PHẦN 1 BÀI HẠP (MỞ KHÉP) Nguyên văn
Việt nhược (1) kê (2) cổ, thánh nhân chi tại thiên địa gian dã, vi chúng sinh chi tiên. Quan Âm Dương (3) chi bài hạp (4) dĩ danh mệnh (5) vật. Tri tồn vong chi môn hộ. (6) Trù sách (7) vạn loại chi chung thủy, đạt nhân tâm chi lý, kiến biến hóa chi trẫm (8) yên, nhi thủ tư (9) kỳ môn hộ. Cố thánh nhân chi tại thiên hạ dã, tự cổ chí kim, kỳ đạo nhất dã. Biến hóa vô cùng, các hữu sở quy, hoặc Âm hoặc Dương, hoặc nhu hoặc cương, hoặc khai hoặc bế, hoặc trì hoặc trương.
Chú thích
1. Việt nhược: Một thể văn cổ đại, thường được dùng để khởi đầu một câu, không có ý nghĩa.
2. Kê: Khảo sát.
3. Âm Dương: Người cổ đại cho rằng, vạn vật trên trái đất này đều có nguồn gốc từ hai khí Âm và Dương, hai khí Âm Dương hỗ trợ nhau cùng thúc đẩy vạn vật phát triển. Tượng trưng cho Âm Dương có ngày đêm, sáng tối, vua tôi, nam nữ, tích cực tiêu cực, mở đóng,…
4. Bài hạp: “Bài” có nghĩa là mở, như cởi mở tấm lòng, tích cực hành động, tiếp thu ý kiến hay, trọng dụng hiền tài,… “Hạp” có nghĩa là khép như khép kín lòng, luôn ở trong tư thế phòng bị, cự tuyệt mọi vật, bài xích nhân tài.
5. Mệnh: Phán đoán, phân biệt.
6. Môn hộ: Điểm mấu chốt tồn tại.
7. Trù sách: Kế hoạch, mưu kế.
8. Trẫm: Dấu hiệu báo trước.
9. Thủ tư: Nắm vững.
Nói một cách cụ thể thì “bài hạp” (mở và khép) là một thuật đàm phán, thuật này có nghĩa là kích thích đối phương mở rộng lòng, nói ra sự thực, hoặc khiến đối phương im lặng bộc lộ chân tình; ngược lại cũng vậy, người du thuyết bản thân hoặc cởi mở hoặc khép kín để đạt được mục đích của mình. Nhìn một cách tổng thể thì “mở và khép” là thuật Tung Hoành, quan trọng hơn bất kỳ kỹ xảo hoặc biện pháp nào khác, do đó chương “Bài hạp” là phần vô cùng quan trọng của toàn bộ cuốn sách. “Tung hoành bài hạp” là nguyên tắc tổng hợp các nội dung như dùng mưu lược, nắm bắt tình thế, nắm bắt thời cơ, du thuyết chư hầu, lập thân xử thế của các bậc quân tử thời Chiến Quốc, đây cũng là tư tưởng trọng tâm của “Quỷ Cốc Tử”.
Dịch nghĩa
Xem xét trong lịch sử cổ đại, chúng ta có thể thấy, giữa trời đất bao la rộng lớn, các thánh nhân luôn xuất hiện trước quần chúng nhân dân với tư cách của người tiên tri. Thông qua quan sát, họ đã nhận biết vạn vật trên thế gian nhờ vào sự biến đổi phân hợp của hai khí Âm Dương, từ đó hiểu rõ điểm mấu chốt trong sự sinh tử tồn vong của vạn vật. Họ cẩn thận lên kế hoạch toàn bộ quá trình phát triển của mọi sự vật từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc, kịp thời hiểu rõ quy luật biến đổi tư tưởng của con người, hơn nữa, luôn quan sát những dấu hiệu báo trước sự biến chuyển của sự việc, từ đó nắm bắt được điểm then chốt trong sự biến hóa của vạn vật, để nhân theo thế mà dẫn dắt hợp lý. Do vậy, từ xưa tới nay, ở trong khoảng đất trời, các thánh nhân khi suy ngẫm về sự việc, đều quy về trong sự biến đổi của Âm Dương. Sự thay đổi của vạn vận là vô cùng tận, song cuối cùng thì cái nào cũng quy về cái nó vốn có, chẳng hạn như có cái quy về Âm khí, có cái quy về Dương khí; có cái quy về nhu nhược, có cái quy về cương cường; có cái quy về mở ra, có cái quy về đóng lại; có cái quy về căng thẳng, có cái quy về thả lỏng.
Nguyên văn
Thị cố thánh nhân nhất thủ tư kỳ môn hộ, thẩm sát kỳ sở tiên hậu, độ quyền lượng năng, hiệu kỳ kỹ xảo đoản trường. Phù hiền, bất tiếu; trí, ngu; dũng, khiếp; nhân, nghĩa hữu sai. (1) Nãi khả bài, nãi khả hạp, nãi khả tiến, nãi khả thoái, nãi khả tiện, nãi khả quý; Vô vi (2) dĩ mục chi. Thẩm định hữu vô, dữ kỳ hư thực, tùy kỳ thị dục (3) dĩ kiến kỳ chí ý. Vi bài kỳ ngôn nhi bài phản chi, dĩ cầu kỳ thực, thực đắc kỳ chỉ. (4) Hạp nhi bài chi, dĩ cầu kỳ lợi. (5) Hoặc khai nhi thị chi, hoặc hạp nhi bế chi. Khai nhi thị chi giả, đồng kỳ tình dã; Hạp nhi bê chi giả, dị kỳ thành dã. (6) Khả dữ bất khả, thẩm minh kỳ kế mưu, dĩ nguyên kỳ đồng dị. Ly hợp hữu thủ, (7) tiên tòng kỳ chí.
Chú thích
1. Hiền: Người có đức hạnh, tài năng. Bất tiếu: người không có đức hạnh, tài năng. Nhân: lòng thương người. Nghĩa: làm theo lẽ phải.
2. Vô vi: Quan niệm triết học đạo gia, tức là thuận theo quy luật và sự thay đổi của tự nhiên.
3. Thị dục: Thích, sở thích đặc biệt.
4. Vi bài: Phản bác mang tính thăm dò. Phản: Trình bày đi trình bày lại nhiều lần. Chỉ: Ý chỉ, lệnh.
5. Hạp: Chỉ đối phương im lặng không nói gì. Bài: Tìm cách để đối phương cởi mở tấm lòng mà nói ra suy nghĩ của mình. Lợi: Chỉ mục tiêu và lợi ích mà đối phương đang theo đuổi.
6. Đồng kỳ tình: Khiến hai bên có suy nghĩ giống nhau. Di kỳ thành: Nhận biết được thành ý của đối phương.
7. Ly hợp: Ly là rời xa, cách xa, không nhất chí. Hợp là khép lại, đóng lại. Hợp ngược nghĩa với khai. Hữu thủ: Có được quan điểm của bản thân và tìm cách bảo vệ quan điểm ấy.
Dịch nghĩa
Do vậy, đòi hỏi các thánh nhân luôn phải khảo sát thật thận trọng điểm mấu chốt trong sự phát triển và biến hóa của vạn vật, để xác định việc nào có trước, việc nào có sau. Dùng nhân tài thì cần đánh giá được mức độ mưu trí, năng lực, cũng như tài nghệ kỹ xảo của người đó. Giữa con người luôn có sự khác biệt, có người hiền tài, có người bất tài; có người thông minh, có người ngu xuẩn; có người dũng cảm, có người hèn nhát, có người nhân, nghĩa, đều có sự khác biệt, do đó tùy thuộc vào từng hạng người mà có thái độ và biện pháp đối xử khác nhau, có người cần đối xử mềm mỏng, nhẹ nhàng, có người cần gay gắt, cự tuyệt ngay từ đầu; có người cần trọng dụng, có người cần loại bỏ; có người cần khinh thường, có người cần tôn sùng. Phải tuân thủ nguyên tắc “vô vi nhi trị” (thuận theo quy luật và sự thay đổi của tự nhiên mà trị) để điều khiển và khống chế. Đương nhiên khi tìm kiếm và lựa chọn hiền tài, cần tìm hiểu kỹ năng lực và phẩm chất đạo đức của người đó; cho họ được tự do thể hiện sở thích cá nhân và nguyện vọng của bản thân, từ đó phát hiện ra ý tứ và chí hướng của người đó; Biết phê bình và nghi ngờ lời nói của đối phương một cách thích đáng, để kích thích người đó nói ra. Sau đó lại phản bác và cật vấn, để tìm ra nguyên ủy của sự việc, nắm bắt ý đồ thực sự của người đó. Tiếp đó, không nói gì nữa để đối phương nói ra những lời muốn nói, từ những lời nói của đối phương sẽ hiểu được đối phương có lợi cho mình hay không. Sau khi đã nắm bắt toàn bộ tình hình, có thể là cởi mở tấm lòng với đối phương, cũng có thể lặng im không nói, không để lộ suy nghĩ gì trong lòng. Nếu là cởi mở tấm lòng thì chính là hai bên có cùng suy nghĩ, cùng chí hướng, còn lặng im không nói chính là hai bên không cùng quan điểm. Mưu kế có tiến hành được hay không, cần nghiên cứu kỹ lưỡng và thận trọng các phương án khác nhau của mưu kế, từ đó làm rõ quan điểm giống và khác nhau, điểm tốt và xấu của hai bên. Mưu kế hai bên có thể trái ngược nhau, cũng có thể hòa hợp song có một điểm cơ bản cần nhớ kỹ, đó là trước hết cần nắm bắt suy nghĩ của đối phương.
