Chương 8
CÁI CỔNG TÁN BUÔNG SÙM SỤP; chiếc cán tre tra cẩn thận vào chốt. Bên trong là một khoảng sân hẹp, nhưng dài, trồng đôi ba luống cải. Những cây cải đã ngồng cao lêu nghêu. Trong nữa là một nếp nhà lá. Bốn bên, ba gian cửa đều buông liếp kín mít. Tỏ ra cả nhà đi vắng, đã che liếp và đóng cổng tán.
Nhưng Thoại không tin là nhà đi vắng. Đây là nhà ông Cả Thóc. Anh đến nhà ông Cả Thóc đòi nợ. Hôm nay hai mươi chín tháng Chạp mà hai mươi chín bắt làm Ba Mươi.
Chỉ qua nửa đêm nay đã là sang giao thừa rồi. Sáng mai mùng Một Tết - năm mới năm me rồi. Ai còn nợ ai cái gì, người ta đòi nốt ngày hôm nay cả. Nếu sáng mai đòi người ta chửi cho. Anh Thoại càng cần đòi nợ. Vả lại, ông Cả Thóc nợ cũng không bao nhiêu. Có năm hào tám. Tiền công dệt lĩnh đọng lại từ tháng Mười vừa rồi. Ông Cả Thóc vỡ nợ, đã bán cả nhà, mặc dầu ông Cả Thóc đã hẹn trả anh có đến tám mươi nhăm hẹn mà ông vẫn hẹn như đóng đinh vào cột. Cho đến cái khất cuối cùng là ngày Ba Mươi này. Ông ta đã thề thế nào ông ta cũng trả Thoại tất cả năm hào tám với năm xu lãi. Thoại cũng đành tin thế. Và anh đợi đến hôm nay lại lò dò vào. Mà ông Thóc đi vắng!
Anh không tin. Ba Mươi Tết, còn đi đâu. Anh nghểnh cổ, gọi hóng vào trong nhà mấy tiếng. Không ai thưa. Anh lại gọi dồn một hồi. Bao nhiêu chó trong xóm đều nghe tiếng. Chúng sủa om và nhông nháo kéo đến lũ lượt. Anh Thoại tức lắm. Anh cất công đi từ nhà vào đây, nào có ít đường đất. Qua cả con đường đồng. Gió thổi hun hút, trời rét như cắt ruột. Thoại cúi xuống, lấy gân tay nhắc cái dõi cổng lên khỏi chốt. Và anh khom khom lách qua mấy cành dong, chui vào. Anh vỗ tay thùm thụp trên những tấm liếp rơm. Chẳng ai trả lời. Anh thò đầu vào trong nhà. Ba gian trống trơn. Anh nhòm cả xuống gậm phản. Chỉ lù lù mấy đống đất mối đùn. Thất vọng. Vợ chồng lão đi vắng thực. Nói là vợ chồng lão đi trốn các con nợ thì đúng hơn.
Thoại đương đứng tần ngần ngoài sân thì thấy mụ hàng nước mắm lù lù quảy hai cái thúng vào. Mụ vừa đi vừa gọi. Trông thấy Thoại, mụ hỏi:
- Bác có biết ông Cả Thóc đâu không?
- Tôi cũng đương tìm.
Mụ đặt gánh xuống, nhòm vào nhà. Rồi mụ lu loa kể lể đầu cua tai nheo với Thoại. Nào nợ nửa chai nước mắm mà từ tháng mấy tháng mấy.
Bác Thoại cũng giãi bày tâm sự. Mụ nước mắm rõ thêm đấy cũng là một người đi đòi nợ lão Thóc, mụ càng tru lên rầm rầm. Mụ réo cho cả xóm nghe tiếng. Mụ hỏi Thoại:
- Bác tìm kỹ trong nhà chưa?
- Tôi đã tìm cả dưới gậm phản.
