuây khỏa mọi nỗi buồn. Nhiều khi ẵm cháu trong lòng, bà lần lần tay sờ mặt, sờ mũi, sờ tai nó mà nghĩ ngợi liên miên. Cái tai thằng bé to mà vảnh ra. Ngày sau nó sẽ làm nên. Cái mũi nó dọc dừa xuống. Chắc rồi nó khôn ngoan lắm. Ấy là nói nếu trời thương, để cho làm người. Và bà chỉ phàn nàn với người ta có một điều rằng: “Giá trời cho tôi hai con mắt lành lặn, để tôi được nhìn cháu tôi một mảy.” Mắt bà không lành lặn, bà chỉ sờ thấy cháu bà thôi.
Bà lão bỏ bát cơm xuống, vỗ hai tay, làm hiệu cho thằng bé chạy lại. Bà quờ tay ra, thì mó thấy nó đã ngồi chồm chỗm ở bên cạnh. Miệng nó còn đầy ứ những cơm nhão. Nó không nuốt, mà đẩy phè cả sang hai bên mép. Bà lão lẩm bẩm: “Ngậm bung búng thế này. No rồi đây!”. Bà nuốt ực miếng cơm bà đương nhai trong miệng. Song bà cúi xuống, chúm treo mồm lại, hút đánh chụt một cái thật mạnh vào mũi thằng bé. Bao nhiêu nhớt dãi nhoe nhoét ở mũi thằng Kê tuột vào cả mồm bà Vạng, bà nhổ toẹt xuống đất. Con Mực chạy đến liếm ngồm ngồm. Thằng bé bị bà mút rát cả mũi, khóc tru lên. Nhưng chỉ tru lên một tiếng như tiếng còi, rồi nín ngay.
Bà Vạng thôi không cho cháu ăn nữa. Chân bà đụng phải cái bát dưới đất. Bà nhặt lên, định để cất bát cơm thừa đi. Nhưng ngón tay sờ vào lòng bát thì thấy nhẵn cơm, không còn một hột. Ra lúc bà để bát xuống, anh chó Mực đã rình đâu quanh đấy, len lén đến ăn ráo. Bà chửi con chó và rờ rẫm cất chiếc bát vào trong niêu. Rồi bà dắt cháu đi ra ngoài ngõ.
Thằng bé cởi truồng, hai cẳng chân kheo khư bước xiêu dưới cái bụng kềnh, phủ trong tấm áo nâu có dấu son nhà chùa đằng lưng áo. Trước ngực, mũi dãi đen kịt nhầy nhụa đóng cứng lại như keo không biết đã từ bao giờ, đầy kịt nhờn mỡ lần vải. Một tay bà dắt, một tay nó gãi lên cái đầu có tóc trổ lưa thưa. Một bãi cứt trâu đen sạm phủ kín cả thóp.
Bà lão dắt cháu đi chậm, nhưng đúng đường nền nhà. Bà cúi mặt, lắng hai tai. Tuy mắt bà chẳng trông thấy gì, nhưng đã nghe mà biết được buổi chiều đương xuống. Buổi chiều mùa xuân. Con chim bạc má rít trên khóm dừa, nghe được những tiếng lanh lảnh ong óng rời rạc, mà không trông thấy. Nắng vàng đọng vào những tàu lá dừa rách rưới đổ xuống lối đi. Bà lão thấy chân ấm thì biết hãy còn nhiều nắng. Bà ngồi xuống bậc ngõ, ôm cháu vào lòng. Lát nữa, hết hẳn nắng, mẹ nó mới về. Còn bố nó thì mãi đến lúc sao Hôm đã mọc, anh mới ra khung cửi.
Thường thường, chiều nào bà Vạng cũng cho cháu ăn cơm rồi mang cháu ra cửa ngồi chơi như vậy. Đã lâu, tơ không có ai mượn quay, bà lão đành là thong thả bất đắc dĩ.
Một hôm bà Vạng ra sau nhà bị vấp vào một tảng gạch, ngã lạng đi rồi chúi lụy xuống. Một lúc sau, bà mới lóp ngóp trở dậy được. Bà đứng lên, khom khom. Trong xương sống, bỗng nhiên nẩy ra một tiếng khục. Bà đau chói. Bà nhăn mặt, ngồi thở dài. Rồi bà lại đứng lên. Nhưng bà vẫn phải đành ngồi xuống như cũ. Dường như cái xương sống khòng của bà nó đã gẫy ngang ra trong người, không dựng thẳng lên được nữa. Bà phải lựa, phải lựa, liệu khớp như bà liệu khớp lại vết xương gẫy, mãi mới chống được hai tay vào đầu gối. Và cứ còng còng vậy, bà run rẩy dắt cháu vào trong nhà. Kề tới giường, bà nằm vật xuống thở dốc.