“Bài” mang nghĩa “mở”, còn có nghĩa là “Dương”. Khái niệm “Dương” là chỉ tất cả những thứ như trường sinh, an lạc, phú quý, tôn vinh, hiển danh, tài lợi, đắc ý, yêu thích,… Khi người du thuyết vận dụng những khái niệm trên vào đối tượng du thuyết cụ thể thì được gọi là “Dương”, nên nói chuyện với người Dương ngôn nên dùng lời lẽ cao sang.
“Hạp” mang nghĩa “khép”, còn có nghĩa là “Âm”, chỉ tất cả những thứ như chết, buồn đau, nghèo hèn, bệnh hoạn,… Khi người du thuyết vận dụng những khái niệm trên vào trong đối tượng du thuyết cụ thể thì được gọi là “Âm”, nên nói chuyện với người Âm ngôn nên dùng lời lẽ thấp kém.
Nguyên văn
Tức dục bài chi, quý chu; (1) Tức dục hạp chi, quý mật. Chu mật chi quý vi, nhi dữ đạo tương truy. Bài chi giả, liệu kỳ tình dã. Hạp chi giả, kết kỳ thành dã. (2) Giai kiến kỳ quyền hành khinh trọng, nãi chi vi độ số, (3) thánh nhân nhân nhi vi chi lự. Kỳ bất trung quyền hành độ số, thánh nhân nhân nhi tự vi chi lự. (4) Cố bài giả, hoặc bài nhi xuất chi, hoặc bài nhi nạp chi. (5) Hạp giả, hoặc hạp nhi thủ chi, hoặc hạp nhi khứ chi. Bài hạp giả, thiên địa chi đạo. Bài hạp giả, dĩ biến động Âm Dương, tứ thời khai bế, dĩ hóa vạn vật; (6) Tung hoành, phản xuất, phản phục, phản ngỗ tất do thử hĩ.
Chú thích
1. Tức dục bài chi, quý chu: Trước khi hành động cần phải suy nghĩ kỹ càng.
2. Liệu kỳ tình: Liệu là đắn đo, cân nhắc, tức kiểm tra mức độ thực giả, thiện ác, lợi hại, tốt xấu của sự việc. Kết kỳ thành: Kết là kết giao, khiến cho sự việc chắc chắn.
3. Quyền hành khinh trọng: Là chỉ sự cân nhắc, tính toán mức độ nặng nhẹ. Vi chi độ số: độ số vốn là chỉ số chiều dài và trọng lượng, ở đây là chỉ nguyên tắc hành vi.
4. Trung: Phù hợp. Cả câu có nghĩa là: nếu ý kiến của đối phương không phù hợp với yêu cầu thì cần xem xét theo chiều hướng khác.
5. Hoặc bài nhi xuất chi, hoặc bài nhi nạp chi: Xuất chi có nghĩa là làm cho đi khỏi. Nạp chi có nghĩa là thu nhận, tiếp nạp. Ý nghĩa là thoải mái cho người ra đi; thoải mái cho người đi đến.
6. Tứ thời khai bế, dĩ vạn hóa vật: Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông liên tục thay đổi để thúc đẩy vạn vật phát triển và biến hóa.
Khi dùng thuật Bài hạp, trước hết cần thăm dò đối phương bằng Âm ngôn và Dương ngôn (xác định xem đối phương thích Âm hay Dương). Khi nói chuyện với những người thích Dương ngôn thì nên dùng ngôn từ cao sang liên quan tới những sự vật thuộc Dương như đã nói ở trên, còn khi nói chuyện với những người thích Âm ngôn thì nên dùng ngôn từ thấp kém liên quan tới những sự vật thuộc Âm như đã nói ở trên. Như vậy chúng ta có thể làm xúc động kẻ tiểu nhân bằng Âm ngôn, và thuyết phục người quân tử bằng Dương ngôn. Tóm lại, du thuyết bằng thuật Bài hạp thì không có sự tình nào là không phán đoán được, không có người nào không nghe theo quyết sách của chúng ta, và không có người nào là không thể thuyết phục.
Dịch nghĩa
Nếu muốn “mở ra” thì quan trọng nhất là phải suy nghĩ chu đáo, tường tận; Nếu muốn “đóng lại” thì quan trọng nhất là phải giấu đi, không được để lộ cho ai biết. Muốn làm tốt hai điều này thì phải biết vận dụng khéo léo, hơn nữa phải phù hợp với quy luật khách quan. Để đối phương nói ra mong muốn của mình thì có thể đánh giá được sự thành thực của anh ta; Giấu đi quan điểm của mình, im lặng để đối phương nói thì có thể hiểu được thành ý của anh ta. Làm vậy sẽ khiến toàn bộ mưu kế và thực lực của đối phương lộ ra, từ đó nắm bắt đầy đủ tình hình của đối phương. Cũng vì vậy mà thánh nhân đã vạch ra mưu lược, kế sách cho quân chủ. Nếu không thể suy đoán ra tình hình của đối phương thì thánh nhân sẽ suy xét tới việc “rời đi”. Do đó, “mở ra”, tức là loại bỏ hay tiếp nhận một số người dựa vào phương thức “mở ra”, còn “đóng lại” là hoặc loại bỏ hay tiếp nhận một số người dựa vào phương thức “đóng lại”. “Mở ra” và “đóng lại” là quy luật vận động, phát triển và biến hóa của mọi vật trên thế gian này. “Mở ra” và “đóng lại” đều là nhằm khiến cho các phương diện đối lập của sự vật phát sinh biến hóa. Âm Dương giao hòa, bốn mùa liên tục thay đổi sẽ khiến vạn vật phát triển, biến đổi. Mọi sự vật trên trái đất đan xen nhau, tác động lẫn nhau đều là do có tác dụng của “mở ra” hoặc “đóng lại”.
Nguyên văn
Bài hạp giả, đạo chi đại hóa, thuyết chi biến dã. (1) Tất dự thẩm kỳ (2) biến hóa. Cát hung đại mệnh hệ yên. Khẩu giả, tâm chi môn hộ (3) dã. Tâm giả, thần (4) chi chủ (5) dã. Chí ý, hỷ dục, tư lự, trí mưu, thử giai do môn hộ xuất nhập. (6) Cố quan chi dĩ bài hạp, chế chi dĩ xuất nhập. Bài chi giả, khai (7) dã, ngôn dã, Dương dã. Hạp chi giã, bế dã, mặc dã, Âm dã. Âm Dương kỳ hòa, (8) chung thủy kỳ nghĩa. (9) Cố ngôn trường sinh, an lạc, quý phú, tôn vinh, hiển danh, ái hảo, tài lợi, đắc ý, hỷ dục vi “Dương”, viết “thủy”. (10) Cố ngôn tử vong, hoảng hoạn, bần tiện, khổ nhục, khí tổn, vong lợi, thất ý, hữu hại, hình mậu, chu phạt, vi “Âm”, viết “chung”. Chư ngôn pháp Dương chi loại giả, giai viết “thủy”; Ngôn thiện dĩ thủy kỳ sự. Chư ngôn pháp Âm chi loại giả, giai viết “chung”; Ngôn ác dĩ chung kỳ mưu.
Chú thích
1. Đạo chi đại hóa, thuyết chi biến dã: Cảnh giới cao nhất trong quy luật vận hành của sự vật, là căn cứ cho những biến hóa trong du thuyết.