Nhưng mụ cứ tìm lại. Mụ vác đòn gánh vào khua. Không có gì. Mụ mò xuống bếp. Chẳng có mãnh nào dưới cái bếp trống trơ. Mụ thóc cái đòn xuống đống rơm. Bỗng có tiếng “oái! oái! ối!” văng ra. Hoảng hồn, mụ chạy giật lùi. Thoại sợ không dám vào, đứng dé chân chèo, ghé một mắt vào lỗ vách. Chưa thấy gì, lại nhòm cả đầu vào khe cửa. Mụ nước mắm đứng sau lưng, run rẩy. Trên đống rơm, bỗng nhảy ra một thằng bé ngồi tây ngây. Nó là thằng Thóc, con ông Cả. Lúc nãy mụ nước mắm đã thọc đòn gánh vào lưng nó. Biết rõ là thằng người, mụ vào lôi nó ra. Mụ quát hỏi bố mày đâu? Nó ngẩn ngơ lắc. Mụ hỏi mẹ mày đâu? Nó cũng lắc. Mặt bà lại càng ngẩn ngơ thêm. Bố và mẹ nó đã dặn nó nằm yên trong ổ rơm mà coi nhà, ai hỏi gì, cấm không được nói.
Cáu kỉnh, mụ nước mắm beo tai lôi nó xềnh xệch ra sân. Thằng bé cong người lại, đi theo bàn tay. Nó nheo mắt, méo xệch mồm. Nó bịt hai tay vào tai. Bỗng nó giựt tay mụ ra, ù té chạy miết. Mụ đứng nhìn trơ. Rồi đi ra.
Thoại còn gặp đôi ba người nữa. Cũng vào đòi nợ ông Cả Thóc. Một người bán rượu. Một người bán muối. Lại cả người bán đóm nữa. Chẳng ăn thua gì.
Thoại lừ đừ lên chợ Bưởi. Ngày phiên chợ áp Tết người đông như kiến cỏ. Những con kiến người chen, thách nhau và mua bán rầm rĩ. Nhưng anh Thoại chỉ đi lên chợ để ngắm người ta mua bán mà sốt ruột. Trong thắt lưng anh cũng có giắt sáu hào bạc, sáu hào bạc anh định để góp với năm hào tám đòi nợ lão Cả Thóc, thành hơn một đồng và sẽ mua một miếng thịt lợn, một miếng thịt bò, đong hai đấu gạo nếp. Tất cả cái Tết nằm giản dị trong đầu anh như vậy. Mà vẫn chỉ là mộng thôi.
Đi đã chán chân, anh nghĩ rằng cũng nên mua một cái gì hay hay. Cho thằng cu Động ở nhà. Nó tuy chưa biết chơi, nhưng cũng nên mua cái tranh làm khước. Đôi tranh gà, giá hai xu rưỡi, có thể mua được. Đến hàng tranh, anh xỉa ra hai xu rưỡi lấy đôi tranh gà. Cuộn tròn lại, anh nhét vào túi áo trong rồi đi dạo một lúc, anh lại trở vào trong xóm, đến nhà lão Thóc.
Lão và vợ lão vẫn chưa về. Thằng cu Thóc lại chui vào ngủ trong đống rơm. Chẳng lẽ mà anh cũng nằm xuống phản ngủ một giấc để đợi con nợ cho chắc chắn. Anh lại thơ thẩn đi ra đồng làng nhìn người ta đi chợ về. Trời đã đúng trưa. Nhưng vẫn rét thin thít.
Có một đám ma từ trong làng ra. Gọi là đám ma cho đúng tên mà thôi. Đây là đám ma cụ Vơ, cụ Vơ ngoài bảy mươi tuổi, sống một mình. Cả đời cụ sống bằng cơm đi xin, cụ là người ăn mày không biết trí trá gì bao giờ. Mấy lâu nay cụ đau lưng. Nhưng chắc cái bệnh xoàng ấy chưa đủ lực vật được ông cụ nghèo khổ, mà trận rét ghê gớm trong mấy bữa rày mới làm chết được cụ. Cụ Vơ chết bây giờ cũng là vừa may. Mọi nhà đều đã ghét cụ rồi. Bởi vì cụ cứ đi xin người ta mãi. Và còn may nữa là cụ chết vào hôm nay, nếu qua ngày mai, thì chẳng ma nào chịu khiêng cụ đi.