Đến chiều, Ngây về, thấy bà rên hừ hừ. Sáng hôm sau, bà Vạng không dậy được, một cơn đau vừa sốt, vừa nhức đầu, vừa đau lưng đến hành hạ bà.
Bấy giờ là lúc giao mùa. Thời tiết đương độ đổi thay. Những ngày xuân có nắng ấm vừa tàn. Gió hiu mềm mềm của năm mới đã lui đi. Nồm về quạt mạnh, một thứ gió mới từ phương nam trở lại, đem tin mùa hạ đến. Gió thổi lộng lên. Trời cao hơn thường ngày. Nhiều mây xanh và cũng nhiều mây trắng, chuyển vùn vụt. Do đấy có nắng dài. Nắng cả buổi sớm, nắng cả buổi chiều. Khí nóng hơi gay, đi ngoài quãng không một lúc thì váng đầu. Nắng ấy dọn đường cho những ngày oi ả dữ dội sắp đến. Gió mới và nắng mới về thay đổi mùa xuân. Trong mình những người già, trẻ con cũng thay đổi như lúc mùa hạ đương vào mùa thu. Ấy là khi người ta uể oải, hay nhức đầu, sổ mũi, sốt nắng, đau lưng. Bà Vạng cũng mắc trúng phải cơn bệnh quen thuộc của những ngày giao mùa đó.
Nhưng phần vì thuở trẻ phải làm lụng khó nhọc, sức đã nhược, bà lại âu sầu nghĩ ngợi nhiều quá, mà tinh thần cũng bại liệt, nên bệnh bà trở nặng. Không dậy được mà ra khỏi giường. Hai cái đầu gối nhức buốt. Dây xương sống đau nhoi nhói. Bà Vạng nghĩ có lẽ mình bị bệnh đau xương, cái bệnh thông thường mỗi khi đổi tiết, của người già.
Hời ra ngoài bờ sông Lịch, tìm hái cho mẹ một nắm lá hôi, một ít dây đau xương. Đem về, Hời bỏ vào cối, giã nhỏ. Anh đổ vào một bát nước giếng, rồi gạn ra cho mẹ uống. Bà lão bưng bát nước lá xanh lè, nhắm mắt uống ực một hơi cạn sạch. Mấy hôm liền, mỗi hôm bà uống một bát đầy. Mà bệnh vẫn không thấy cạn. Bệnh li bì và liên miên. Không ai biết bệnh gì. Người ta bảo là bệnh già. Cả ông Nhượng, một tay xưa nay vẫn có lắm món thuốc lăng nhăng đặc biệt, cũng phải bảo là bệnh già, chỉ có thể chữa bằng lá hôi và dây đau xương. Nhưng đã chữa cả hai thứ mà bà Vạng không khỏi. Ban ngày bà nằm yên, đêm đến, bà rên rẩm suốt sáng. Ngây đã phải nghỉ làm để ở nhà trông mẹ chồng và ẵm con.
Bắt đầu bà Vạng không ăn cơm. Bà đã ốm được ba bốn ngày. Mọi lần, dù không muốn ăn, bà cũng cố. Nhưng bây giờ chối quá, nuốt cơm vào tắc cổ họng và nhạt nhẽo như nuốt đất. Mỗi sáng bà húp mấy thìa cháo hoa của Hời dậy nấu sớm, trước khi anh đi dệt cửi.
Ông Nhượng đi lên phố phủ. Ông Nhượng kể bệnh của bà Vạng cho ông lang Bơ, lại mời ông về thăm.
Ông lang Bơ đương là một thầy lang có tiếng nhất vùng. Thành tên lang Bơ là bởi vì ngày xưa mới thành ông lang, ông chỉ có mấy cái ống bơ bằng sắt tây đựng các thứ thuốc vớ vẩn, thuốc ghẻ, thuốc đau bụng, thuốc đi rửa. Ông đến phố phủ, với mười đồng bạc vốn. Ông đóng một gánh thuốc, quảy đi rong các chợ. Công việc làm ăn cứ tấn tới lên. Cho đến bây giờ thì ông đã làm được một cái nhà gạch giữa phố và có một cửa hàng đẹp đẽ bày những cái tủ to, có nhiều ô vuông, mấy chậu cảnh vạn niên thanh và cái thuyền tán thuốc bằng sắt, kên loong coong. Khi ông Nhượng vừa ngỏ ý muốn mời ông đi thì ông lắc đầu lia lịa mà rằng: “Chịu thôi! Từ đây về Nha thì bố tôi sống lại cũng chẳng đi được”.