2. Dự thẩm: Hiểu tường tận trước.
3. Môn hộ: Nơi ra vào của ngôi nhà, mở rộng ra dùng để chỉ điểm trọng tâm, đường lối.
4. Thần: Tinh thần
5. Chủ: Cai quản, chủ trì.
6. Câu này có nghĩa là: Ý chí mong ước, sở thích nguyện vọng, suy nghĩ cân nhắc, trí tuệ mưu lược, tất cả đều được biểu đạt qua miệng.
7. Khai: Công khai.
8. Hòa: Hòa hợp.
9. Nghĩa: Nghĩa gốc, ở đây chỉ sự hài hòa thích đáng của Âm Dương trong sự phát triển và biến đổi của sự vật.
10. Thủy: Mở đầu.
Dịch nghĩa
Mở và khép là quy luật vận hành của vạn vật, cũng là căn cứ cho những biến hóa trong du thuyết. Trước khi du thuyết, nhất thiết phải quan sát kỹ sự biến đổi của đối phương. Miệng là cánh cửa của tâm linh, tâm làm chủ linh hồn. Ý chí, nguyện vọng, tư duy, trí tuệ, mưu lược của con người đều được biểu đạt qua hai cánh cửa là miệng và tâm, bởi vậy, cần thông qua thuật mở và khép để nắm vững và khống chế. Gọi là thuật mở chính là công khai, có thể thảo luận, đàm phán, thuộc về phương diện Dương; Gọi là thuật khép, chính là giấu kín, lặng im không nói, thuộc về phương diện Âm. Âm Dương hòa hợp thì mở và khép mới có nhịp nhàng, mới có thể tốt đẹp từ đầu tới cuối. Có thể nói, trường sinh, an lạc, phú quý, danh dự, danh tiếng, sở thích, của cải, dục vọng,… đều thuộc về Dương khí, gọi là “mở đầu”; còn tử vong, hoảng hoạn, nghèo hèn, khổ nhục, phá sản, thất lợi, thất ý, tai họa,…đều thuộc về khí Âm, gọi là “kết thúc”. Tiến hành du thuyết theo Dương khí, được gọi là “mở đầu”, bắt đầu du thuyết từ những bàn luận có lợi; còn tiến hành du thuyết theo Âm khí, được gọi là “kết thúc”, ngăn chặn mưu lược từ những bàn luận bất lợi.
Nguyên văn
Bài hạp chi đạo, (1) dĩ Âm Dương thí chi. Cố dữ Dương ngôn giả, y sùng cao. Dữ Âm ngôn giả, y ti tiểu. Dĩ hạ cầu (2) tiểu, dĩ cao cầu đại. Do thử ngôn chi, vô sở bất xuất, vô sở bất nhập, vô sở bất khả. (3) Khả dĩ thuyết nhân, khả dĩ thuyết gia, khả dĩ thuyết quốc, khả dĩ thuyết thiên hạ. Vi tiểu vô nội, vi đại vô ngoại. (4) Ích tổn, khứ tựu, bội phản. (5) Giai dĩ Âm Dương ngự kỳ sự. Dương động nhi hành, Âm chỉ nhi tàng; Dương động nhi xuất, Âm tùy nhi nhập; Dương hoàn chung Âm, Âm cực phản Dương. (6) Dĩ Dương động giả, đức tương sinh dã. Dĩ Âm tĩnh giả, hình tương thành dã. Dĩ Dương cầu Âm, bao dĩ đức dã; (7) Dĩ Âm kết Dương, thi dĩ lực dã. (8) Âm Dương tương cầu, do bài hạp dã. Thử thiên địa Âm Dương chi đạo, nhi thuyết nhân chi pháp dã. Vi vạn vật chi tiên, thị vị “viên phương chi môn hộ”.
Chú thích
1. Dĩ Âm Dương thí chi: Tức dùng những phương pháp du thuyết thuộc Dương hoặc thuộc Âm như chính hoặc phản, mạnh mẽ hoặc nhẹ nhàng để thử thăm dò và nắm bắt suy nghĩ của đối phương. Thí là thử, tiến hành thử, thăm dò thử.
2. Cầu: Cầu được, chỉ cách du thuyết đã nhận được sự đồng tình của đối phương, xóa bỏ đi hàng rào căn cách về tâm lý giữa hai bên.
3. Vô sở bất khả: Câu này có nghĩa là đã nắm bắt được phương pháp nói ở trên thì du thuyết sẽ rất dễ dàng, không có mục đích nào là không đạt được, không có sự việc nào là không làm nổi.
4. Vi tiểu vô nội, vi đại vô ngoại: Chỉ sự việc du thuyết có thể rất nhỏ bé vô hạn, cũng có thể rộng lớn vô hạn. Thu nhỏ đến mức vô hạn, mở rộng đến vô cùng, sự việc lớn bé đều có thể ứng dụng, cũng có nghĩa là thuật thuyết phục có thể nhỏ vô hạn, cũng có thể lớn vô hạn.
5. Ích tổn, khứ tựu, bội phản: Chỉ lợi ích và tổn hại của sự việc, sự đi, đến của con người, sự phản bội và quay trở về của đạo.
6. Dương hoàn chung Âm, Âm cực phản Dương: Chỉ Âm Dương chuyển hóa lẫn nhau, tương sinh tương hóa, Âm cùng cực thì Dương sinh, Dương cùng cực thì Âm sinh.
7. Dĩ Dương cầu Âm, bao dĩ đức dã: Khi thấy đối phương tiêu cực, do dự, băn khoăn thì cần khích lệ anh ta, khiến anh ta hưng phấn lên, muốn làm được vậy đòi hỏi phải có phẩm chất đạo đức và nhân cách tốt. Bao: Nghĩa là bao dung.
8. Dĩ Âm kết Dương, thi dĩ lực dã: Khi đối phương ở trạng thái chiếm ưu thế, đắc ý thì cần kìm hãm anh ta, khiến anh ta bớt tự đắc.
Dịch nghĩa
Khi vận dụng thuật Bài hạp, trước hết thử dò xét đối phương bằng Âm ngôn và Dương ngôn (xác định xem đối phương thích Âm ngôn hay Dương ngôn). Khi nói chuyện với những người thích Dương ngôn thì nên dùng lời lẽ cao sang liên quan tới những sự vật thuộc Dương như đã nói ở phần trước, còn khi nói chuyện với những người thích Âm ngôn thì nên dùng ngôn từ thấp kém liên quan tới những sự vật thuộc Âm như đã nói ở phần trước. Như vậy chúng ta có thể làm xúc động kẻ tiểu nhân bằng Âm ngôn, và thuyết phục người quân tử bằng Dương ngôn. Như vậy có thể nói, du thuyết bằng thuật Bài hạp thì không có sự tình nào là không phán đoán được, không có người nào không nghe theo quyết sách của chúng ta, và không có người nào là không thể thuyết phục. Du thuyết bằng thuật Bài hạp thì có thể thuyết phục được mọi người, thuyết phục được các bậc đại phu, các bậc quân vương chư hầu, những người bá chủ thiên hạ,… Sự việc du thuyết có thể nhỏ bé đến vô hạn, có thể rộng lớn đến vô hạn, cần phải có quan điểm biện chứng rõ ràng và tầm nhìn bao quát. Lợi hại, đi về, qua lại đều là biểu hiện của đạo Âm Dương vận hành. Động là đặc trưng của đạo Dương, do vậy lấy hành động làm hình thức biểu hiện chính; Tĩnh là đặc trưng của đạo Âm, do vậy lấy đóng kín làm hình thức biểu hiện chính. Dương động sẽ biểu hiện rõ ràng, Âm dừng tất tiềm ẩn bên trong. Đạo Dương vượt quá cực hạn sẽ trở thành đạo Âm, đạo Âm vượt quá cực hạn sẽ trở thành đạo Dương. Dùng đạo Dương thúc đẩy sự vật, chính là để sự vật phát triển theo quy luật của bản thân nó; dùng đạo Âm an định sự vật, chính là để sự vật củng cố lại trạng thái của mình. Dùng đạo Dương tổng quát đạo Âm, chính là dùng quy luật bên trong chuẩn hóa hình thái bên ngoài; dùng đạo Âm để trợ giúp đạo Dương, chính là dùng hình thái bên ngoài làm ảnh hưởng tới bản chất bên trong. Âm Dương chuyển hóa lẫn nhau, tương sinh tương hóa, tập trung thể hiện rõ trong thuật Bài hạp. Đây chính là đạo Âm Dương trong giới tự nhiên và trong xã hội loài người, đây cũng chính là nguyên tắc cơ bản của người du thuyết. Nó là phép tắc đã định sẵn của vạn vật, là tất cả những gì quan trọng nhất của vật vô hình và hữu hình.