Làng xóm mua cho cụ Vơ một cái quan tài gỗ tạp. Người ta khiêng bằng hai cái đòn tre dài, tròng thừng xuống, cái săng bu lu ở giữa. Những bàn chân lùi lũi, thoăn thoắt đi ra bãi tha ma. Cũng có đôi ba tiếng khóc ỉ eo của người họ mạc. Người ta khóc lấy lệ.
Tự dưng anh Thoại cũng ra ghé vai vào cái đòn khiêng cụ Vơ. Người ta vốn hay làm và dễ làm. Và với việc khiêng người chết, hồ như được coi là việc nghĩa, việc làm phúc. Chẳng qua là cái việc luân chuyển đồng lần của người trong làng với nhau.
Nhưng tự dưng Thoại đã gặp lão Cả Thóc ở cái đám chúng sinh đi khiêng đám ma. Lão khiêng đầu đòn bên kia, cái lưng khum khum, đôi môi mím lại.
Bất chợt trông thấy Thoại, lão hé miệng. Không biết để cười hay để mếu. Để cười ruồi thì phải hơn. Còn Thoại, anh khoái chí như bắt được tiền. Lúc hạ huyệt cụ Vơ xong, Thoại bảo ông Cả Thóc:
- Tôi đợi ông từ sáng ở nhà.
Ông Thóc nhanh nhảu:
- Ấy, bác về với tôi. Nhà tôi đi chợ Tết, giữ cả tiền. Có lẽ bây giờ cũng về rồi.
Hai người lấm như vùi, trở vào trong xóm. Nhưng vợ lão vẫn chưa về. Cho mãi đến sâm sẩm tối, văng vẳng đã có tiếng pháo cúng Tất niên rộn lên, mà vẫn chưa thấy hút mụ Cả Thóc. Thoại tức quá, nói lảu bảu, rồi sinh sự chửi lão Thóc. Lão Cả Thóc cũng không vừa. Tức thì, họ đánh nhau, thật là một trận kịch liệt. Chỉ có cu Thóc đứng ôm mặt khóc tỉ ti. Lão Thóc địch sao nổi Thoại. Chỉ lều quều sau vài cái đấm đá Thoại đã tống cho lão Thóc hai quả vào quai hàm. Lão lăn quay ra, miệng tóe máu. Lão kêu làng om sòm. Hoảng hốt, Thoại co cẳng chạy như ngựa phi.
Thoại chạy thẳng về nhà. Cái nhà ở chân tre bên ngòi nước. Cũng có cái sân trồng cải trước hiên và một bụi chuối ở đầu hồi.
Về đến nhà thì trời đã tối mịt. Bướm ẵm thằng cu con, ngồi trong ổ rạ hỏi với ra:
- Bố thằng cu phỏng?
- Ầu!
- Mua bán xong rồi chứ?
- Xong cái tiên chân cha nhà nó! Ông đánh nó vỡ mõm ra đấy.
Người vợ không ngại gì câu chửi vu vơ. Chị coi tự nhiên. Vợ chồng đối nhau cũng thế thường. Âu như một câu đệm lăng nhăng quen mồm. Bởi vậy, chị lại dịu dàng hỏi:
- Thế tiền nợ đã đòi được rồi chứ?
- Chưa.
Chị ta kêu lên:
- Chết tôi rồi... Chưa đòi được mà đã đánh nó. Thế là ngót sáu hào bạc lên chuồng con chim. Anh làm hại mẹ con tôi! Anh làm hại mẹ con tôi, giời ơi!