- Thưa cụ, có xe kéo gác-đê.
Lang Bơ vẫn lắc đầu:
- Đến xe cao su gác-đê tôi cũng chẳng đi mà. Tôi đã bảo tôi không cần đi đâu khám bệnh, ông nghe chưa. Thuốc tôi là thuốc thánh. Ông cứ kể bệnh đúng như thế, là tôi rõ căn bệnh, đến như ông lang nhất Hà Nội cũng phải đến tận nơi bắt mạch, ông nghe chưa. Tôi chỉ nghe kể là tôi biết, bệnh gì rồi, ông nghe chưa. Tôi chỉ bốc một chén, bệnh tan ngay, ông nghe chưa.
- Nhịa.
Ông Nhượng đem chén thuốc ba hào rưỡi về cho bà Vạng uống. Đến lúc bã thuốc đem đổ lên mái bếp để phơi, đã khô đét mà bệnh bà lão vẫn chẳng chuyển.
Hời lo lắng. Bởi vì, một hôm ông Nhượng nói với anh “Năm nay là năm hạn của mẹ anh đấy. Anh phải nhờ đánh ngay một cái thư vào Sài Gòòng cho anh sếp Từ, bảo anh ấy về ngay, bà ở nhà ốm nặng, chưa biết sống chết lúc nào. Nói thế, anh ấy mới thu xếp về được. Việc Tây của người ta, phải là có sự đến nơi, người ta mới cho nghỉ”.
Hời đi nhờ đánh ngay cho anh sếp Từ một cái thư. Trong viết đại khái như những lời ông Nhượng dặn.
Dần dần những người bà con láng giềng ở xung quanh trong xóm, đều biết tin bà Vạng ốm. Người ta dập dìu kéo nhau đến thăm. Giường bà Vạng nằm ở một góc nhà. Nhưng ngay chỗ cánh cửa liếp, anh Hời treo một cái chiếu rủ xuống. Bởi vậy, trong nhà, tối như bưng mắt. Ai cũng đến hỏi thăm, từ những người chẳng thân thuộc mấy. Người ta vào tận chỗ cụ Vạng nằm, lật lá màn lên, cúi xuống hỏi thực to:
- Cụ thức hay ngủ đấy?
Và bởi bà Vạng kém mắt, nên ai cũng phải xưng danh:
- Ba Cấn đây mà!
- Cháu ạ. Cháu Tý đấy!
- Cụ đã cơm cháo gì chưa?
- Cụ cố nhấp một tí nước cháo cho nó có hơi cơm.
- Mấy bữa nay, quạ về kêu nhiều quá ở ngoài cây đa. Khéo không có cụ nhà nào ăn xôi mất. Cái giống nó bao giờ mà kêu là nghiệm lắm.
Người ốm mệt lử, trả lời làm sao kịp được những câu hỏi của người khỏe. Nhưng nếu bà Vạng có nằm yên thì người ta cứ cố hỏi dồn cho đến lúc bà cụ phải ầm ừ đáp lời mới chịu thôi. Có như vậy, người ta mới hài lòng, vì được người ốm biết cho rằng có mình đến hỏi thăm. Và hỏi thăm người ốm rồi, người ta ra ngồi đầu hiên, nói chuyện trời đất mưa nắng, uống nước vối, hút thuốc lào vặt với vợ chồng anh Hời một lúc nữa, mới ra về. Ai đến cũng như thế. Chẳng bao giờ vợ chồng anh Hời lại ra ý phàn nàn. Vợ chồng anh bùi ngùi, cảm kích mọi người đã đến thăm hỏi mẹ.
Thấm thoắt, bà Vạng ốm đã được nửa tháng. Một hôm, ông Nhiêu Thục sang thăm bà dâu gia. Từ hôm bà Vạng ốm ông cũng có sang một lần vào sau bữa bà ngã được mấy hôm. Hôm ấy, tình cờ mà ông sang. Cũng tưởng là bà Vạng trở trời trở đất, qua loa. Cho đến chiều hôm kia, Ngây về nói chuyện ông mới rõ là bà Vạng phải nặng.