Cuốn “Quỷ Cốc Tử” mang đậm ý nghĩa triết học, nhìn từ góc độ thuật Tung Hoành du thuyết, thì cuốn sách đã khiến thực tiễn du thuyết đạt tới trình độ cao về triết học; Xét từ góc độ khác, thì học thuyết Âm Dương đã được ứng dụng rộng rãi, mở rộng sang cả lĩnh vực hoạt động chính trị, nhân sự cụ thể. Tư tưởng Âm Dương và bài hạp của cuốn sách này là nội dung chính của toàn bộ cuốn sách. Mỗi phần của cuốn sách này đều thể hiện rõ những tư tưởng trên.
ĐIỂN CỐ MƯU LƯỢC
Tư Mã Ý mê hoặc kẻ địch đoạt lại quyền lực
Về mặt chiến lược, biểu hiện của thuật Bài hạp là ở chỗ, dưới tiền đề “nhận rõ tình thế”, người quyết sách có thể chọn sách lược khác nhau tùy thuộc vào từng tình thế cụ thể. Khi gặp tình thế có lợi cho bản thân thì nên chọn chiến lược “bài” (mở), tích cực chủ động tấn công để giành thắng lợi về mình; khi gặp tình thế bất lợi cho bản thân thì nên chọn chiến lược “hạp” (khép), im lặng giấu mình, âm thầm chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ hành động. Chỉ khi biết vận dụng tốt thuật “Bài hạp” mới có thể trở thành người giành thắng lợi cuối cùng. Trong lịch sử, có không ít người đã vận dụng xuất sắc chiến lược này, như Tư Mã Ý là một ví dụ điển hình.
Tư Mã Ý là tướng lĩnh nổi tiếng thời Tam Quốc, là một nhân vật lịch sử quen thuộc của Trung Quốc. Trong trận Nhai Đình, ông đã trúng kế “Không thành” (thành không nhà trống) của Gia Cát Lượng, phải rút quân 30 dặm. Nhưng tới Ngũ Trượng Nguyên, ông đã nghĩ ra cách “lấy phòng thủ làm tấn công”, không thèm để ý tới kế khích tướng của Gia Cát Lượng, và đã chiến thắng Gia Cát Lượng. Trên vũ đài chính trị quân sự, ông cũng được coi là một vị tướng lĩnh xuất sắc, được Tào Tháo tin dùng. Sau khi Tào Tháo chết, Tào Phi lên ngôi hoàng đế, Tư Mã Ý đã trở thành tay chân đắc lực của Tào Phi, được Tào Phi hết lòng tin cậy. Trước khi Tào Phi chết, đã giao phó người kế vị là Tào Duệ cho Tư Mã Ý; Trước khi Tào Duệ chết lại giao phó người kế vị là Tào Phương khi đó mới 8 tuổi cho Tư Mã Ý. Có thể nói Tư Mã Ý là nguyên lão Tam triều của vương triều nhà Ngụy.
Tào Sảng
Tào Sảng tự Chiêu Bá, là đại thần nước Ngụy thời Tam Quốc, cháu trai của Tào Tháo. Khi Ngụy Minh Đế còn là thái tử Đông cung đã rất trọng dụng Tào Sảng. Khi Minh Đế bệnh nặng, đã trao quyền cho Tào Sảng và Tư Mã Ý cùng trợ giúp tiểu đế. Tề Vương lên ngôi, mọi quyền hành đều nằm trong tay Tào Sảng, Tào Sảng ngày càng trở nên độc đoán chuyên quyền, thậm chí còn dùng quyền lực vơ vét tài sản, ruộng vườn làm của riêng, lấy trộm vật cấm trong cung, thê thiếp nhiều không kể xiết. Sau này, Tào Sảng cũng anh em và vây cánh của ông ta đều bị xử tử, và tru di tam tộc.
Cùng trợ giúp Tào Phương, còn có đại tướng quân Tào Sảng.
Tư Mã Ý và Tào Sảng cùng nắm giữ quyền lực triều chính của Tào Ngụy. Mỗi người đều có hơn ba nghìn quân tinh nhuệ, thay phiên nhau điều hành chính sự. Mặc dù Tào Sảng là người của hoàng tộc, song lý lịch, danh tiếng, sự từng trải và tài cán đều kém xa Tư Mã Ý, bởi vậy mới đầu Tào Sảng rất coi trọng Tư Mã Ý, có phần kính nể, làm việc gì cũng hỏi ý kiến Tư Mã Ý, không dám độc đoán chuyên quyền, có thể nói quan hệ giữa hai người khá tốt đẹp. Khi đó, Tào Sảng có khoảng 500 thuộc hạ, trong đó có Hoa Quỹ, Hà Yến, Đặng Dương, Đinh Mật thường xuyên ở cạnh Tào Sảng, giúp Tào Sảng vạch mưu kế. Họ thường xuyên nói xấu Tư Mã Ý trước mặt Tào Sảng, cho rằng Tư Mã Ý có dã tâm lớn, hơn nữa, rất được dân chúng kính nể và coi trọng, như vậy chắc chắn sẽ được nhà vua tin tưởng và trọng dụng.
Tư Mã Ý
Tư Mã Ý là một vị tướng, một nhà chiến lược quân sự, một nhà chính trị kiệt xuất của vương triều Tào Ngụy trong thời kỳ Tam Quốc. Tài trí của ông có thể sánh ngang Chu Du, Lỗ Túc, Bàng Thống, Từ Thứ, Lục Tốn. Cuối thời Đông Hán, xã hội rối ren, loạn lạc, Tư Mã Ý đã ra đời trong bối cảnh như vậy, nên lúc nào cũng canh cánh trong lòng nguyện vọng bình thiên hạ. Suốt một thời gian dài, ông nắm giữ triều chính nhà Ngụy, nhiều lần dẫn quân tiến đánh Gia Cát Lượng, với công lao của mình, ông được phong làm Tuyên Vương. Sau này, cháu ông là Tư Mã Đàm lên ngôi hoàng đế, truy tôn ông là Tấn Tuyên Đế.
Vào tháng 2 niên hiệu Cảnh Sơ thứ 3, Tào Sảng xui bẩy Ngụy Đế hạ chiếu, bề ngoài ca tụng Tư Mã Ý, xưng ngợi ông là người đức cao vọng trọng, nên giữ chức quan cao cực phẩm, bởi vậy đã phong Tư Mã Ý từ thái úy lên thái phó. Mưu kế này thực chất là bề ngoài thăng chức nhưng kỳ thực lại là giáng chức, khiến cho binh quyền trong tay Tư Mã Ý đã bị tước đoạt, thế lực của ông giảm đi đáng kể. Mọi việc tấu trình sau đó đều phải qua Tào Sảng trước. Tào Sảng còn bổ nhiệm ba người em và tay chân thân tín của mình giữ những chức vụ quan trọng. Mọi quyền lực dường như đều nằm trong tay Tào Sảng, Tào Sảng trở nên lộng hành, làm mưa làm gió trong vương triều.
Tư Mã Ý sớm đã nhìn thấu tâm địa đoạt quyền của Tào Sảng và tay chân của ông ta. Ông vốn là người từng trải, có kiến thức uyên thâm, đương nhiên không thể bỏ qua vụ việc này. Mâu thuẫn giữa hai người ngày một rõ rệt, song Tư Mã Ý vẫn chưa tỏ thái độ giận dữ gì, ông vẫn lặng im quan sát tình thế, cho rằng hiện tại mình đang ở thế bất lợi, Tào Sảng vốn là người của tông thất, là cháu của Tào Tháo, rất có thế lực trong triều đình, còn ông chỉ là người ngoài, là đối tượng mà họ nhà Tào luôn nghi kỵ đề phòng, không thể có hành động phản kháng ngay lập tức. Thế là trước sự khuếch trương thanh thế của Tào Sảng, Tư Mã Ý đã chọn sách lược “hạp”, rút lui không phản kháng, trao hết quyền lực cho Tào Sảng, lấy lý do mình đã già yếu không còn muốn tham gia chính sự nữa. Chuyện này khiến Tào Sảng và tay chân của ông ta dần dần lơ là cảnh giác, tự cho rằng mọi quyền lực đã nằm trong tay rồi nên không còn gì phải lo lắng, nên suốt ngày vui chơi, sa vào tửu sắc, tiếng xấu ngày một vang xa. Sau này, Tào Sảng vẫn có chút nghi ngờ về bệnh trạng của Tư Mã Ý, sợ ông có âm mưu gì trong đó, nhân lúc tay chân thân tín của mình là Lý Thắng đi nhận nhiệm vụ ở Kinh Châu, đã lệnh cho Lý Thắng tới chào Tư Mã Ý, nhân cơ hội kiểm tra xem Tư Mã Ý bệnh thật hay giả.