Cứ kể Bướm cũng lắm điều. Đàn bà hay lắm điều, nhiều lời. Bởi vì dường như anh Thoại đã hối hận. Anh biết lúc nãy đã quá tay và quá nóng mà đánh lão Thóc. Đánh lão, tất chẳng bao giờ lão trả nợ nữa. Anh hối hận thực. Anh lại hối hận thêm rằng anh đã chạy ngay về nhà, không mua bán được gì. Ngày mai mùng Một Tết, chẳng có xôi, chẳng có hương, chẳng có nến; nghĩa là chẳng có một thứ gì là Tết, để cúng. Vẫn ăn cơm gạo đỏ với sung muối như thường ngày. Người đàn bà nhai nhải, ray rứt.
- Ngày mai mồng Một, nén hương không có. Giời đất ơi! Người ta làm hại mẹ con tôi...
Anh đàn ông tức, không chịu được những lời đóng đinh vào tai ấy.
- Mày muốn kêu trời phỏng? Mả mẹ mày!
- Mả mẹ tôi ở trên giường thờ kia.
- Bốp! Bốp! Huỵch! Huỵch! Huỵch!
- Ối ông cả bà nhớn ôi! Nó giết tôi! Thằng Thoại nó giết tôi. Hu... hu... hu...
- Này ông cả bà nhớn! Này giết! Huỵch! Huỵch! Mày cứ kêu, ông cứ đánh, xem đằng nào được.
Thằng cu Động ngủ trong ổ, cũng khóc váng. Nhưng giá vợ chồng anh có giết nhau thực, cũng chẳng ai biết đấy là đâu. Bụi tre kẽo kẹt ào ào gió, bốn bề cánh đồng mông mênh.
Rồi sau, người đàn bà phải đình sự kêu vì bị thụi nhiều. Thực rõ lôi thôi quá. Lần nào cãi nhau cũng vậy, chị ta cứ để anh ta cho vài chục quả ục mới chịu câm miệng. Và giờ chị Bướm chỉ còn khóc ti tỉ.
Anh Thoại nằm ngửa mặt, im lặng, vắt hai tay lên sau gáy, mà ngẫm nghĩ về cái nghèo, cái đói, cái rắc rối, cái khổ sở trong cuộc đời cơ cực.
Nghĩ gần lại nghĩ xa. Thoại quên cả sắp sang canh, một năm mới đương dần dần tới.
Đến khi có tiếng pháo giao thừa, anh ta mới sực nhớ.
Tiếng pháo trỗi dậy, nổi lên, râm ran trong đêm khuya. Anh lắng tai, nghe mờ mờ từ phía Kẻ Chợ, tiếng rào rào như thác ngàn đổ xuống. Tiếng rào rào liên miên, tiếp nối nhau của người ta đón xuân ngoài thị thành. Tiếng vang vào các bức tường, dội lên cao ngút rồi tỏa vọng mênh mông bốn phía.
Cũng từ bốn phương xung quanh, trong các thôn xóm, người ta đốt pháo tạch tạch. Những tiếng tạch, tiếng đùng này gần hơn, ở các lũy tre bốc ra, vang động xuống cả mặt nước ruộng. Lại thêm tiếng chuông, tiếng trống các đình, chùa, miếu, quán đâu đây dâng lên, len vào tiếng pháo. Trong đêm tối thăm thẳm, mọi tiếng râm ran khua động. Chúng hùa với nhau mà reo hò như muốn dựng đêm tối trở dậy. Đêm tối trở dậy, ngơ ngác.
Anh Thoại cũng ngơ ngác, lồm cồm đứng lên. Vợ anh vẫn ngủ yên. Anh đoán thế.