Ông Nhiêu mua hai chiếc bánh bột lọc đằng ngon có nhân hành, hết bốn xu, ở trên chợ, để đem làm quà. Ngây vén cái chiếu lên, để bố chui vào phía giường bà Vạng. Ông Nhiêu chẳng trông thấy gì hết. Vì mới ở ngoài nắng vào, thành thử ông quáng mắt. Vả lại, trong nhà cũng tối thực. Ánh sáng không lọt được ở hướng nào. Bóng tối ngưng đọng bốn phía. Một thứ phản ngang nhợt nhạt mơ hồ chập chờn trên đầu bức vách. Nhà tối đến nỗi, đàn muỗi tưởng là đêm, từ các khe cửa hắt ra kêu o o. Một mùi mốc tanh tanh dâng lên, lẩn với một mùi thối khẳn. Đó là mùi đất, mùi người ốm, mùi nước đái, mùi phân ở một cái giành đựng đầy tro để ngay giữa gậm giường.
Bây giờ ông Nhiêu đã hơi quen mắt nhìn. Lá màn nâu buông sùm sụp trước mặt. Ông đưa tay ra vén lên và thò đầu vào. Bà Vạng nằm khòng khoèo như một cái thây ma. Trong bóng tối mờ mờ, rõ những đến da bọc xương đen sì. Còn cái đầu quả là một cái đầu lâu. Hôm kia, Hời đã lấy kéo, sửa cả lớp tóc ngắn, cho nhẹ và gọn. Chỉ trông chân tay thỉnh thoảng cựa quậy, mà biết rằng bà còn sống. Một mảnh áo phủ nửa người. Nửa dưới, ở truồng. Vả lại, cũng không quần nào có thể chịu được. Mấy bữa nay, bà Vạng thêm chứng đi rửa. Bà đi luôn, cả ngày, cả đêm. Nhiều bận, Hời nhấc mẹ ra cạnh giường không kịp, tóe vung vãi cả xuống phản. Trước bà hớp cháo được, thì còn đi ra phân. Nhưng sau, chỉ uống nước, rặt đi ra lầy lầy đen đen mùi đặc. Nó thối, lặm, con chó mực cũng chịu, chỉ hít hít mấy cái rồi lảng. Ông Nhượng bảo Hời bẻ mấy cái giát tre thành một lỗ vuông ở giữa giường, xung quanh lót lá chuối. Anh Hời đặt mẹ nằm kề xuống, dưới để giành tro.
Bà Vạng nằm đấy, nhưng còn thính tai lắm. Nghe tiếng đụng lá màn, thì thều thào:
- Ai...?...
- Tôi đây. Nhiêu Thục ạ.
- Lạy... ông... ông...
Rồi có tiếng u ú trong mồm bà Vạng. Bà khóc. Một chốc, bà nói nho nhỏ. Những tiếng ngắn và chắp nối thiếu hơi:
- Ông ơi!... Tôi... chết... mất... khổ...
- Bà đừng nói thế. Bà cố ăn dăm bữa nửa tháng tất mạnh khỏe. Chỗ chị em nhà mình nghèo của, nghèo người, bà đi làm gì vội. Vài năm nữa.
Nghe câu nói thân mật cảm động quá, bà Vạng lại ức ức ú ú khóc. Ông Nhiêu cũng rơm rớm hai bên mi. Hời thì nghẹn ngào, nói không ra tiếng. Ngây đưa vạt áo lên mắt, sụt sịt. Nàng ẵm con ra hiên bóc một chiếc bánh, rồi đưa vào cho ông Nhiêu.
- Bà cố nhấp nháp một tí, bánh bột lọc đấy.
Hời cắt một miếng. Ông Nhiêu đưa vào miệng bà. Nể lòng, bà Vạng hé miệng. Nhưng bà không biết nuốt thế nào nữa. Lưỡi bà lại đẩy ra ngay, bà đòi uống nước, bà đòi mang thằng Kê đến.
Hôm nào bà cũng bắt vợ chồng Hời mang thằng Kê đến bên giường. Bà cố nghiêng mình, khẽ nhích lê cái tay ra, sờ lên mặt, lên đầu, lên bụng thằng bé. Rồi bà khóc.
Nhất là về đêm thì bà càng hay khóc. Lúc nào dứt tiếng rên, là lại nối tiếng khóc ư ứ. Và bà nói lảm nhảm:
- Con ơi!... Con đã về ư?
Hình ảnh đứa con trai làm ăn đất khách quê người tận phương trời nào lại hiện về bên giường. Nó vẫn còn trẻ. Nó mỉm miệng, nhe ra cái răng vàng. Sau lưng nó, một người đàn bà búi tóc thê lễ, mặc đồ lĩnh đen óng ánh.