Tư Mã Ý hiểu rõ dụng ý chuyến viếng thăm của Lý Thắng, tương kế tựu kế, đã giả vờ bị bệnh rất nặng, nằm bẹp trên giường rên hừ hừ, bên cạnh có hai nữ tỳ phục vụ, ông muốn lấy quần áo mặc, nhưng tay run rẩy làm rơi quần áo xuống đất. Ông chỉ vào miệng có ý nói muốn ăn, nữ tỳ bưng cháo lại, ông phải cố gắng đưa miệng tới gần bát để nữ tỳ xúc từng thìa bón cho ông, nước cháo chảy ra từ hai khóe miệng ông xuống trước ngực ông, khiến mảng áo trước ngực ướt nhoèn, cảnh tượng hết sức thảm hại. Lý Thắng nói với Tư Mã Ý: “Lần này hoàng đế phái tôi đi nhận nhiệm vụ ở Kinh Châu, tôi tới để tạm biệt thái phó”. Tư Mã Ý giả vờ mắt hoa tai điếc, nghe nhầm từ “Kinh Châu” thành “Tính Châu”, bèn nói: “Vậy thì vất vả cho ngươi quá, Tính Châu ở phía Bắc, tiếp giáp với người Hồ, ngươi phải chú ý phòng bị cho tốt. Bệnh của ta nặng lắm rồi, e rằng không còn dịp để gặp lại ngươi nữa, ta nhờ ngươi chăm sóc hai con trai của ta là Tư Mã Sư và Tư Mã Chiêu”. Lý Thắng bèn lớn tiếng Chú thích: “Tôi được bổ nhiệm tới Kinh Châu, chứ không phải tới Tính Châu”. Tư Mã Ý lại vờ như hiểu sai nói: “Ồ, thế hóa ra ngươi mới từ Tính Châu trở về à?”. Lý Thắng đành phải nói to hết cỡ để Chú thích lại một lần nữa, lần này Tư Mã Ý mới nghe ra, ông than thở: “Ôi, ta già thực rồi, tai điếc rồi, không nghe rõ những lời ngươi nói, ngươi được điều tới Kinh Châu thì tốt quá rồi, cố gắng mở mang sự nghiệp ở đó nhé”.
Tư Mã Chiêu
Tư Mã Chiêu tự Tử Thượng, là con trai thứ hai của Tư Mã Ý. Tư Mã Chiêu đã nắm giữ quyền lực trong triều Ngụy, quyền lực trước đó đã được cha mình là Tư Mã Ý thâu tóm được và đã được anh trai cả của mình là Tư Mã Sư duy trì. Ông là người đã đánh bại Thục Hán, khiến Lưu Thiện phải đầu hàng, xóa sổ Thục Hán. Sau khi lập nên nhà Tấn, con ông là Tư Mã Viêm (Tấn Vũ Đế) đã phong cha mình là Tấn Văn Đế, với miếu hiệu Thái Tổ.
Lý Thắng tới gặp Tào Sảng, bẩm báo lại toàn bộ sự việc mắt thấy tai nghe ở nhà Tư Mã Ý, và nhận xét rằng “Tư Mã Ý già yếu lắm rồi, tinh thần đã kiệt quệ, chỉ còn cái vỏ bọc bề ngoài thôi, không có gì phải lo lắng nữa”. Lúc này, Tào Sảng đã hoàn toàn tin rằng Tư Mã Ý bị bệnh nặng thật, không còn đề phòng Tư Mã Ý nữa.
Tư Mã Sư
Tư Mã Sư tự Tử Nguyên, con trai cả của Tư Mã Ý, bác của Tấn Võ Đế Tư Mã Đàm và là một trong những người đặt nền móng xây dựng nên nhà Tây Tấn. Tư Mã Sư là người kiên cường, cứng rắn, hơn nữa rất có tài vạch kế sách, sánh ngang với Hà Yến và Hạ Hầu Huyền. Tư Mã Sư từng cùng bố là Tư Mã Ý vạch mưu kế đánh bại Tào Sảng, giành quyền lực về tay họ Tư Mã. Mùa thu năm 251, Tư Mã Ý chết, Tư Mã Sư được thăng chức làm đại tướng quân phủ chính, thay cha khống chế toàn bộ triều đình nước Ngụy. Tư Mã Sư có tài năng quân sự hơn người, từng dùng mưu kế đánh bại Gia Cát Lượng. Sau khi nhà Tấn được lập nên, ông được truy tôn là Cảnh Hoàng Đế.
Vào tháng giêng năm Gia Bình nguyên niên, Ngụy Đế theo lệ thường dẫn toàn thể tông thất và quan đại thần văn võ trong triều ra ngoài thành viếng mộ Ngụy Minh đế. Anh em Tào Sảng và tay chân thân tín tháp tùng tiểu hoàng đế Tào Phương tới mộ trong tâm trạng thoải mái, không hề đề phòng cảnh giác. Tư Mã Ý “đang bệnh nặng” cho rằng thời cơ đã tới, bèn thực thi chiến lược “hạp”. Nhân dịp Tào Sảng điều động toàn bộ lực lượng ra ngoài, ông đã lập tức thực thi kế sách đã tính toán chu toàn bấy lâu, tập hợp lực lượng đã chuẩn bị sẵn, lập tức tiến hành đảo chính. Ông cùng hai con trai Tư Mã Sư, Tư Mã Chiêu thống lĩnh thuộc hạ, tấn công như vũ bão nhanh chóng chiếm lĩnh các vị trí chiến lược trọng yếu như cổng thành, kho lương, đồng thời dâng tấu lên Vĩnh Ninh Thái hậu, phế bỏ chức vụ Đại tướng quân của Tào Sảng, tước đoạt toàn bộ binh quyền của bọn họ. Lại đích thân thống lĩnh thái úy Tưởng Tế dẫn quân chặn cầu phao sông Lạc Thủy, phái người dâng tấu với Tào Phương, buộc tội Tào Sảng kìm chế và lũng đoạn triều đình, và yêu cầu cách chức Tào sảng cùng anh em của ông ta. Tào Sảng hoảng sợ không biết phải làm thế nào, thậm chí, dù đã được cố vấn là Hoàn Phạm gợi ý mang Tào Phương chạy đến kinh đô khác ở Hứa Xương để phát hịch gọi quân các trấn chống lại Tư Mã Ý, song Tào Sảng lại chọn cách đầu hàng với lời hứa của Tư Mã Ý rằng sẽ cho ông ta giữ lại mọi chức danh. Tuy nhiên, Tư Mã Ý nhanh chóng nuốt lời và hành quyết Tào Sảng cùng tất cả phe cánh cùng họ hàng của ông ta với tội danh tạo phản.
Tháng 2, Ngụy Đế phong cho Tư Mã Ý làm thừa tướng. Tháng 12 còn làm lễ chúc thọ ông và cho ông được hưởng sự ưu đãi vào triều không phải lễ bái. Có thể nói, Tư Mã Ý đã thâu tóm toàn bộ quyền lực quân sự và chính trị của nhà Ngụy trong tay.
Đây có thể coi là cuộc đảo chính nổi tiếng do Tư Mã Ý phát động, được lịch sử gọi là “sự biến lăng Cao Bình”.
Tư Mã Ý đã thành công. Nguyên nhân nào giúp ông có được thành công như vậy? Nghiên cứu kỹ sẽ thấy có những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, biết chờ đợi thời cơ. Khi Tư Mã Ý bị Tào Sảng chèn ép, ông hoàn toàn có thể đấu sức với Tào Sảng, song ông lại không làm vậy mà chọn kế sách “hạp” (im lặng, khép mình lại, chờ thời cơ tấn công), và phải chờ đợi mất chín năm mới lật đổ được Tào Sảng, trong chín năm này, Tào Sảng lộng hành ngang ngược, bị dân chúng oán hận, khi Tư Mã Ý lấy lại được danh tiếng thì ông được xem như là trụ cột của quốc gia, được dân chúng tin yêu và quý trọng.