Vì tối quá anh không nhìn thấy. Có khi vợ anh vẫn thức, cũng mở mắt ra như anh. Nhưng chị ta không nói gì, mà lại rơm rớm nước mắt. Bởi vì Tết của thiên hạ vung lên, mà Tết của đôi vợ chồng túng kiết ở trơ vơ trong cánh đồng thì không có. Họ vừa cho nhau một bữa đòn Tất niên. Và bây giờ người chồng ngồi dậy không biết nghĩ gì và sắp định làm gì.
Anh đương nghĩ về một điều. Anh nghĩ về tiếng pháo và đàn chó làng Hạ Nha.
Trong làng Hạ Nha có biết bao nhiêu là chó. Chó vàng, chó đen, chó nhôm, chó trắng, chó vện. Giống chó chắc ghét Tết lắm. Tết, người ta đốt pháo đì đạch. Chó sợ, chạy ra đồng. Tết năm nào ở cánh đồng làng cũng nhan nhản những chó chạy sợ pháo. Con thì nằm trên gò. Con thì nằm bên bụi tre. Có những con đi lêu đêu, lưng dài ra, đuôi và mõm cúp xuống đất.
Nhiều người ở mọi làng xung quanh đấy, cứ đêm giao thừa là ra đồng, rình đánh chó sợ pháo. Ấy là những người xác xơ, đồng trinh không dính túi, mà chiều Ba Mươi thì trong nhà hết gạo. Họ ra đồng, cộp vài chú cầy về làm thịt, đánh chén qua mấy ngày Tết. Nện chó chạy ngoài ruộng dễ lắm. Bởi vì trong cánh đồng rộng, sức chó chạy không được mấy nả, chỉ một lát thì lụy ngay.
Thoại nghĩ đến bọn người đánh chó Tết. Rồi Thoại lò dò ra hé cửa liếp.
Bấy giờ trời đã rạng sáng. Tiếng pháo cũng ngớt. Ngoài cánh đồng, sương bay mịt mờ. Rét đâu mà rét khiếp. Gió rin rít. Nền trời xám và đục, không ẩn một vì sao nhỏ.
Thoại đi ra cánh đồng, men về phía bờ tre ven trong làng. Hắn khom người lại, vừa đi, vừa nhảy như ngựa chạy. Đó là tại gió đẩy, thực hắn không muốn chạy. Hắn xách một chiếc gậy tre lớn, đi đánh chó sợ pháo. Hắn đã nghĩ như tất cả những kẻ đánh chó lạc khác, rằng cộp một hai con chó về ăn ung dung mấy ngày Tết. Thực là dễ.
Thoại ngồi núp ở một cái gò cao. Đằng xa, ẩn hiện trong hơi sương, mập mờ mấy bóng người lom khom. Hẳn những người kia cũng đang làm cái việc của Thoại làm. Tiếng pháo dội lại, lác đác thưa thớt.
Đợi mãi không thấy một nhách chó nào lảng vảng qua. Sốt ruột, gã đi sang phía bên bờ tre.
Bỗng nhiên, một con chó đen chạy qua thửa ruộng trước mặt. Nó cúi lê mõm và rạp người xuống. Thoại xoải chân đuổi theo. Bàn chân lướt qua ruộng rạ khô cứng, buốt thon thót. Nhưng Thoại không hề biết. Con chó thấy người đuổi thì cúp nốt đuôi xuống, phóng như bay. Song người chạy vẫn tài hơn. Dần dần con chó đuối sức. Thoại chạy càng hăng. Sương sớm phả vào mặt lạnh tê. Anh mím môi lại mà chạy. Cái gậy giơ lên lăm lăm. Anh cố vượt. Đầu gậy đã tới đúng được đuôi con chó. Giá vụt bây giờ thì trúng vào giữa sống lưng. Song anh định đánh ăn chắc một gậy đúng giữa sọ cho con chó chết ngay.