Thứ hai, tấn công bất ngờ. Thời gian ấp ủ kế hoạch đảo chính có thể kéo dài, song thời gian thực hiện phải ngắn, cần phải tiến hành nhanh chóng trong tình trạng đối phương lơ là, mất cảnh giác và không có bất kỳ sự chuẩn bị nào.
Thứ 3, vấn đề binh quyền. Đây là mấu chốt quyết định sự thành bại của cuộc đảo chính, cũng là vấn đề mà bất cứ người phát động đảo chính nào cũng cần phải giải quyết đầu tiên. Muốn gây biến động chính trị thì vừa cần có lực lượng hậu thuẫn phía sau, lại vừa cần có lực lượng phía trước mở đường.
Thứ 4, nói rõ tội danh. Bất cứ người phát động đảo chính nào cũng cần nói rõ tội danh của đối thủ để thể hiện rằng chính nghĩa đang nằm trong tay mình. Nếu đối thủ quả thực tội ác tày trời thì nói rõ tội ác đó ra; còn nếu đối thủ không có tội, cũng phải tìm cách tạo dựng ra tội trạng.
Tuy nhiên, điểm mấu chốt nhất khiến Tư Mã Ý đảo chính thành công nằm ở chỗ ông biết vận dụng khéo léo thuật Bài hạp. Khi bản thân ở tình thế bất lợi, ông đã khép mình lại, nhường vũ đài cho đối phương, khiến đối phương lơ là cảnh giác, từ đó tấn công lại và đã giành chiến thắng. Có thể thấy, lúc nào cần “bài” (mở), lúc nào cần “hạp” (khép) là điểm mấu chốt quyết định thành công cuối cùng.
Lưu Tú thành công nhờ nhẫn nại
Từ xưa tới nay, để làm nên việc lớn, con người nhất định phải có lòng nhẫn nại. Nhẫn nại là trạng thái tâm lý của kẻ mạnh, đây chính là ý chí “chưa đạt được mục đích thì quyết không từ bỏ”. Nhẫn nại đòi hỏi con người phải có con mắt nhìn xa trông rộng và xuyên suốt, chỉ có vậy mới có được khả năng quyết sách và năng lực hành vi hơn người. “Giỏi nhẫn nại và biết chờ đợi thời cơ tới để hành động” chính là nội dung trọng tâm của thuật “sách hạp”.
Anh trai của Lưu Tú là Lưu Diễn sớm chiêu tập binh sĩ chống lại Vương Mãng, nên tiếng tăm vang xa, được dân chúng hết lòng tin yêu, điều này lại khiến Canh Thủy hoàng đế Lưu Huyền sinh lòng ghen ghét, kết cục Lưu Diễn đã bị xử tử tại Uyển Thành.
Niên hiệu Địa Hoàng thứ 4, nhằm xây dựng lực lượng binh sĩ hùng hậu, tăng cường uy thế, tướng lĩnh quân khởi nghĩa cho rằng cần phải tìm một người thuộc tông thất họ Lưu để tôn làm hoàng đế, họ đã nhắm vào Lưu Huyền - một người bản tính nhu nhược, lại không có binh quyền trong tay nên dễ kiểm soát, bèn phong Lưu Huyền làm hoàng đế, xây dựng nên chính quyền “Canh Thủy”. Trong trận chiến tấn công Uyển Thành và Côn Dương, hai anh em Lưu Diễn và Lưu Tú đã lập công xuất sắc mang lại thắng lợi chung cuộc, danh tiếng của họ nổi như cồn trong quân khởi nghĩa. Mặc dù Lưu Diễn không công khai tranh giành ngôi vị hoàng đế, song tay chân của Lưu Diễn lại cảm thấy bất bình vì Lưu Diễn không được làm hoàng đế. Do đó, khi Lưu Huyền xưng đế, Lưu Tắc đã giận dữ nói: “Có được thành công trong trận chiến này là do anh em Lưu Diễn và Lưu Tú, còn người xưng đế kia đâu làm được cái trò gì?” Lưu Huyền từ đó nuôi mối hận trong lòng, bèn bổ nhiệm Lưu Tắc làm tướng quân kháng uy (tức là tướng quân chống lệnh vua) để cảnh cáo. Lưu Tắc không chịu nhận chức, Lưu Huyền lập tức lệnh cho người bắt Lưu Tắc mang đi xử chém. Lưu Diễn có mặt ở đó đã phản đối, đòi thu lệnh chém. Một số người vốn sẵn lòng đố kỵ những tướng lĩnh này, luôn muốn trừ khử đại thần Lưu Diễn, nhân lúc này đã khuyên Lưu Huyền xử trảm luôn Lưu Diễn với tội đồng mưu phản nghịch. Vừa hay những lời khuyên này cũng là ý của Lưu Huyền, vậy là Lưu Huyền nhân cơ hội xử chém luôn Lưu Diễn và Lưu Tắc.
Lưu Tú
Lưu Tú tức Hán Quang Vũ Đế, tự Văn Thúc, miếu hiệu Thế Tổ, là người Thái Dương, Nam Dương. Ông là cháu chín đời của Hán Cao Tổ Lưu Bang, từng tham gia khởi nghĩa Lục Lâm chống lại chính quyền Vương Mãng, Hán Quang Vũ Đế đã ly khai khỏi chính quyền mới của Lục Lâm, đánh bại các lực lượng cát cứ và thống nhất quốc gia, mở ra thời kỳ thịnh trị của Trung Quốc sau nhiều năm biến động. Ông trị vì đất nước từ năm 25 đến năm 57.
Khi tin tức này đến tai Lưu Tú, ông không khỏi kinh ngạc, phẫn nộ, uất ức và đau buồn nữa, song ông vẫn tỏ ra bình thản đến lạ kỳ. Lúc này, ông hiểu rõ rằng mình đang ở thế bất lợi, chỉ cần tỏ ý chống đối là mất đầu như chơi. Thế là, ông đã chọn sách lược “hạp” tỏ rõ thái độ hợp tác, vội vã tới triều kiến Canh Thủy để tạ tội. Cũng kể từ đó ông không bao giờ nhắc tới công lao của mình trong trận Côn Dương trước mặt người khác nữa. Ông cũng không để tang Lưu Diễn, hàng ngày vẫn cười nói vui vẻ như không có chuyện gì xảy ra, biểu hiện vui tươi của ông dần dần khiến Canh Thủy Đế cho rằng ông không hề có oán hận gì, hơn nữa còn cảm thấy mình có lỗi với anh em nhà họ Lưu, và đã phong Lưu Tú làm Phá lỗ Đại tướng quân (tướng quân phá địch) và tước Võ Tín Hầu. Như vậy, Lưu Tú đã tránh được họa diệt thân. Kỳ thực, Lưu Tú rất khổ tâm, nén chặt uất hận tới tận đáy lòng, ông thường khóc thầm một mình, quyết tâm phục thù cho người anh, cuối cùng ông đã cướp được ngôi vị hoàng đế của Lưu Huyền.
Ba tháng sau, Lưu Tú với cương vị là Phá lỗ Đại tướng quân đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, danh tiếng bay xa, ông thu nạp nhân tài, chiêu binh mãi mã, bắt đầu sự nghiệp thống nhất đất nước.
Quỷ Cốc Tử nói: “Dương động nhi hành, Âm chỉ nhi tàng; Dương động nhi xuất, Âm tùy nhi nhập; Dương hoàn chung Âm, Âm cực phản Dương”. Lưu Tú đã chọn sách lược “Âm”, tạm thời im lặng, nhẫn nại cầu toàn, để rồi khi “Dương” động thì xuất, và đã thành công.
Tử Cống du thuyết bốn nước để cứu Lỗ
Khi du thuyết, mưu sĩ có thể tùy thuộc vào từng đối tượng và tình huống cụ thể để vận dụng kỹ xảo “bài hạp”, miễn sao đạt được thành công cuối cùng. Thời Xuân Thu là thời kỳ “loạn lạc, coi trọng du thuyết”, thời kỳ này xã hội rối ren, các nước không ngừng dấy binh chinh phạt lẫn nhau, chiến tranh triền miên, nhân dân không được sinh sống yên ổn.