Chợt nghe có tiếng lạt sạt gốc rạ trước mặt. Vội ngẩng lên thấy hai người đương chạy đến. Trong tay họ cũng cầm gậy mặt hầm hầm. Và Thoại có thể đoán dáng điệu mà chắc chắn rằng họ chạy đến, chẳng phải để đánh giúp, chia phần với anh con chó đen nọ.
Thoại xanh mặt lại, chạy quay ngay về. Hai kẻ kia đuổi anh. Ra đó là những người trong xóm đi rình những đứa đánh trộm chó Tết. Vừa rồi Thoại đuổi con chó đen gấp rút thế nào thì hai kẻ nọ đuổi lại anh gấp rút thế ấy. Vượt bao nhiêu là bờ ruộng, là gò đống. Những gốc rạ, những nạm cỏ cứ qua liên liến trước mặt. Cổ anh đã ráo khan lại. Anh bắt đầu nhô ngực lên thở phì phò. Bốn cái bàn chân huỳnh huỵch theo không ngừng. Mà đằng trước vẫn là sương mờ bao la. Anh lạc cả lối về rồi.
Vụt, anh Thoại bị ngay một gậy vào lưng, khỵu gục giữa ruộng. Liền mấy gậy nữa giáng xuống:
- Chạy nữa đi, ông xem!
- Úi! Úi! Thằng Thoại! Thằng Thoại!
- À thằng Thoại!
Thế là hai gã lực lưỡng đánh Thoại vô hồi kỳ trận. Chúng thục đầu gậy hự hự vào ngực Thoại. Khốn nạn, cái ngực lúm xuống. Thoại nhắm mắt kêu lên khe khẽ, người rúm lại như con tôm khô, lăn lóc mê tơi trong trận bão đòn.
Đánh chán tay, chúng lại định lôi Thoại về trong xóm cho mọi người cùng được đánh. Tuy Thoại đã quá đau, nằm chỏng quèo, nhưng cũng cuống cuồng chắp hai tay, vái rối rít:
- Lạy các ông, tôi lạy các ông. Tha cho tôi. Tôi đã đánh được con nào đâu...
Mắt Thoại lóa mờ đi không trông được rõ ai vào ai. Nói xong câu ấy, Thoại buông xuôi hai tay, mồm há ra. Anh ngất đi. Hai gã kia liền bỏ về trong xóm.
Một chốc, Thoại tỉnh dậy, từ từ ngồi lên. Anh lần bờ ruộng, vừa đi vừa bò về lều. Vào đến trong cửa, anh chỉ kịp lăn xuống ổ rạ, nằm thiêm thiếp, run bần bật. Vợ hỏi sao, cũng không thể nói.
Đến hôm mồng Ba Tết, Hời đi đâu về, mặt mũi ngơ ngác.
- Này, cả nhà có biết chuyện gì không?
Ngây đương ngồi ẵm con sưởi ấm trong bếp, chạy nhào ra.
- Vợ chồng nhà Thoại bỏ làng đi mất rồi!
Bà Vạng hỏi:
- Ai bảo thế?
- Người ta chuyện nhao nhao ở ngoài đường ấy. Người ta bảo rằng sáng hôm mồng Một thằng Thoại đi đánh chó sợ pháo ngoài đồng bị con trai làng Thượng đón đánh hộc máu mồm ra. Phải bò mới về được. Đâu ngay hôm sau, vợ chồng con cái cuốn gói đi sớm. Tôi nghe người ta nói, bán tín bán nghi, chạy ra nhà Thoại thì quả thật chỉ thấy còn cái xác lều. Đâu bảo cái giường tre có ổ rạ với nồi niêu thì kẻ ăn mày lấy rồi. Khốn khổ, lúc đi cũng không dám vào đây. Mà Tết nhất này, kéo nhau đi đâu mới được chứ?
Ngây cắn vành môi lại, nước mắt vòng quanh, nói nho nhỏ:
- Chắc đi lên mạn ngược có người nhà. Dạo trước chị Bướm đã bảo thế.
Bà Vạng im lặng, thở dài.