Tề và Lỗ là hai nước láng giềng của nhau, quan hệ giữa hai nước lúc tốt lúc xấu. Khi Tề Giản Công tại vị, Trần Hằng vì có công lập Tề Giản Công lên ngôi nên được phong làm Hữu tướng, nắm quyền lực trong tay, Trần Hằng quyết dẫn binh đi đánh nước Lỗ để rửa mối thù nước này từng cấu kết với nước Ngô vây đánh nước Tề. Trần Hằng đóng quân ở sông Vấn Thủy, thề rằng không diệt được nước Lỗ quyết không trở về.
Lúc này, Khổng Tử đang ở nước Lỗ biên soạn thi thư, kinh ngạc nhận được tin quân Tề đang vây đánh nước Lỗ. Không thể khoanh tay ngồi nhìn đất nước bị tiến đánh, ông đã gọi các đồ đệ lại hỏi ai có thể đi sứ sang nước Tề để đẩy lui quân địch? Tử Trương, Tử Thạch đều xung phong, song Khổng Tử không đồng ý, nhưng khi Tử Cống xin đi thì Không Tử vui vẻ đồng ý. Tử Cống vội vàng gói ghém đồ đạc tư trang, tức tốc tới Vấn Thủy cầu kiến Trần Hằng.
Khổng Tử
Khổng Tử, còn gọi là Khổng Phu Tử, là một nhà tư tưởng, nhà giáo dục cuối thời Xuân Thu, ông là người sáng lập nên học phái Nho học. Trước khi sinh ra Khổng Tử, bố mẹ ông đã tới núi Ni Khâu để cầu tự, do đó, đã đặt tên cho ông là Khâu, tự Trọng Ni. Ông là người ấp Trâu, nước Lỗ, từng biên soạn “Thi”, “Thư”, định ra “Lễ”, “Nhạc”, viết bài tựa cho “Chu Dịch” sáng tác “Xuân Thu”. Có thể nói, tư tưởng và học thuyết của Khổng Tử có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc tới thế hệ sau.
Trần Hằng biết Tử Cống là nhân vật quan trọng của Khổng môn, đã tới đây chắc chắn sẽ làm thuyết khách, giải nguy cho nước Lỗ, do vậy đã tiếp đón Tử Cống với một bộ mặt lạnh lùng. Tử Cống vẫn bình thản như không, trò chuyện rất thoải mái, tự nhiên.
Trần Hằng muốn đi thẳng vào vấn đề, bèn truy hỏi Tử Cống: “Tiên sinh đến đây chắc là làm thuyết khách cho nước Lỗ?”
Câu trả lời của Tử Cống lại nằm ngoài dự đoán của Trần Hằng, ông nói: “Tứ (tên của Tử Cống) tới đây là vì Tề chứ không phải vì Lỗ, Lỗ là nước khó đánh thắng, tướng quốc sẽ đánh như thế nào?”
Trần Hằng nghi hoặc hỏi lại: “Nước Lỗ khó đánh thắng như thế nào?”
Tử Cống bèn nói: “Thành mỏng lại thấp, hào nhỏ lại nông, vua yếu, đại thần lại không có tài cán, quân sĩ không quen đánh nhau, bởi vậy khó đánh thắng!”
Trước những lời nói ngược đầy khó hiểu của Tử Cống, Trần Hằng còn đang ngạc nhiên chưa kịp hỏi lại thì Tử Cống đã nói tiếp: “Tướng quốc nên nghĩ lại, chi bằng tiến đánh Ngô, Ngô thành cao mà hào lại rộng, quân sĩ tinh nhuệ, lại có tướng giỏi trấn giữ nên tấn công cực dễ.”
Trần Hằng nghe xong, vô cùng tức giận mà quát lớn: “Ngươi ăn nói hồ đồ, thật giả lẫn lộn, thực khiến người khác khó hiểu”.
Tử Cống đã có sẵn mưu kế trong đầu nên không hề sợ hãi trước cơn thịnh nộ của Trần Hằng, trái lại còn nhẹ nhàng nói: “Tướng quốc cho người lui hết ra thì tôi mới Chú thích rõ vì sao lại như vậy”.
Trần Hằng không hiểu Tử Cống có mưu đồ gì, nên đành phải cho quân lui hết ra để nghe Tử Cống Chú thích.
Tử Cống thấy Trần Hằng nôn nóng sốt ruột lắm rồi, song ông vẫn nói một cách chậm rãi: “Có câu nói ‘nguy hiểm ở ngoài thì nên đánh nước yếu, nguy hiểm ở trong thì nên đánh nước mạnh’, Tứ trộm nghĩ tình thế của Tướng quốc trong nước, có vẻ như không được chung sống hòa mục với các đại thần khác, ngày hôm nay đánh thắng nước Lỗ yếu ớt sẽ là công của các đại thần, mà không liên quan gì tới Tướng quốc, như vậy lại khiến cho thế của các đại thần sẽ ngày một mạnh lên, còn thế của tướng quốc sẽ ngày một yếu đi. Nếu chuyển hướng đánh Ngô thì thế của các đại thần sẽ giảm đi do gặp kẻ địch mạnh, như vậy thì Tướng quốc vẫn có thể chuyên chế nước Tề, chẳng phải đó là kế sách hay hay sao?”
Những lời nói của Tử Cống đã đánh trúng vào dã tâm của Trần Hằng, ông ta lập tức đổi giận thành mừng, và cầu cứu Tử Cống: “Tiên sinh nói rất đúng, tuy nhiên đại binh đã đóng ở Vấn Thủy rồi, nếu chuyển sang đánh nước Ngô thì mọi người sẽ nghi ngờ ta, làm thế nào?”
Tử Cống thong thả nói: “Chỉ cần án binh bất động, để tôi xuống phía nam diện kiến vua Ngô, cầu cứu nước Ngô diệt Tề cứu Lỗ, nếu được như vậy thì quân Tề tiến đánh nước Ngô sẽ không có điều gì sai cả”.
Đoan Mộc Tứ
Đoan Mộc Tứ tự là Tử Cống, là một trong thất thập nhị hiền của Khổng môn, có tài đoán định như thần. Khổng Tử từng gọi ông là “cỗ máy hồ liên” (nghĩa là vô cùng tài giỏi). Ông giỏi ăn nói, có tài hùng biện, làm việc gì cũng thông suốt. Từng làm tướng của hai nước Lỗ và Vệ. Ông còn có tài kinh doanh buôn bán, từng đi lại buôn bán giữa hai nước Tào và Lỗ, ông rất giàu có, có thể nói giàu nhất trong số đồ đệ của Khổng Tử.
Trần Hằng nghe vậy mừng lắm, nói với đại tướng quân Quốc Thư: “Nghe đồn nước Ngô sắp tiến đánh nước Tề để cứu nước Lỗ, quân ta tạm thời đóng ở Vấn Thủy, không được tùy tiện hành động, phải nghe ngóng tình hình của quân Ngô, trước hết tiêu diệt quân Ngô, sau đó mới tiến hành đánh Lỗ.”
Đại tướng quân Quốc Thư tin là thật, án binh bất động, chuyển hướng sang nước Ngô.
Câu Tiễn
Năm 496 TCN, Câu Tiễn lên ngôi chưa được bao lâu đã đánh bại nước Ngô. Hai năm sau đó, vua Ngô Phù Sai dẫn quân tiến đánh nước Việt để phục thù, Phù Sai đã chiến thắng, cho nước Việt đầu hàng, tuy nhiên đã bắt Câu Tiễn về nước Ngô, hầu hạ vua Ngô. Sau 3 năm phục dịch và chịu nhục cùng với vợ ở nước Ngô, ông đã giành được sự tin tưởng của Phù Sai và được vua Ngô cho quay về nước Việt. Ông lại tiếp tục cai trị và tiến hành những cải cách lớn tại nước Việt. Trong thời gian này, ông rất trọng dụng Văn Chủng và Phạm Lãi là những nhà quân sư chính trị, quân sự tài ba để xây lại nước Việt. Sau hơn 10 năm phục hưng kinh tế, quân sự và cải cách chính trị, nước Việt đã trở nên hùng mạnh và cuối cùng đã thôn tính nước Ngô vào năm 473 TCN. Ngô Vương Phù Sai bị buộc phải tự vẫn.
Tử Cống xuống phía nam vào nước Ngô, bái kiến vua Ngô Phù Sai nói: “Trước đây Ngô, Lỗ liên quân phá Tề, người Tề oán hận tận xương tủy. Hiện nay, nước Tề đang đóng quân ở Vấn Thủy, sắp đánh nước Lỗ, lần này tất liên lụy tới nước Ngô. Đại vương có thể đánh Tề cứu Lỗ không? Đại vương phá vỡ được nước Tề mà thu phục được nước Lỗ thì uy danh lừng lẫy hơn cả nước Tấn, chẳng phải nước Ngô sẽ hùng mạnh thêm hay sao?”
Những lời nói này của Tử Cống vừa hay cũng hợp với ý nguyện của vua Ngô. Bởi vậy, vua Ngô nói: “Khi trước, nước Tề đã tình nguyện xin thần phục nước Ngô, vì thế ta mới rút quân về, nay chẳng thấy triều cống chi cả, ta vẫn định đem quân sang hỏi tội một phen. Nhưng nghe nói vua Việt Câu Tiễn đang luyện binh rèn võ, có ý muốn đánh Ngô, ta đang muốn đánh nước Việt trước, sau đó tiến quân lên phía bắc đánh Tề cũng chưa muộn”.
Tử Cống nghe vậy vội nói: “Không được, không được, nước Việt yếu, còn nước Tề mạnh, đánh Việt thì lợi ít, còn thả Tề thì họa lớn, nếu đánh Việt yếu lại tránh Tề mạnh thì còn gì là dũng nữa, chạy theo cái lợi nhỏ mà quên cái họa lớn thì còn gì là trí nữa. Trí, dũng đều mất thì làm sao còn đòi tranh bá đây? Nếu đại vương vẫn lo lắng về nước Việt thì thần sẽ giúp đại vương sang phía đông yến kiến vua Việt, xin vua Việt đem quân theo hầu đại vương đi đánh nước Tề, đại vương nghĩ thế nào?”
Vua Ngô Phù Sai nghe vậy, vô cùng vui mừng nói: “Nếu được như vậy thì còn gì bằng nữa”.
Tử Cống cáo từ Phù Sai rồi sang yết kiến vua Việt là Câu Tiễn. Câu Tiễn nghe nói Tử Cống sắp đến, thân hành ra đón ở ngoài ba mươi dặm, cung kính nói với Tử Cống: “Tiên sinh không quản đường xá xa xôi vạn dặm tới Đông Hải hẻo lánh này không biết có gì chỉ bảo?”.
“Tới để viếng nhà vua” Lời nói của Tử Cống khiến vua Việt giật mình kinh hãi. Tuy nhiên, ông chịu khổ đã quen, không phải là người hèn nhát, nghe Tử Cống nói vậy, tuy trong lòng rất kinh sợ, song không biểu hiện ra bên ngoài, vẫn cung kính nói: “Quả nhân nghe nói họa phúc là bạn của nhau, tiên sinh tới viếng quả nhân, chính là phúc của quả nhân rồi, xin hãy nói có chuyện gì vậy?”
Tử Cống nói: “Tôi mới vào yết kiến vua Ngô, xin vua Ngô đánh Tề cứu Lỗ, vua Ngô nghi ngờ nước Việt có mưu đồ làm phản, nên đã quyết tâm đánh Việt trước. Nếu đại vương không có chí báo thù mà khiến cho người ta nghi, thì thật là vụng lắm? Nếu có chí báo thù mà khiến cho người ta biết, thì thật là nguy lắm!”.
Câu Tiễn nghe xong, vô cùng kinh ngạc, vội quỳ xuống nói: “Tiên sinh có thể nghĩ cách cứu nước Việt không?”
Tử Cống phân tích căn kẽ tình hình trước mắt với vua Việt bằng giọng điệu rất thành khẩn: “Vua Ngô kiêu ngạo mà ưa nịnh. Bá Hy chuyên quyền mà tham lam. Nay đại vương dùng đồ lễ hậu và lời nói ngọt, rồi xin một toán quân theo Ngô đánh Tề, kẻ kia đánh mà thua thì từ đó suy yếu đi; nếu đánh mà được thì tất sinh lòng kiêu ngạo, muốn làm bá chủ chư hầu, chắc phải đem quân đánh Tần. Như thế thì nước Việt mới có dịp thừa thế sang đánh Ngô được.”
Lúc này, Câu Tiễn như bừng tỉnh ngộ, lại cung kính nói: “Đúng là trời phái tiên sinh tới đây cứu giúp, khác nào quả nhân chết mà sống lại, quả nhân quyết nghe theo lời tiên sinh”. Câu Tiễn sai người dâng tặng Tử Cống tiền bạc, một thanh bảo kiếm và hai con ngựa tốt.
Tử Cống kiên quyết không nhận, còn tới gặp vua Ngô nói: “Vua Việt cảm ơn đại vương trả lại mạng sống cho, nghe nói đại vương nghi ngờ nên sợ lắm, sắp sửa sai người tới tạ tội”.
Vua Ngô mời Tử Cống ở lại chơi, quả nhiên tới ngày thứ 5 thì nước Việt sai Văn Chủng đến nước Ngô làm sứ giả, mang theo binh khí lễ vật tới, Văn Chủng tâu với vua Ngô rằng: “Kẻ tôi hèn ở Đông Hải là Câu Tiễn đội ơn đại vương không giết, cho được sống để cúng tế, dẫu chết cũng chưa đủ đền ơn. Nay nghe nói đại vương vì nghĩa mà đánh kẻ mạnh, cứu kẻ yếu, Câu Tiễn xin được hỏi ngày giờ xuất binh, để tuyển lựa ba nghìn quân đi theo để xông pha trong chốn mũi tên hòn đạn, dẫu chết cũng không dám từ chối”.
Phù Sai nghe những lời nói này, hả dạ vô cùng, triệu Tử Cống lại nói: “Câu Tiễn thật là người tín nghĩa! hắn định đem ba nghìn quân theo ta đánh Tề, tiên sinh nghĩ thế nào?”
Tử Cống nói: “Không nên. Ta đã dùng quân Việt mà lại cho vua Việt theo đi thì cũng quá lắm. Đại vương nên nhận cho quân Việt theo mà từ chối không cho vua Việt đi”.
Phù Sai nghe lời Tử Cống.
Tử Cống cáo từ nước Ngô, lại đi sang nước Tấn, khuyên Tấn hầu rằng: “Thần nghe nói: ‘hễ không lo xa thì tất có hại gần’, nay Ngô sắp sửa đánh Tề, Ngô đánh mà được Tề thì tất cùng Tấn tranh nhau làm bá chủ, nhà vua nên luyện tập quân sĩ để mà đợi sẵn”. Tấn hầu vô cùng cảm kích, mặt khác cũng vô cùng tức giận trong lòng. Khi Tử Cống trở về nước Lỗ thì quân Tề đã bị quân Ngô đánh thua rồi. Nhờ vậy đã giải nguy cho nước Lỗ.
Nhờ tài ăn nói của mình, Tử Cống đã trở thành người lãnh đạo của cả 4 nước, biến một tể tướng và ba ông vua thành những quân cờ trong tay muốn đặt đâu thì đặt. Những vị vua và tướng này đều ngoan ngoãn nghe theo sự sắp xếp của Tử Cống. Khi du thuyết với tướng Tề Trần Hằng, Tử Cống đã dùng kế sách “bài” để gây sự phẫn nộ trong Trần Hằng, khiến ông ta phải nghi ngờ, lo lắng, và rồi lại khéo léo gỡ rối cho Trần Hằng, khiến ông ta hoàn toàn bị thuyết phục; Ông cũng áp dụng kế sách “bài” đối với vua Ngô và được vua Ngô hết sức tin tưởng và cảm kích; Khi du thuyết vua Việt và vua Tấn, ông thẳng thắn nói rõ sự lợi hại mà các vua này có được và đều nhận được sự đồng tình. Sau đó, trong suốt quá trình này, Tử Cống lại dùng sách lược “hạp”. Mục đích thực sự của Tử Cống là cứu Lỗ, nhưng từ đầu tới cuối ông đều không đả động gì tới mình, giấu kín ý đồ thực sự của mình, cuối cùng đã dùng sách “bài” để đạt mục đích “hạp”.
Người lính cứu vua Triệu nhờ tài ăn nói
Sau khởi nghĩa Đại Trạch Hương, quý tộc Lục quốc và những người như Trần Thắng tranh nhau tự lập làm vua.
Người xưng vua đầu tiên đương nhiên là Trần Thắng, tiếp đến là bạn cũ của Trần Thắng là Võ Thần, rồi đến Điền Đam, Ngụy Cữu, Hàn Quảng. Trần Thắng lấy quốc hi